Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may hà nội...

Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may hà nội

.PDF
98
10282
37

Mô tả:

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội.” 1 Mục lục Lời mở đầu 1 Chương 1 : Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực cạnh tranh 1 của các doanh nghiệp Việt Nam 1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam 1 1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử hình thành 1 1.1.1.1. Lịch sử ngành dệt may 1 1.1.1.2. Ngành dệt may Việt Nam 5 1.1.2. Thực trạng về ngày dệt may hiện nay 7 1.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam trong 9 điều kiện Việt Nam là thành viên WTO 1.1.3.1 Cơ hội 9 1.1.3.2. Thách thức 10 1.2. Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của 12 doanh nghiệp 1.2.1. Cạnh tranh 12 1.2.1.1. Khái niệm 12 1.2.1.2. Vai trò của cạnh tranh 14 1.2.2. Các lý thuyết về năng lực cạnh tranh 15 1.2.2.1. Lý thuyết về môi trường bên ngoài - môi trường vĩ mô ( PEST ) 15 1.2.2.2. Lý thuyết môi trường ngành ( Mô hình Porter ) 16 1.2.2.3. Lý thuyết về môi trường bên trong doanh nghiệp 18 1.2.2.4. Lý thuyết phân tích SWOT 20 1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 22 Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành dệt của Tổng 25 công ty dệt may Hà Nội 2.1. Tổng quan về tổng công ty dệt may Hà Nội 25 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu tổ chức của công ty 25 2 2.1.1.1. Lịch sử hình thành 25 2.1.1.2. Quá trình phát triển 25 2.1.1.3.Các phòng ban của công ty 29 2.1.2. Các lĩnh vực hoạt động chính của công ty 30 2.1.3. Đặc điểm quy trình công nghệ 32 2.2. Thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty 33 2.2.1. Tình hình chung của công ty 33 2.2.2. Thực trạng kinh doanh của công ty 40 2.3. Thực trạng cạnh tranh của công ty 54 2.3.1 Phân tích thực trạng cạnh tranh của công ty 54 2.3.1.1. Phân tích môi trường bên ngoài Hanosimex, môi trường vĩ mô (mô hình PEST) 54 2.3.1.2. Môi trường ngành 57 2.3.1.3. Mô hình chuỗi giá trị bên trong doanh nghiệp 59 2.3.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty 60 2.3.3 Các chiến lược cạnh tranh của công ty 65 Chương 3 : Một số kiến nghị và giải pháp 70 3.1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 70 3.1. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp 71 Việt Nam nói chung và công ty nói riêng. 3.2. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành dệt may 86 Kết luận 92 Danh mục tài liệu tham khảo 3 Lời mở đầu Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới, đó là quy luật tất yếu. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, đó không chỉ là tin vui đối với nền kinh tế mà của tất cả các ngành nghề nói riêng. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn vươn mình đứng dậy như Thánh Gióng, nhưng đồng thời cũng đối mặt với những khó khăn thách thức không nhỏ - sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường, đặc thù của mọi nền kinh tế. Là một tế bào của nền kinh tế Việt Nam, qua những giai đoạn phát triển thăng trầm, ngành dệt may cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Năm 2007 chứng kiến sự bứt phá mạnh mẽ của ngành dệt may trên thị trường thế giới cũng như khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế quốc tế, trước những thay đổi về chất và lượng của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO, lại may mắn được rèn luyện và tìm hiểu trong môi trường năng động của ngành dệt may, trong một công ty có bề dày truyền thống và kinh nghiệm như tổng công ty dệt may Hà Nội, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội” để tìm tòi và phát triển. Bài viết của em được trình bày theo ba chương như sau Chương 1: Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO Chương 2 : Thực trạng năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội. Chương 3 : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội, chú ý ngành dệt. Trong suốt quá trình tìm tòi nghiên cứu em đã nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Như Bình và các thầy cô giáo trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên bài viết của em không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót do năng lực có hạn của bản thân. Em mong nhận 4 được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Như Bình để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! 5 Chương 1 : Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam 1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử hình thành 1.1.1.1. Lịch sử ngành dệt may Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người. Sau thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài người đã bắt chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên liệu. Theo các nhà khảo cổ thì sợi lanh là nguyên liệu dệt may đầu tiên của con người. Sau đó sợi len xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà và sợi bông ở ven sông Indus. Trong thời kỳ cổ đại, may dệt cũng tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng và sinh hoạt kinh tế: các dân tộc sống về chăn nuôi dùng len (Lưỡng Hà, Trung Đông và Trung Á), vải lanh phổ biến tại Ai Cập và miền Trung Mỹ, vải bông tại Ấn Độ và lụa (tơ tằm) tại Trung Quốc. Các dân tộc Inca, Maya, Tolteca, v.v. tại châu Mỹ thì dùng các sợi chuối và sợi thùa. Theo Kinh Thi của Khổng Tử, tơ tằm được tình cờ phát hiện vào năm 2640 trước Công nguyên. Sau khi vua Phục Hy, vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, khuyến khích dân chúng trồng dâu nuôi tằm, tơ lụa trở thành một ngành phồn thịnh, một trong những hàng hoá đầu tiên trao đổi giữa Đông và Tây. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc là nước duy nhất sản xuất và xuất khẩu lụa và tơ tằm. Con Đường Tơ Lụa, còn được truyền tụng đến ngày nay, không chỉ là địa bàn của các nhà buôn mà còn mở đường cho các luồng giao lưu văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo, và cả các cuộc viễn chinh binh biến. Tuy các kỹ thuật may dệt đã mau chóng đạt mức độ tinh vi, có khi thành cả nghệ thuật, nhưng trong suốt 5 ngàn năm, con người vẫn chỉ dùng các nguyên liệu tự nhiên, lấy từ cây cỏ như các sợi bông, sợi đay, sợi gai dầu, sợi lanh, hay từ thực vật như da, sợi len, tơ tằm, v.v. Vì thế sản xuất bị giới hạn, vải vóc vẫn là sản phẩm quí, những y phục gấm vóc dành cho giai cấp quí tộc, thượng lưu, đại đa số 6 dân chúng chỉ mặc vải thô, quanh quẩn với một vài màu mè kiểu cọ. Mãi đến giữa thế kỷ 18, với cuộc cách mạng kỹ nghệ bên Anh và sự ra đời của các máy dệt cơ khí hoá, chạy bằng hơi nước, ngành dệt mới thật sự ra khỏi sản xuất thủ công để trở thành một kỹ nghệ. Tuy nhiên, con người vẫn còn lệ thuộc vào thiên nhiên, và nhiều nhà khoa học ở Âu Châu tìm tòi cách làm ra một loại sợi nhân tạo có thể sản xuất hàng loạt, với giá rẻ. Phải đợi đến năm 1884, một người Pháp, bá tước Hilaire Bernigaud de Chardonnet mới phát minh một cách chế tạo tơ nhân tạo, sau 6 năm nghiên cứu. Ông Chardonnet được coi như cha đẻ của kỹ nghệ sợi hoá học là chữ gọi chung cho các sợi nhân tạo và sợi tổng hợp. Mục đích của ông khi tìm cách làm tơ nhân tạo là để bình dân hoá vải vóc, để bất cứ ai cũng có thể có được những bộ quần áo lụa là cho tới lúc ấy chỉ dành cho một thiểu số. Ông đã thành công hơn dự kiến vì kỹ nghệ phát sinh từ các sáng chế của ông đã dẫn đến cả một cuộc cách mạng trong may mặc, biến thời trang thành một hiện tượng quần chúng trong mọi nước. Ngành dệt may từ đó cũng phát triển ngày càng nhanh, cùng với đà tiến triển của kinh tế và thương mại. Từ 1889 đến 1939, phải sau 50 năm sản lượng sợi hoá học trên thế giới mới đạt mức 1 triệu tấn một năm, nhưng chỉ 12 năm sau đã tăng gấp đôi, và cứ thế tăng vọt. Năm 1900, trên thế giới có 1,6 tỷ người, tiêu thụ 3,8 triệu tấn sợi, hầu như toàn bộ là các sợi tự nhiên - bông (81%) và len (19%)-, số sợi hoá học dưới 1000 tấn. Năm 1975, thế giới tiêu thụ 26 triệu tấn sợi, trong đó 50% bông, 6% len và 44% sợi hoá học. Như thế, chỉ trong 3 phần tư thế kỷ, số lượng tiêu thụ đã nhân lên 4,3 lần cho sợi bông, 2,2 lần cho sợi len, và 11 000 lần cho sợi hoá học. Mức tăng trưởng phi thường này tuy thế khựng lại sau năm 1973, vì cuộc khủng hoảng về dầu lửa và giai đoạn kinh tế suy thoái sau đó. Ngoài ra, vì dầu hoả là nguyên liệu chính của sợi hoá học, khuynh hướng thay thế các sợi tự nhiên bằng sợi hoá học cũng chậm lại và ngày nay sợi tự nhiên, chủ yếu là bông, vẫn tồn tại trên thị trường, và sợi hóa học chỉ chiếm đa số với khoảng 60% . 7 Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng. Có thể hiểu tại sao ngành dệt may đã đi liền với sự phát triển của các nước công nghiệp, cùng với sắt thép là hai ngành vừa được ưu tiên thừa hưởng những phát minh kỹ thuật vừa là động cơ chuyển biến cả nền kinh tế từ thủ công sang công nghiệp trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ. Điều này cũng giải thích tại sao các nước công nghiệp vẫn quyết tâm bảo vệ ngành dệt may nội địa trước sự cạnh tranh của các nước nghèo, từ thập niên 1970 trở đi, khi các nước này tập trung xây dựng ngành này thành trọng điểm của chiến lược phát triển. Và tại sao đó cũng là một trong những mối tranh chấp căng thẳng từ nhiều năm trong quan hệ thương mại giữa các nước giàu và nghèo. 1.1.1.2. Ngành dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời. Tù hàng nghìn năm nay người Việt đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, lanh, gai, đay, và các cây có xơ để kéo sợi, dệt vải làm nguyên liệu cho ngành may mặc phục vụ cho đời sống hàng ngày và trong tang lễ, hội hè, đình đám. Bằng chứng cho sự phát triển này là đến này vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: lụa Vạn Phúc, khăn Phùng Xá, dệt làng Mẹo, thổ cẩm Mai Châu… Tuy vậy phải đến cuối thế kỷ XIX ngành dệt may mới manh nha hình thành và phát triển trong hình hài một ngành công nghiệp Ngành dệt may Việt Nam có thể chia làm 2 giai đoạn Giai đoạn từ thời Pháp thuộc đến năm 1975: viên gạch đầu tiên đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam là sự ra đợi của một 8 vài xí nghiệp có quy mô sản xuất công nghiệp như công ty bông vải Bắc kỳ tiền thân của công ty dệt Nam Định ngày nay, xí nghiệp tơ tằm Delignon ở Nam Trung bộ do người Pháp đầu tư và một vài cơ sở dệt kim tư nhân rất nhỏ bé tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn - Chợ Lớn.. Tuy nhiên ngành dệt may Việt Nam lúc bấy giờ, dù phát triển rộng khắp ở các đô thị, thị trấn, vùng quê, nhưng hầu như vẫn sản xuất theo phương thức thủ công, ngành công nghiệp may sẵn chưa có vị trí đáng kể nào. Đến năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, chính phủ có chủ trương phát triển phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn nên đã sớm ban hành nhiều chính sách nhằm chấn hưng ngành công nghiệp non trẻ này. Đó là phục hồi các nhà may do Pháp để lại và khuyến khích các nhà máy sản xuất trở lại, thành lập các công ty gia công dệt may để khuyến khích, phát huy và thu mua các sản phẩm dệt may ở các làng nghề thủ công tham gia vào giải quyết vải tiêu dùng trong nhân dân và xuất khẩu. Đồng thời mở hàng loạt các xí nghiệp dệt công nghiệp mới của nhà nước với trang thiết bị nhập từ Trung Quốc và các nước Đông Âu như dệt Nam Định, tơ Nam Định, len Hải Phòng, dệ 8/3, dệt kim Đông Xuân… và các xí nghiệp địa phương như dệt kim Thăng Long, dệt khăn Minh Khai… cùng hàng loạt các xí nghiệp may mới ra đời thu hút rất nhiều lao động như May 10, May Thăng Long, May Chiến Thắng… nhiều xí nghiệp công tư hợ danh, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp dệt, may ở các thành phố, thị xã, thị trấn Toàn ngành công nhiệp và tiểu thủ công nghiệp dệt may miền Bắc, thời kỳ 19451975 đã đáp ứng được nhu cầu về vải cho tiêu dùng, phục vụ đời sống xã hội với mức bình quân 5 mét vải/ người và hàng năm xuất khẩu hàng trăm triệu sản phẩm may mặc sang các nước Đông Âu dưới dạng vỏ chăn, áo gối, quần áo bảo hộ lao động, áo choàng y tế… theo hiệp định hàng đổi hàng được ký giữa chính phủ hai nước. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay : đất nước thống nhất, tiếp quản thêm nhiều xí nghiệp ở miền Nam, ngành dệt may mở rộng tầm quản lý với quy mô to lớn và cũng đa dạng hơn. Từ sản phẩm thuần chủng bông thiên nhiên, chúng ta đã 9 sản xuất và xuất khẩu sản phẩm bông pha hỗn hợp, từ sản phẩm may cấp thấp đã dần vươn lên thành sản phẩm cao cấp hơn như sản phẩm sơ mi thời trang, jacket, quần bò, complet… Với chủ trương đưa ngành dệt may trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân, vì thế nhà nước vừa khai thác, phát huy tiềm lực sẵn có, vừa không ngừng mở rộng phát triển vả chiều rộng lẫn bề sâu 1.1.2. Thực trạng về ngày dệt may hiện nay Ngày nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt hàng tỷ USD, chỉ đứng sau ngành dầu khí về xuất khẩu, tăng trưởng hàng năm luôn trên 20%. Thậm chí năm 2007 dệt may đã vươn lên vị trí dẫn đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu, vượt qua cả dầu thô, với kim ngạch đạt 7.75 tỷ USD, tăng 32.8% so với năm 2006, đồng thời lọt vào top 5 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới và theo dự báo, trong năm nay, Việt Nam sẽ vượt qua Ấn Độ và Mexico trở thành cường quốc xuất khẩu dệt may thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc. Thành tựu này là kết quả nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi của ngành hàng. Đặc biệt, trong đó là những bước đi khôn ngoan khi mở rộng thị trường và vượt qua những rào cản của thị trường Mỹ. Theo dự báo của phòng thương mại Việt- Mỹ doanh thu năm 2007 của Việt Nam vào thị trường Mỹ chiếm đến 43% trong tổng kim ngạch nhập khẩu sản phẩm này tại Mỹ. Phải nói đây là một thắng lợi lớn về kinh tế trong giai đoạn phát triển của ngành dệt may VN, quan trọng hơn là trong những năm qua ngành dệt may VN đã giải quyết được hàng chục vạn lao động, góp phần cùng đất nước giải quyết tình trạng thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, ổn định chính trị và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, ngành tiếp tục thu hút nhiều làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, các doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư nước ngoài ước tính chiếm khoảng 25% tổng số các doanh nghiệp dệt may của cả nước. Dự kiến trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may tiếp tục tăng cao, theo dự đoán 10 khoảng 9,6 tỷ USD nếu biết giữ vững các thị trường truyền thống như Mỹ- thị trường chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may, EU- thị trường chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu và Nhật Bản- chiếm 10%, đồng thời tìm kiếm thêm những thị trường mới. Tuy đã đạt được những thành tựu đáng khen như vậy trong thời gian qua, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Những kết quả trên một phần là do ngành may, trong khi may phát triển mạnh và được coi là một trong năm nước có năng lực cạnh tranh thì ngành dệt lại đang bị tụt hậu 20 năm so với thế giới. Đạt được kim ngạch xuất khẩu lớn như vậy, nhưng hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt may còn thấp do chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài đến 80%, điều đó cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của các doanh nghiệp dệt Việt Nam. Trong khi đó, ngành dệt Việt Nam vẫn chủ yếu là phục vụ thị trường nội địa. Nhưng nếu tình hình này không sớm được cải thiện thì các doanh nghiệp dệt có khả năng mất chỗ đứng ngay trong thị trường nội địa trong tương lai gần. Bởi vì có thể so sánh trong khi một nhà máy dệt của Trung Quốc trung bình có khoảng 6.000 máy dệt thì các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ có khoảng vài trăm máy, đa phần là cũ, lạc hậu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành Dệt Việt Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành Dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-3,5 điểm, chưa đạt mức trung bình của thế giới. Thiết bị lạc hậu dẫn đến chất lượng vải nội không ổn định, độ bền màu kém, khiến cho khách hàng đặt may không dám lựa chọn vải nội, buộc các doanh nghiệp may gia công lại phải nhập khẩu vải từ các công ty nước ngoài. Không chỉ may gia công, ngay cả các công ty may phục vụ tiêu dùng nội địa cũng không dám mạo hiểm thương hiệu của mình khi mua vải chất lượng kém để sản xuất những mặt hàng của mình. Điều đó làm ngành Dệt càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, những doanh nghiệp Dệt trong nước làm ăn được hầu hết đều là các doanh nghiệp tư nhân hoặc liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy việc quan tâm cũng như tìm một hướng 11 đi và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng dệt may, đặc biệt là ngành dệt Việt Nam trong thời gian tới là một vấn đề hết sức quan trọng. 1.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO 1.1.3.1 Cơ hội Trước tiên phải nói đến là trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được dỡ bỏ hạn ngạch, đồng thời được đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia cũng như các thị trường khác trên thế giới. Điều bày đặc biệt quan trọng bởi Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu và tăng kim ngạch cũng như mở rộng cơ hội tìm kiếm thị trường. Cơ hội cũng mở ra khi Việt Nam có điều kiện khai thác một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng như Mỹ, bởi vì Mỹ sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ với Việt Nam như đã áp dụng khi đàm phán gia nhập WTO với Trung Quốc trước đây do thoả thuận của hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Bên cạnh đó các rào cản xuất khẩu cũng dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam không còn phải lo chạy vạy hạn ngạch, cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với các thị trường mới mở rộng rất nhiều. Từ chỗ chỉ được xuất khẩu theo hạn ngạch, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu theo năng lực thị trường, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh vào các thị trường nước ngoài. Dòng đầu tư nước ngoài mới tiếp tục đổ vào Việt Nam, trong đó ngành dệt may là một trong những ngành thu hút đầu tư mạnh, tiếp tục cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành dệt may cơ hội phát triển hơn nữa. Đặc biệt sự phát triển của ngành may sẽ là động lực tạo điều kiện phát triển theo và thu hút đầu tư vào ngành dệt và nhuộm. Trên cơ sở đó tiếp tục thu hút một lực lượng lao động lớn góp phần giải quyết việc làm cho xã hội. Đồng thời với dòng đầu tư nước ngoài ngành dệt may Việt Nam cũng đón nhận trình độ quản lý và công nghệ mới tạo điều kiện cải thiện những máy móc 12 thiết bị đã cũ, lạc hậu và tư duy cũng như công tác quản lý không còn phù hợp với điều kiện thị trường. Việc sản xuất kinh doanh cũng nhiều thuận lợi hơn do thuế nhập khẩu nguyên, phụ liệu giảm và nguồn cung cấp cũng phong phú hơn, tạo điều kiện cho việc giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao sực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời khi là thành viên WTO, với một thị trường rộng lớn và môi trường kinh doanh năng động và nhiều biến động hơn sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam cọ sát với thực tế và thích ứng với quy tắc, thông lệ và luật kinh doanh quốc tế. Những bài học từ các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giúp cho các doanh nghiệp có kinh nghiệm và thực tiễn để đối phó với những sự kiện tiếp theo. 1.1.3.2. Thách thức Ngành Dệt-May sử dụng một số nguyên phụ liệu chủ yếu như bông xơ,... dựa vào nguồn nhập khẩu là chính. Trong khi đó giá dầu trên thế giới bị biến động do tình hình chính trị trong một số khu vực trên thế giới không ổn định; hơn nữa với việc áp thuế nhập khẩu cho mặt hàng xơ polyester để bảo vệ và kích thích sản xuất trong nước của Chính phủ, làm cho giá nhập xơ cao, trong khi sản xuất trong nước về bông, xơ không đáp ứng được nhu cầu (đáp ứng bông khoảng 5%, xơ tổng hợp khoảng 30%), cho nên các doanh nghiệp vẫn phải nhập để đảm bảo sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất Dệt-Nhuộm chưa có hiệu quả, đặc biệt là chưa làm chủ được kỹ thuật, làm chất lượng vải không ổn định. Vì vậy, chưa được khách hàng tiêu thụ sản phẩm may đánh giá để có thể trở thành nhà cung cấp vải cho các doanh nghiệp may gia công trong nước chứ chưa nói đến việc gia tăng xuất khẩu vải (vải đáp ứng: dệt kim khoảng 60%, dệt thoi khoảng 30%). Cũng chính vì thế mà khách hàng Mỹ thường chỉ định nhà cung cấp vải từ nước ngoài (như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, ...) để cung cấp cho các doanh nghiệp may. Không thể không nói đến là sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn khi Việt Nam ngày một hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong thời gian 13 tới Việt Nam sẽ mở cửa thị trường sâu hơn, do đó việc các “đại gia” dệt may trên thế giới cùng nhảy vào sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt và không loại trừ khả năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phá sản hàng loạt. Đặc biệt là hàng Trung Quốc khi không phải chịu thuế nhập khẩu thì sẽ là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc cạnh tranh không chỉ trên thị trường nội địa, như vậy không chỉ các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn cũng phải lao đao. Khi những sự hỗ trợ và bảo hộ của chính phủ không còn, đồng thời thị trường bị chia sẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài, sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc khẳng định vị trí và phát triển. Đồng thời, một vấn đề cần đặc biệt lưu ý là kiện bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam, đây không phải là nguy cơ mà đã đang và sẽ đe doạ các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Các thi trường mở rộng nhưng nguy cơ tiềm tàng trong đó cũng không phải là ít. Từ ngày 11/1/2007, hàng dệt may Việt Nam không còn phải chịu hạn ngạch khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, nhưng dưới áp lực của các nhà sản xuất dệt Hoa Kỳ, Bộ Thương Mại nước này đã đưa ra một rào cản mới, đó là việc xây dựng cơ chế giám sát nhập khẩu và tự khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường kinh doanh khi thị trường Mỹ chiếm đến trên 50% thị phần xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam. Nhiều nhà nhập khẩu lớn dè dặt khi đặt hàng tại Việt Nam, thậm chí rút đơn hàng khỏi Việt Nam trong những tháng đầu năm và trong quý III/2007. Nhiều công ty không dám đầu tư mở rộng sản xuất do sợ rủi ro. Mặc dù Bộ Thương mại Mỹ đã công bố chính thức chưa tìm thấy bất cứ dấu hiệu cho thấy ngành dệt may Việt Nam bán phá giá vào thị trường Mỹ, nhưng bộ Thương Mại Mỹ thông báo vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế giám sát cho đến hết 2008. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng sẽ phải cạnh tranh với nhau để tìm kiếm nguồn lao động phù hợp trong tình trạng biến động lao động như hiện nay. Doanh nghiệp sẽ phải đối phó và giải quyết với tình trạng đình công của người lao dộng như đã xảy ra trong năm 2007 vừa qua. 14 Ngoài ra, các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, nguyên, phụ liệu nhập khẩu quá cao và nhiều, do đó giá trị thực xuất khẩu chưa cao. Việc cạnh tranh và khẳng định vị thế về chỗ đứng và thương hiệu là một trong những thách thức với Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã và đang chuyển hướng sang kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao cấp. Đây cũng là một hướng đi mới và hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Tuy vậy, việc xây dựng một thương hiệu cho hàng hoá Việt Nam vẫn còn là đòi hỏi lâu dài. Khi đã xây dựng và khẳng định được thương hiệu của mình, chỗ đứng cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới sẽ được công nhận. Đồng thời khâu thiết kế cũng là một trong những vấn đề cần được quan tâm trong thời gian tới. Ngành dệt may Việt Nam muốn có có một vị thế mới không thể không thực hiện tốt khâu thiết kế này. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt quan tâm đến vấn đề này thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có những đầu tư đúng mực và chưa giải quyết được vấn đề thiết kế sản phẩm. Chỉ một số doanh nghiệp, cá nhân có những tiếng nói nhất định trong thiết kế trên thị trường thế giới như Lê Minh Khoa ở Hồng Kông, Việt Hùng ở Mỹ và Canada, Minh Hạnh ở Pháp… Đây chính là một trong những khó khăn thách thức của doanh nghiệp Việt Nam, nếu không đầu tư cho thiết kế mẫu mã sản phẩm mới, thì không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay tại sân nhà, thị trưòng Việt Nam các doanh nghiệp cũng không tìm được chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng. 1.2. Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.2.1. Cạnh tranh 1.2.1.1. Khái niệm Có thể nói cạnh tranh chính là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh đã được các nước trên thế giới thừa nhận và coi như là một môi trường, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và góp phần lành mạnh hoá các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường. 15 Vì vậy, cạnh tranh được hiểu theo nghĩa chung là sự tranh đấu giữa các chủ thể tham gia hoạt đọng kinh tế nhằm tối đa hoá lợi ích của mình. Theo nghĩa hẹp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được hiểu là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các nhà sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất để thu được lợi ích tối đa. Cạnh tranh gắn liền với cơ chế thị trường và trở thành quy luật kinh tế đặc thù của nền kinh tế thị trường. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , chúng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế bao gồm, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nói nguồn gốc nảy sinh cạnh tranh là mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá cũng như sự độc lập và tách biệt về lợi ích giữa các chủ thể kinh tế - sản phẩm của cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế hoạt động. Khác với nền kinh tế tập trung, mọi hoạt động sản xuất và tiêu thụ đều theo kế hoạch, được hoạch định từ trên xuống, từ cấp quốc gia đến các bộ ngành và các doanh nghiệp cụ thể. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một sản phẩm nào đưa ra đều phải chịu một sức cạnh tranh nhất định, bởi vì ở đó có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất một mặt hàng, việc sản xuất tiêu thụ phải tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để cạnh tranh với nhau để làm sao tiêu thụ được hết sản phẩm của mình đồng thời thu được lợi nhuận cao nhất. Với cơ chết thị trường các doanh nghiệp phải chủ động trong sản xuất kinh doanh từ khâu cung ứng nguyên liệu phụ kiện, tổ chức sản xuất đến việc tiêu thuh sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp mình. Do đó mức độ và tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày một đa dạng và gay gắt hơn. 1.2.1.2. Vai trò của cạnh tranh Đối với nền kinh tế quốc dân: cạnh tranh là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động xã 16 hội, cho phép sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất và phục vụ ngày càng tốt nhu cầu đa dạng và phong phú của người tiêu dùng. Cạnh tranh lành mạnh cho phép tự phát duy trì những cân đối của nền kinh tế và là môi trường, động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng cùng có lợi của mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các loại hình doanh nghiệp, qua đó góp phần xoá bỏ dần những đặc quyền không nên có và xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh. Đối với doanh nghiệp: cạnh tranh quyết định sự tồn tại, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp, bởi cạnh tranh tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Một doanh nghiệp được xem là có khả năng cạnh tranh khi nó có thể đứng vững và thực hiện việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong điều kiện môi trường kinh doanh mở. Cạnh tranh tạo ra môi trường, động lực phát triển, thúc đẩy mỗi doanh nghiệp nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trong thị trường thông qua tỷ lệ thị phần mà doanh nghiệp nắm giữ, đồng thời nó quyết định uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Do cạnh tranh tạo ra một áp lực liên tục đối với giá cả nên buộc các doanh nghiệp phải nhạy bén với nhu cầu luôn biến đổi của thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ để cải tiến phương pháp quản lý sản xuất kinh doanh nhằm cung cấp sản phẩm ngày một tốt hơn, chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn cho thị trường. Đối với người tiêu dùng: trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là “thượng đế”, là người có quyết định tối cao trong hành vi tiêu dùng. Nhờ cạnh tranh, người tiêu dùng có thể nhận được hàng hoá và dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng với chất lượng cao hơn và giá cả phù hợp hơn. Cạnh tranh làm cho người tiêu dùng thực sự được tôn trọng, thúc đẩy và nâng cao việc các doanh nghiệp đảm bảo và làm thoả mãn người mua hàng. 17 1.2.2. Các lý thuyết về năng lực cạnh tranh 1.2.2.1. Lý thuyết về môi trường bên ngoài - môi trường vĩ mô ( PEST )  Kinh tế: Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng đến thành công và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến doanh nghiệp là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát…  Công nghệ: đây là loại nhân tố có ảnh hưởng lớn, trực tiếp cho chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực, ngành cũng như nhiều doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh doanh nghiệp. Trong thời đại hiện nay khi mà tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão thì việc đầu tư thay đổi công nghệ là vấn đề các nhà kinh doanh phải thường xuyên quan tâm.  Văn hóa - xã hội: Đối với chiến lược trung và dài hạn có thể nói đây là loại nhân tố thay đổi nhanh chóng theo hướng du nhập những lối sống mới. Đây cũng là cơ hội cho các nhà sản xuất, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn cho doanh nghiệp trong việc nhìn nhận, đánh giá và xác định xu hướng tiêu dùng mới, căn cứ theo độ tuổi, sở thích, địa vị công việc của người tiêu dùng để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như có những chiến lược cạnh tranh hợp lý trong từng thời điểm.  Môi trường tự nhiên: các nhà kinh doanh phải quan tâm đến các yếu tố về tự nhiên, khí hậu, sinh thái, thời vụ để sản xuất các sản phẩm phù hợp với người tiêu dùng  Chính trị, luật pháp: các nhân tố chính trị, luật pháo có tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội, trở ngại, thậm chí cả rủi ro cho doanh nghiệp. Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán về quan điểm chính sách lớn luôn hấp dẫn các nhà đầu tư. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện là cơ sở để kinh doanh ổn định, cũng là một điều kiện để doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh trên thị trường 18 1.2.2.2. Lý thuyết môi trường ngành ( Mô hình Porter )  Đối thủ cạnh tranh hiện tại: là lực lượng thứ nhất trong mô hình 5 lực lượng của mô hình Porter, là quy mô cạnh tranh trong số các doanh nghiệp hiện tại của ngành. Nếu đối thủ cạnh tranh yếu, doanh nghiệp có cơ hội tăng giá sản phẩm, thu về nhiều lợi nhuận. Ngược lại, nếu đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là đáng kể. Cạnh tranh trong một ngành sản xuất thường bao gồm các nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành và các hàng rào lối ra. Hàng rào lối ra là mối đe dọa lớn khi cầu của ngành giảm mạnh. Hàng rào lối ra là kinh tế, là chiến lược và là mối quan hệ tình cảm giữa doanh nghiệp đang hoạt động. Hàng rào lối ra bao gồm việc đầu tư máy móc thiết bị, nhà xưởng lớn, quan hệ chiến lược giữa các đơn vị kinh doanh, giá trị của các nhà lãnh đạo, chi phí xã hội khi thay đổi. Tất cả các vấn đề này tạo nên rào cản cho việc từ bỏ ngành.  Đối thủ cạnh tranh tiềm năng: là lực lượng thứ hai trong lực lượng cạnh tranh. Các nhà chiến lược cần phán đoán đối với các doanh nghiệp là đối thủ tiềm ẩn, là các doanh nghiệp hiện tại chưa cùng cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là mối đe dọa cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp hiện tại muốn tìm cách ngăn cản các doanh nghiệp muốn gia nhập vào ngành thì phải tạo hàng rào lối vào một cách vững chắc. Đó là: • Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: phải làm chủ một công nghệ đặc thù, những sáng chế, cải tiến kỹ thuật, làm chủ được nguồn nguyên liệu, quản lý sản xuất, ứng dụng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực có tay nghệ cao. Tất cả những yếu tố trên nhằm nâng cao năng suất lao động, tạo chi phí thấp. Tận dụng được những ưu thế này, rõ ràng các doanh nghiệp đã giảm thiểu được chi phí cho sản xuất và 19 như thế, tăng khả năng cạnh tranh của mình với các doanh nghiệp khác. • Khác biệt hóa sản phẩm: tạo sự khác biệt cho những hình ảnh, nhãn hiệu sản phẩm đã rất thân thiện với khách hàng. Chi phí cho việc tạo sự thay đổi này là rất cao và mạo hiểm. • Kinh tế quy mô: chính là số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng lên thì tất cả chi phí cho một đơn vị sản phẩm sẽ giảm. • Kênh phân phối: chủ yếu đã được các doanh nghiệp hiện tại thiết lập nên sẽ là vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị trường.  Nhà cung cấp: là lực lượng thứ ba trong lực lượng cạnh tranh. Các nhà cung cấp có thể được coi là áp lực đe dọa khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp, làm giảm tính cạnh tranh của nhà sản xuất. Áp lực của các nhà cung cấp thường thể hiện trong các tình huống: nhà cung cấp độc quyền, không có sản phẩm thay thế, doanh nghiệp mua yếu tố sản phẩm không phải là khách hàng quan trọng và ưu tiên của nhà cung cấp, vật tư của nhà cung cấp là quan trọng với doanh nghiệp, các nhà cung cấp vật tư cũng có chiến lược liên kết dọc. Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện ở: Mức độ tập trung của các nhà cung cấp, tầm quan trọng của số lượng sản phẩm đối với nhà cung cấp, sự khác biệt của các nhà cung cấp, ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với chi phí hoặc sự khác biệt hóa sản phẩm, chi phí chuyển đổi của các doanh nghiệp trong ngành, sự tồn tại của các nhà cung cấp thay thế, nguy cơ tăng cường sự hợp nhất của các nhà cung cấp, chi phí cung ứng so với tổng lợi tức của ngành  Khách hàng: khách hàng có thể được coi như là một sự đe dọa cạnh tranh, có quyền đòi hỏi doanh nghiệp giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt. Tức là khách hàng có quyền nêu những nguyện vọng cũng như mong muốn có lợi cho mình đến các doanh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan