CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƢU ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn lƣu động
Vốn lưu động là một yếu tố quan trọng gắn liền với toàn bộ quá trình sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là số vốn ứng trước để đầu tư, mua sắm
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu
động, nên đặc điểm của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài
sản lưu động, do đó vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các
giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên
lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu
động.
Qua một chu kỳ sản xuất, kinh doanh vốn lưu động chuyển hóa thành nhiều hình
thái khác nhau. Đầu tiên khi tham gia vào quá trình sản xuất vốn lưu động thể hiện
dưới trạng thái sơ khai của mình là tiền tệ, qua các giai đoạn nó dần chuyển thành các
sản phẩm dở dang hay bán thành phẩm. Giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh vốn lưu động được chuyển hóa vào sản phẩm cuối cùng. Khi sản phẩm này
được bán trên thị trường sẽ thu về tiền tệ hay hình thái ban đầu của vốn lưu động.
Chúng ta có thể mô tả trong chu trình sau:
Hình 1.1. Chu trình vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh
Mua vật tư
Vốn bằng tiền
Hàng hóa
Sản xuất
Vốn dự trữ sản
xuất
Sản phẩm
Vốn trong sản
xuất
Tiêu thụ sản phẩm
(Nguồn: Giáo trình tài chính doanh nghiệp-Nguyễn Minh Kiều)
Tùy từng điều kiện sản xuất, lĩnh vực kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp đòi hỏi
phải có lượng TSLĐ nhất định để quá trình kinh doanh được diễn ra liên tục, thường
xuyên.Hình thành nên số TSLĐ này, các doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ
nhất định đầu tư vào các tài sản đó, số vốn này được gọi là VLĐ của doanh nghiệp.
Như vậy từ những phân tích trên đây, ta có khái niệm về VLĐ: “VLĐ của doanh
nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nên các TSNH khác nhằm đảm bảo cho quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. VLĐ luân
1
chuyển toàn bộ ngay trong một lần và thu hồi toàn bộ, hoàn thành một vòng luân
chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.”
1.1.2. Phân loại vốn lƣu động
Để quản lý vốn lưu động tốt cần phải tìm hiểu cách phân loại vốn lưu động để từ
đó đưa ra từng giải pháp phù hợp cho một nhóm khác nhau. Tùy theo các tiêu thức
khác nhau mà có thể chia vốn lưu động thành các nhóm khác nhau.
1.1.2.1. Phân loại theo nguồn hình thành
Theo cách này nguồn vốn lưu động được chia thành nguồn vốn lưu động tạm thời
và nguồn vốn lưu động thường xuyên.
- Nguồn vốn lưu động tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn chủ yếu để
đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay
ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn lưu động thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định nhằm
hình thành nên TSNH thường xuyên cần thiết:
Công thức xác định như sau:
Nguồn VLĐ thường xuyên = TSNH - Nợ ngắn hạn
Việc phân loại nguồn vốn lưu động như trên giúp cho người quản lý xem xét huy
động các nguồn vốn lưu động một cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao
hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mình. Ngoài ra nó còn giúp cho
nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn
vốn lưu động trong tương lai, trên cơ sở xác định quy mô, số lượng VLĐ cần thiết để
lựa chọn nguồn vốn lưu động này mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
1.1.2.2. Phân loại theo vai trò của từng vốn lưu động
VLĐ có thể chia thành 3 loại sau:
Vốn lưu động nằm trong khâu dự trữ sản xuất: Là biểu hiện bằng tiền của các
khoản nguyên, nhiên vật liệu, dụng cụ dụng cụ trong quá trình dự trữ sản xuất. Bao
gồm các khoản: vốn nguyên vật liệu chính: khi tham gia hợp thành thực thể sẩn phẩm,
vốn bán thành phẩm mua ngoài, vốn nhiên liệu, vốn phụ tùng thay thế, vốn vật tư đang
đóng gói, bao bì.
Vốn lưu động nằm trong khâu trực tiếp sản xuất: Là biểu hiện bằng tiền của các
khoản sau: sản phẩm đang chế tạo (giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm), chi phí
trả trước (chi phí cải tiến kĩ thuật, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, những chi phí chi ra
trong kỳ nhưng chưa tính vào giá thành sản phẩm trong kỳ thì sẽ tính dần vào giá
thành kỳ sau.
2
Thang Long University Library
Vốn lưu động nằm trong khâu lưu thông: Là giá trị của những sản phẩm đã được
sản xuất xong, đạt tiêu chuẩn và đã được nhập kho; giá trị của vốn bằng tiền (kể cả
vàng bạc, đá quý…), đầu tư ngắn hạn vào chứng khoán và các loại khác, các khoản
phải thu, tạm ứng…
Cách phân loại này cho phép biết được kết cấu vốn lưu động theo vai trò, cho
thấy vai trò của từng thành phần vốn đối với quá trình kinh doanh. Cho phép doanh
nghiệp xem xét đánh giá mức vốn lưu động nằm trong các khâu trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Qua đó giúp cho doanh nhiệp có thể đưa ra biện pháp phù hợp nhằm
tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.1.2.3. Phân loại theo hình thái biểu hiện
Vốn vật tư hàng hóa: Gồm vật liệu, sản phẩm dở dang, hàng hóa… Đối với loại
vốn này cần xác định vốn dự trữ hợp lý để từ đó xác định nhu cầu vốn lưu động đảm
bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thu được liên tục.
Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán: Gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các
khoản nợ phải thu, những khoản vốn này dễ xẩy ra thất thoát và bị chiếm dụng vốn
nên cần quản lý chặt chẽ
Vốn trả trước ngắn hạn: Như chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, chi phí nghiên
cứu, cải tiến kỹ thuật, chi phí về công cụ dụng cụ
1.1.3. Đặc điểm vốn lƣu động
Khác với vốn cố định, trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, do bị
chi phối bởi các đặc điểm tài sản lưu động nên vốn lưu động của doanh nghiệp có các
đặc điểm sau:
Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh và không giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển một lần toàn bộ vào giá
trị sản phẩm.
VLĐ không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản
xuất, sản xuất và lưu thông. Qua mỗi giai đoạn, VLĐ lại thay đổi hình thái biểu hiện,
từ hình thái vốn bằng tiền tệ ban đầu chuyển sang vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn
sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ.
Trong quá trình lao động, một bộ phận tài sản ngắn hạn hình thành nên thực thể
của sản phẩm, một bộ phận khác sẽ hao phí mất đi cùng với quá trình kinh doanh.
Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển.
1.1.4. Vai trò của vốn lƣu động
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn lưu động luôn vận
động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành
thuận lợi và liên tục. Do đó, VLĐ đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
3
Thứ nhất, vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình
sản xuất kinh doanh. Để cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, doanh
nghiệp cần có đủ tiền để đầu tư vào các tài sản lưu động, khiến cho các loại tài sản lưu
động khác nhau có được cơ cấu phù hợp và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho việc chuyển hóa hình thái của vốn lưu động trong quá trình
luân chuyển. Ví dụ như, đối với doanh nghiệp sản xuất, ban đầu vốn lưu động ở hình
thái là tiền được chuyển hóa sang hình thái vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang, thành
phẩm, sau khi kết thúc khâu tiêu thụ thì quay về hình thái ban đầu là tiền. Đối với
doanh nghiệp thương mại, sự vận động này có phần nhanh hơn so với doanh nghiệp
sản xuất. Nếu thiếu vốn lưu động trong một khâu sản xuất kinh doanh nào đó có thể
dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp hơn so với kế hoạch.
Thứ hai, vốn lưu động còn là công cụ phản ánh, đánh giá quá trình vận động của
vật tư, hàng hóa. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục
không ngừng, nên sự tuần hoàn của VLĐ cũng liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu
kỳ tạo thành sự chu chuyển của VLĐ. Số vốn lưu động hay giá trị bằng tiền của tài sản
lưu động nhiều hay ít phản ánh số lượng hàng hóa vật tư dự trữ ở các khâu nhiều hay
ít. VLĐ luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm
hay không.
Ngoài ra, vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc
sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động một
lượng tiền nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Vốn lưu động
còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp. Ví dụ như trong trường hợp doanh nghiệp có đủ số vốn bằng tiền mặt sẽ
giúp cho doanh nghiệp đảm bảo giao dịch kinh doanh hằng ngày, bù đắp cho ngân
hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu dự
phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền vào ra,
hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng… và đối với việc doanh nghiệp đủ vốn tài
trợ cho hàng tồn kho và khoản phải thu cũng mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích
đáng kể phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc
điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra
được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi
nhuận. Do đó, VLĐ đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra.
4
Thang Long University Library
1.1.5. Phƣơng pháp xác định nhu cầu vốn lƣu động
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục tạo thành
chu kỳ kinh doanh.Do đó, trong chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh nhu
cầu VLĐ. “Nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp thể hiện số vốn tiền tệ cần thiết doanh
nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho và khoản
cho khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoản tín dụng của nhà cung cấp và các khoản
nợ phải trả khác có tính chất chu kỳ (tiền lương phải trả, tiền thuế phải nộp…)”.
Có thể xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp theo công thức sau:
Nhu cầu
VLĐ
=
Mức dự trữ
hàng tồn kho
+
Khoản phải thu từ
khách hàng
-
Phải trả nhà cung
cấp
Số VLĐ mà doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra tùy thuộc vào nhu cầu VLĐ lớn
hay nhỏ trong từng thời kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý VLĐ, một vấn đề quan
trọng là phải xác định được nhu cầu VLĐ cần thiết tương ứng với một quy mô và điều
kiện kinh doanh nhất định.
“Nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết tối thiểu là số vốn tính ra phải đủ để đảm
bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục.Đồng thời phải thực
hiện chế độ tiết kiệm một cách hợp lý.”
Việc xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp là một vấn đề phức
tạp. Tùy theo đặc điểm kinh doanh và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ mà có thể lựa chọn áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định nhu cầu
VLĐ. Hiện có 2 phương pháp chủ yếu:
a/ Phương pháp trực tiếp xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp
Là căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến lượng VLĐ doanh nghiệp phải
ứng ra để xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên.Trình tự như sau:
- Xác định nhu cầu vốn để dự trữ hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Xác định chính sách tiêu thụ sản phẩm và khoản tín dụng cung cấp cho KH
- Xác định các khoản nợ phải trả cho nhà cung cấp.
- Tổng hợp xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
Nhu cầu VLĐ xác định theo phương pháp này tương đối sát và phù hợp với các doanh
nghiệp trong điều kiện hiện nay. Tuy vậy, nó có hạn chế là việc tính toán tương đối phức
tạp, khối lượng tính toán lớn và mất nhiều thời gian.
b/ Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp
Phương pháp này dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn.
Trường hợp thứ nhất: Là dựa vào kinh nghiệm theo thực tế của các doanh nghiệp
cùng loại trong ngành để xác định nhu cầu vốn cho doanh nghiệp mình.
5
Việc xác định nhu cầu VLĐ theo cách này là dựa vào hệ số VLĐ tính theo doanh
thu được rút từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành. Trên cơ
sở đó xem xét quy mô kinh doanh dự kiến theo doanh thu của doanh nghiệp mình để
tính ra nhu cầuVLĐ cần thiết.Phương pháp này tương đối đơn giản, tuy nhiên mức độ
chính xác bị hạn chế. Nó thích hợp với việc xác định nhu cầu VLĐ khi thành lập
doanh nghiệp với quy mô nhỏ.
Trường hợp thứ hai: Dựa vào tình hình thực tế sử dụng VLĐ ở thời kỳ vừa qua
của doanh nghiệp để xác định nhu cầu chuẩn về VLĐ cho các thời kỳ tiếp theo.
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là dựa vào mối quan hệ giữa các yếu tố
hợp thành nhu cầuVLĐ gồm: Hàng tồn kho, nợ phải thu từ khách hàng và nợ phải trả
nhà cung cấp với DTT của kỳ vừa qua để xác định tỷ lệ chuẩn nhu cầuVLĐ tính theo
doanh thu và sử dụng tỷ lệ này để xác định nhu cầu VLĐ cho các kỳ tiếp theo.
Phương pháp này thực hiện theo trình tự sau:
- Xác định số dư bình quân các khoản hợp thành nhu cầuVLĐ trong năm báo
cáo. Khi xác định số dự bình quân các khoản phải phân tích tình hình để loại trừ số
liệu không hợp lý.
- Xác định tỷ lệ các khoản trên so với doanh thu thuần trong năm báo cáo. Trên
cơ sở đó xác định tỷ lệ nhu cầu VLĐ so với doanh thu thuần.
- Xác định nhu cầu VLĐ cho kỳ kế hoạch.
1.2. Chính sách quản lý vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.2.1. Chính sách quản lý vốn lƣu động
Mô hình tài trợ vốn lưu động của doanh nghiệp
a/ Mô hình tài trợ thứ nhất: Toàn bộ TSCĐ và TSNH thường xuyên được đảm
bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ TSNH tạm thời được đảm bảo bằng nguồn
vốn tạm thời.
Hình 1.2. Mô hình tài trợ thứ nhất
Tiền
6
Thang Long University Library
Nguồn
vốn
tạm
thời
TSLĐ tạm thời
TSLĐ thường xuyên
Nguồn
vốn
thường
xuyên
TSCĐ
Thời gian
Ưu điểm của mô hình này là: Giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong thanh
toán, mức độ an toàn cao hơn. Giảm bớt được chi phí trong sử dụng vốn, tuy nhiên còn
tồn tại hạn chế: chưa tạo ra sự linh hoạt trong việc tổ chức sử dụng vốn, thường vốn
nào nguồn ấy, tính chắc chắn được đảm bảo hơn song kém linh hoạt hơn.
b/ Mô hình tài trợ thứ hai: Toàn bộ TSCĐ, TSLĐ thường xuyên và một phần
TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, một phần TSLĐ tạm
thời còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Hình 1.3. Mô hình tài trợ thứ hai
Tiền
TSLĐ tạm thời
TSLĐ thường xuyên
Nguồn
vốn
tạm
thời
Nguồn
vốn
thường
xuyên
TSCĐ
Thời gian
Ưu điểm của mô hình này là: khả năng thanh toán và độ an toàn ở mức cao, tuy
nhiên vẫn còn mặt hạn chế như chi phí sử dụng vốn cao vì phải sử dụng nhiều khoản
vay dài hạn và trung hạn.
c/ Mô hình tài trợ thứ ba: Toàn bộ TSCĐ, một phần TSLĐ thường xuyên được
đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên. Một phần còn lại của TSLĐ thường xuyên và
7
toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Hình 1.4. Mô hình tài trợ thứ ba
Tiền
TSLĐ tạm thời
TSLĐ thường xuyên
TSCĐ
Nguồn
vốn
tạm
thời
Nguồn
vốn
thường
xuyên
Thời gian
Ưu điểm: việc sử dụng vốn linh hoạt, chi phí sử dụng vốn thấp hơn vì sử dụng
nhiều hơn nguồn vốn tín dụng ngắn hạn, tuy nhiên khả năng gặp rủi ro cao hơn.
1.2.2. Chính sách quản lý vốn bằng tiền
Tiền mặt tại quỹ là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của doanh
nghiệp. Chúng ta cần lưu ý hiểu nghĩa tiền mặt ở đây theo nghĩa rộng ba gồm tiền mặt
tại quỹ của công ty và tiền gửi ngân hàng còn các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn
xem như là tài sản tương đương tiền mặt. Quản lý tiền mặt và các tài sản tương đương
tiền ở đây chính là quản lý tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các loại chứng khoán khả thị.
Doanh nghiệp cần phải quản lý tiền và chứng khoản khả thị để có thể thực hiện giao
dịch, đối phó với các biến cố bất thường xảy đến với doanh nghiệp hoặc đầu tư sinh
lời. Dự trữ loại tài sản này vừa có lợi ích song cũng tiềm ẩn rủi ro. Về mặt lợi ích,
doanh nghiệp luôn đảm bảo được khả năng thanh toán từ đó cải thiện được uy tín và vị
thế của doanh nghiệp, nếu mang tiền đi đầu tư còn có thể có lãi. Ngược lại, rủi ro khi
dự trữ tiền mặt cũng dễ xảy ra, nếu dự trữ quá ít sẽ giảm khả năng thanh toán; nếu dự
trữ quá nhiều sẽ giảm khả năng sinh lời của số tiền đó, đồng thời doanh nghiệp phải
phát sinh tăng chi phí quản lý cho số tài sản này. Quản lý tiền và chứng khoán khả thị
cần tập trung vào các quyết định sau: Quản lý hoạt động thu - chi của tiền mặt; xác
định nhu cầu dự trữ tiền mặt tối ưu, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán khả thị và
quản lý ngân quỹ.
Xác định mức dự trữ tiền mặt tối ưu
Mức tồn quỹ tiền mặt mục tiêu là một phần chuẩn mực để làm cơ sở cho các
8
Thang Long University Library
quyết định tài chính ngắn hạn như đầu tư tiền nhàn rỗi vào các loại tích sản sinh lợi,
mức đầu tư nào là hợp lý và khi nào thì bán các tích sản này để bổ sung làm cân bằng
cán cân tiền mặt. Do tiền mặt biến động hầu như liên tục và không thể giữ chúng ở
mức vừa đúng với hạn mức chuẩn trong tất cả mọi thời điểm, do đó chúng ta phải thiết
lập một mô hình để xác định mức tiền mặt mà công ty phải mua hay bán các loại
chứng khoán thanh khoản cao.
Mô hình độ lớn của đơn hàng tối ưu (EOQ): Người đầu tiên vận dụng mô hình
EOQ vào quản trị tiền mặt là nhà khoa học người Hoa Kỳ William J.Baumol (1952).
Mô hình cho rằng, mỗi doanh nghiệp đều có một dòng lưu kim thuần ổn định, là kết
quả của dòng lưu kim chi phí và dòng lưu kim thu nhập trên phương diện kế hoạch.
Giả sử một doanh nghiệp có kỳ vọng có dòng lưu kim thu nhập đều đặn là A/kỳ và
dòng lưu kim chi phí là B/kỳ. Bởi vậy dòng lưu kim chi phí thuần là (B-A)/kỳ.
Doanh nghiệp khởi sự các giao dịch chuyển tiền tệ ở đầu kỳ đầu tiên có cán cân
tiền mặt là C (Hình 02). Với lượng tiền sử dụng ổn định mỗi kỳ là (B-A), số tiền này
sẽ hết sau C/(B-A) kỳ. Tại thời điểm kết thức kỳ thứ C/(B-A), cán cân tiền mặt bằng 0
và cần phải bán một lượng chứng khoán có giá trị C để phục hồi cán cân tiền ban đầu.
Như hình dưới đây cho thấy, cán cân tiền mặt khi bắt đầu các hoạt động là C và giảm
dần đều đến hết mỗi chu kỳ C/(B-A). Bởi vậy lượng tiền mặt trung bình quả doanh
nghiệp là C/2.
Hình 1.5. Mô hình độ lớn của đơn hàng tối ưu
Giả sử tỷ lệ sinh lời một năm do các công cụ của thị trường tiện tệ mang lại là I,
thì phần lợi nhuận bị bỏ qua mỗi năm trên khoản tiền mặt trung bình là (C/2).I. Nhưng
để có cán cân tiền mặt trung bình (C/2) thì cần phải bán lượng chứng khoán có giá trị
là C tại những thời điểm mà cán cân tiền mặt bằng 0. Nếu tổng nhu cầu của dòng lưu
kim thuần trong suốt năm được ký hiệu là T, thì số lần các loại chứng khoán được
chuyển đổi thành tiền mặt là (T/C). Giả sử chi phí cho mỗi lần giao dịch là F thì tổng
chi phí cho các giao dịch chuyển đổi các loại chứng khoán trong năm là (T/C).F.
9
Trong đó:
C = Trị giá của các loại chứng khoán được bán ra trong mỗi lần giao dịch F =
Tổng giá trị của dòng lưu kim thuần dự định cần đến trong năm
k = Tỷ lệ sinh lời cơ hội của các công cụ được giao dịch trên thị trường tiền tệ Sử
dụng các công cu này, chúng ta có thể thiết lập công thức tính toán hai loại chi phí
thành phần như sau:
Tiền lãi bị bỏ qua duy trì cán cân tiền mặt =
Chi phí cho mỗi lần giao dịch chứng khoán =
Do đó, tổng chi phí (TC) cho việc tiến hành T/C lần chuyển đổi các loại chứng
khoán, mỗi lần có giá trị C trong năm là:
TC = (
Từ đó ta có thể thấy rằng tổng chi phí sẽ ở mức tối thiểu khi:
C’=
C’ là mức tiền dự trữ tối ưu.
Quản lý ngân quỹ
Ngân quỹ có thể được hiểu là toàn bộ khoản tiền thu chi của một tổ chức hay
đoàn thể. Quản lý ngân quỹ là sự tác động của các chủ thể quản lý trong doanh nghiệp
lên các khoản thực thu và thực chi bằng tiền nhằm thay đổi mức tồn quỹ thục tế của
doanh nghiệp sao cho ngân quỹ doanh nghiệp đạt mức tối ưu nhắm tối đa hoá giá trị
tài sản của chủ sở hữu và đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp trong từng thời
kỳ trong điều kiện biến động của môi trường. Do vậy mà việc quản trị dòng tiền luôn
được coi trọng, doanh nghiệp nên duy trì mức tồn quỹ hợp lý là bao nhiêu để phù hợp
với hoạt động kinh doanh, tận dụng tối đa khả năng sinh lời của dòng tiền, không để
tiền chết một chỗ quá lâu. Để giải quyết vẫn đề này thì các học giả trên thế giới đã đề
xuất nhiều mô hình như Baumol, Miller – Orr,…tuy nhiên chưa được ứng dụng rộng
rãi tại doanh nghiệp Việt Nam. Dưới đây là mô hình Miller Orr, một mô hình quản lý
tiên tiến và khoa học nên được áp dụng trong các doanh nghiệp.
Hình 1.6. Mô hình Miller Orr
10
Thang Long University Library
Có 3 khái niệm cần chú ý trong mô hình này: Giới hạn trên (H), giới hạn dưới
(L) và tồn quỹ tiền mặt (Z). Ban quản lý công ty thiết lập H căn cứ vào chi phí cơ hội
giữ tiền mặt và thiết lập L căn cứ vào mức độ rủi ro thiếu tiền mặt. Công ty cho phép
tồn quỹ biến động ngẫu nhiên trong phạm vi giới hạn và nếu như tồn quỹ vẫn nằm
trong mức giới hạn trên và giới hạn dưới thì công ty không cần thực hiện giao dịch
mua bán chứng khoán ngắn hạn. Khi tồn quỹ đụng giới hạn trên tại điểm X thì công ty
sẽ mua(H-Z) đồng chứng khoán ngắn hạn để giảm tồn quỹ trở về Z. Ngược lại, khi tồn
quỹ giảm đụng giới hạn dưới tại điểm Y thì công ty sẽ bán (Z-L) đồng chứng khoán để
tăng tồn quỹ lên đến điểm Z.
Mô hình Miller Orr xác định mức tồn quỹ dựa vào chi phí cơ hội và chi phí giao
dịch. Chi phí giao dịch (F) là chi phí liên quan đến việc mua bán chứng khoán ngắn
hạn để chuyển đổi từ tài sản đầu tư cho mục đích sinh lời ra tiền mặt nhằm mục đích
thanh toán. Chi phí giao dịch không phụ thuộc vào doanh số mua bán chứng khoán
ngắn hạn. Chi phí cơ hội giữ tiền mặt là K, bằng lãi suất ngắn hạn. Trong mô hình
Miller Orr, số lần giao dịch của một kỳ là số ngẫu nhiên thay đổi tùy thuộc vào biến
động của luồng thu và luồng chi tiền mặt. Kết quả là chi phí giao dịch phụ thuộc vào
số lần giao dịch chứng khoán ngắn hạn kỳ vọng còn chi phí cơ hội phụ thuộc vào tồn
quỹ kỳ vọng.
Với tồn quỹ thấp nhất L đã cho, giải mô hình Miller Orr chúng ta tìm được tồn
quỹ mục tiêu (Z) và giới hạn trên (H). Giá trị của Z và H làm cho tổng chi phí tối thiểu
được quyết định theo mô hinh Miller Orr là:
Z=
+L
H = 3Z – 2L
Trong đó:
F = Chi phí giao dịch
∂2 = Phương sai của dòng tiền mặt trong ngày K = Chi phí cơ hội
Tồn quỹ trung bình theo mô hình Milller Orr là:
11
Caverage =
1.2.3. Chính sách quản lý khoản phải thu
Khoản phải thu là số tiền mà khách hàng nợ công ty do mua chịu hàng hóa hoặc
dịch vụ. Có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh các khoản phải thu nhưng với
mức độ khác nhau từ mức không đáng kể đến mức không thể kiểm soát nổi. Vì vậy
công ty cần có những chính sách bán chịu phù hợp.
Khoản phải thu của công ty phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như
tình hình kinh tế, giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm và chính sách bán chịu của
công ty. Trong các yếu tố này chính sách bán chịu ảnh hưởng mạnh nhất đến khoản
phải thu và sự kiểm soát của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính có thể thay đổi
điều khoản bán chịu để kiểm soát khoản phải thu sao cho phù hợp với sự đánh đổi giữa
lợi nhuận và rủi ro. Hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu có thể kích thích được nhu cầu dẫn tới
gia tăng doanh thu và lợi nhuận nhưng vì bán chịu sẽ làm phát sinh khoản phải thu.
Chúng ta phải xem xét các vấn đề như tiêu chuẩn bán chịu, điều khoản bán chịu, chính
sách và quy trình thu nợ.
Về tiêu chuẩn bán chịu:
Tiêu chuẩn bán chịu là tiêu chuẩn tối thiểu về mặt tín dụng của khách hàng để
được công ty chấp nhận bán chịu. Đây là một bộ phận cấu thành lên chính sách bán
chịu của công ty và mỗi công ty đều thiết lập tiêu chuẩn bán chịu chính thức hoặc
không chính thức.
Tiêu chuẩn bán chịu nói tiêng và chính sách bán chịu nói chung có ảnh hưởng
đáng kể đến doanh thu của công ty. Nếu đối thủ cạnh tranh mở rộng chính sách bán
chịu mà công ty lại không phản ứng lại điều này thì nỗ lực tiếp thị sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng vì bán chịu là yếu tố ảnh hưởng rất lớn kích thích nhu cầu. Về mặt lý
thuyết công ty có thể hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu đến mức có thể chấp nhận được sao
cho lợi nhuận tạo ra do gian tăng doanh thu như là kết quả của chính sách bán chịu
vượt quá mức chi phí phát sinh do bán chịu. Vì thế tùy thuộc và tình hình kinh doanh
mà công ty cần có phải điều chính khi nào nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu và khi nào
không nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu
Về điều khoản bán chịu:
Điều khoản bán chịu là điều khoản xác định độ dài thời gian hay thời hạn bán
chịu và tỷ lệ chiết khấu áp dụng nếu khách hàng trả sớm hơn thời gian bán chịu cho
phép. Ví dụ điều khoản bán chịu là “2/10 net 30” có nghĩa là khách hàng được hưởng
2% chiết khấu thanh toán trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hóa đơn được phát hành
12
Thang Long University Library
và nếu khách hàng không lấy chiết khấu thì khách hàng được trả chậm trong thời gian
30 ngày kể từ ngày phát hành hóa đơn.
Về chính sách và quy trình thu nợ:
Trong cơ chế thị trường hiện nay để bán được hàng hoá các doanh nghiệp thường
chấp nhận cho khách hàng nợ lại. Việc quyết định cho khách hàng chiếm dụng vốn,
doanh nghiệp có thể xem xét từ các khía cạnh: mức độ uy tín, khả năng thanh toán của
khách hàng, tình trạng tài chính tổng quát của doanh nghiệp... Để tránh những tổn thất
do nợ không thể thu hồi công ty cần chú ý đến việc phân tích khách hàng trước khi
quyết định có nên bán chịu cho khách hàng đó hay không.
Hình 0.7. Quy trình đánh giá uy tín khách hàng
Từ chối bán chịu
Không
Nguồn thông tin khách
hàng:
Báo cái tài chính
Báo cáo xếp hạng
tín dụng
Kiểm tra của NH
Kiểm tra thương
mại
Đánh
giá uy
tín
khách
hàng
Không
Có
uy
tín?
Có
Quyết
định bán
chịu
(Nguồn: Giáo trình tài chính doanh nghiệp - Nguyễn Minh Kiều)
Để nhanh chóng thu hồi các khoản nợ phải thu, hạn chế việc phát sinh các chi
phí không cần thiết hoặc rủi ro, doanh nghiệp cần coi trọng các biện pháp sau:
- Sử dụng kế toán thu hồi nợ chuyên nghiệp: Những công ty thường bán chịu
hàng hóa hoặc dịch vụ nên tổ chức bộ phận chuyên đánh giá khách hàng trước khi bán
chịu và theo dõi thu hồi nợ. Do hoạt động mang tính chuyên nghiệp và trải qua kinh
nghiệm nên hiệu suất thu hồi nợ dần dần sẽ được nâng cao trong khi chi phí thu hồi nợ
có thể giảm. Trong trường hợp địa bàn thu hồi nợ quá rộng hoặc giả số lượng khách
hàng quá lớn khiến cho chi phí thu hồi nợ quá cao thì công ty nên sử dụng nghiệp vụ
bao thanh toán.
- Sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán: Bao thanh toán là một nghiệp vụ trong đó
những công ty thường xuyên bán chịu hàng hóa sẽ bán lại những khoản phải thu cho
một công ty chuyên môn làm nghiệp vụ thu hồi nợ. Nhờ có sự chuyên môn hóa các
khoản nợ, công ty mua nợ có thể nâng cao được hiệu suất thu hồi nợ và giảm thiểu
13
được chi phí thu hồi nợ nhờ lợi thế về quy mô. Về phía công ty bán nợ sau khi bán các
khoản phải thu sẽ không phải bận tâm đến việc thu nợ mà chỉ cần tập trung vào hoạt
động kinh doanh.
1.2.4. Chính sách quản lý hàng tồn kho
Tầm quan trọng của việc quản lý vốn về hàng tồn kho.
- Vốn về hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh
nghiệp và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Việc duy trì hợp lý vốn về hàng tồn kho sẽ tạo cho doanh nghiệp thuận lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh: trách được rủi ro trong việc chậm chễ hoặc ngừng hoạt
động sản xuất do thiếu vật tư hay trách được việc phải trả giá cao cho việc đặt hàng
nhiều lần với số lượng nhỏ.
-
Tránh được tình trạng ứa đọng về vật tư, hàng hóa hoặc là căng thẳng do thiếu
hụt vật tư. Từ đó làm tăng tốc độ luân chuyển vốn.
- Dữ trữ hàng tồn kho hợp lý có vài trò như một tấm đệm an toàn giữa các giai
đoạn khác nhau trong chu kỳ kinh doanh.
- Hiệu quả quản lý sử dụng vốn về hàng tồn kho ảnh hưởng và tác động trực tiếp
đến hiệu quả sử dụng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các biện pháp chủ yếu quản lý hàng tồn kho:
Quản lý hàng tồn kho bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý các hoạt
động nhằm vào nguyên vật liệu, hàng hóa đi vào, đi qua và đi ra khỏi doanh nghiệp.
Quản lý hàng tồn kho trong các doanh nghiệp là rất quan trọng bởi vì nếu dự trữ không
hợp lý sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, hiệu quả kém. Việc quản
lý hàng tồn kho có hiệu quả phải đạt hai mục tiêu sau:
- Mục tiêu an toàn: đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có một khối lượng hàng hóa
dự trữ đủ để đảm bảo sản xuất và bán ra thường xuyên liên tục.
- Mục tiêu kinh tế: đảm bảo chi phí cho dự trữ thấp nhất.
Để kết hợp hài hòa giữa hai mục tiêu này nhà kinh tế Ford.W.Harris đã đề xuất
mô hình EOQ áp dụng trong quản lý hàng tồn kho để tối thiểu hóa chi phí hàng tồn
kho và tối đa hóa an toàn trong cung ứng, đã được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng.
Trong hoạt động quản lý hàng tồn kho, doanh nghiệp cần tập trung xác định
mức dự trữ tối ưu thông qua mô hình đặt hàng hiệu quả nhất – EOQ. Mô hình được
dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau. Khi doanh nghiệp tiến
hành dự trữ hàng hoá sẽ kéo theo hàng loạt các chi phí như chi phí bốc xếp hàng hoá,
chi phí bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm … nhưng chung quy lại có hai
loại chi phí chính:
14
Thang Long University Library
Chi phí lưu kho (Chi phí tồn dự trữ): Đây là chi phí liên quan đến việc tồn trữ
hàng hoá, loại này bao gồm:
-Chi phí hoạt động như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo hiểm hàng hoá, chi
phí do giảm giá trị hàng hoá, chi phí hao hụt mất mát, chi phí bảo quản…
-Chi phí tài chính bao gồm chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về thuế,
khấu hao…
Hình 1.8. Chi phí tồn dự trữ
Nếu gọi mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ cung ứng trung bình sẽ là Q/2.
Gọi C1 là chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của doanh nghiệp sẽ
là:
C1*Q/2
Tổng chi phí lưu kho sẽ tăng nếu số lượng hàng hoá mỗi lần cung ứng tăng.
Chi phí đặt hàng (Chi phí hợp đồng): Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản
lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá, chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn
định không phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua.
Nếu gọi D là toàn bộ số lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian
(năm, quý, tháng) thì số lượng lần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q. Gọi C2 là chi phí mỗi
lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là:
C2*D/Q
Tổng chi phí đặt hàng tăng nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm. Gọi TC là tổng chi
phí tồn trữ hàng hoá, ta có công thức:
TC = C1*Q/2 + C2*D/Q
Ta có thể tìm Q* bằng cách lấy vi phân TC theo Q ta có:
Q* =
Hình 1.9. Mô hình chi phí đặt hàng
15
Qua hình trên ta thấy khối lượng hàng hoá cung ứng mỗi lần là Q * thì tổng chi
phí dự trữ là thấp nhất.
1.3. Hiệu quả sử dụng vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.3.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn lƣu động
Như đã nói ở trên vốn lưu động tham gia vào hầu hết quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cho nên việc sử dụng vốn lưu động cần được kiểm tra đánh
giá xem xét hiệu quả sử dụng như thế nào để giúp doanh nghiệp dễ dàng quản trị vốn
lưu động cũng như tài sản ngắn hạn một cách tối ưu.
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường: Các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế; chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh tếxã hội. Hiệu quả của một vấn đề thường đi liền với các chỉ tiêu đo lường vấn đềđó,
việc đạt được các chỉ tiêu đo lường cũng chính là việc đạt được hiệu quả nói trên.
Có nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn lưu động khác nhau. Cụ thể như:
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hiệu quả đạt được khi tăng tốc độ luân
chuyển vốn lưu động qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Tốc độ luân chuyển
VLĐ nhanh hay chậm nói lên hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp cao hay thấp.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hiệu quả đạt được cao nhất khi mà số VLĐ
cần cho một đồng luân chuyển là ít nhất. Điều này cho thấy càng tiết kiệm được bao
nhiêu vốn lưu động cho một đồng luân chuyển thì càng tốt. Nhưng nếu hàng hóa sản
xuất ra không tiêu thụ được thì hiệu quả sử dụng đồng vốn cũng không cao.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng có thể hiểu là sử dụng vốn lưu động sao
cho đạt vòng quay ngắn nhất.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hiệu quả đạt được khi mà cần càng ít số đồng
vốn lưu động để tạo ra một đồng doanh thu thuần về bán hàng.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hiệu quả thu được khi đầu tư thêm vốn lưu
động một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh số tiêu thụ với
yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng vốn lưu động.
16
Thang Long University Library
Tóm lại, tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau tựu chung lại hiệu quả sử dụng
vốn lưu động là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ tổ chức và sử dụng vốn lưu
động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Với số VLĐ hiện có làm sao sử
dụng để đạt được sản phẩm có giá trị, chất lượng cao hơn trước, giá thành tốt hơn
trước để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Và khi đầu tư VLĐ thêm vào quá trình sản
xuất kinh doanh thì yêu cầu tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng VLĐ.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động =
Kết quả đầu ra
Chi phí đầu vào
Việc sử dụng VLĐ càng hợp lý thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
nhiều bấy nhiêu. Vì lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý,
hiệu quả hơn từng đồng vốn lưu động làm cho mỗi đồng VLĐ hàng năm có thể mua
sắm nguyên, nhiên vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ được nhiều
hơn. Và từ hiệu quả sử dụng VLĐ năm trước chúng ta cóthể dựa vào đó để rút kinh
nghiệm cho việc sử dụng sao cho hợp lý VLĐ để đạt hiệu quả cao hơn trong năm nay.
1.3.2. Tính cần thiết của hiệu quả sử dụng hiệu quả vốn lƣu động
Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động kinh tế nhằm mang lại lợi nhuận thông
qua sản xuất kinh doanh, thành bại của một doanh nghiệp phu thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó quan trọng nhất là ba yếu tố khả năng cung ứng tích luỹ, đổi mới sử dụng vốn
trình độ quản lý và thị trường.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng đến lợi nhuận,đến quyền lợi đến mục đích cao nhất của doanh nghiệp. Nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao lợi nhuận, chẳng có một lý do nào để
doanh nghiệp có thể từ chối việc làm đó. Như vậy ta có thể nhận thấy nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động là một việc làm thiết yếu của bất kỳ một doanh nghiệp nào,
người ta không thể từ chối thu một khoản lợi nhuận hay doanh thu nhiều hơn trên một
đồng vốn bỏ ra mà ngược lại họ muốn thu ngày càng nhiều từ việc bỏ ra một cùng một
lượng vốn ban đầu của mình hay với cùng một lượng tiền thu về từ hoạt động sản xuất
kinh doanh như năm trước nhưng năm nay doanh nghiệp phải bỏ ra cho nó một lượng
chi phí ít hơn. Có thể tổng quát một số lý do cơ bản, cụ thể làm nên sự cần thiết phải
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất: Do sự tác động của cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước. Kinh tế thị trường theo đuổi một mục đích lớn và cốt yếu là lợi nhuận và lợi
nhuận ngày càng cao. Tiền đề của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong các
doanh nghiệp là vốn, đồng vốn sản xuất kinh doanh phải có khả năng sinh lời mới là
vấn đề cốt lõi liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bởi
17
thiếu vốn thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị “chết”, bị
ngưng trệ bởi bây giờ không còn có sự cứu trợ của Ngân sách Nhà nước
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giờ đây người định
đoạt số phận của doanh nghiệp chính là thị trường mà không phải là ai khác, song nhà
nước cũng có vai trò nhất định của nó. Nếu sử dụng đồng vốn hiệu quả thì việc đáp
ứng nhu cầu thị trường là điều không khó khăn đối với doanh nghiệp nữa.
Thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng là một nội dung cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp, trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt hiện nay thì điều này càng được
khẳng định chắc chắn hơn. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì điều kiện
tiên quyết không thể thiếu được là doanh nghiệp phải xem xét vấn đề chất lượng sản
phẩm, mẫu mã sản phẩm và phải quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, vấn đề
này quyết định lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một tất yếu trong cơ
chế thị trường cạnh tranh gay gắt. Nó góp phần nâng cao khả năng hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, tăng nhanh tốc độ
hoạt động của doanh nghiệp nhằm đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận và lợi nhuận
ngày càng cao, góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.3.3.1. Một số chỉ tiêu tổng hợp tình hình kinh doanh chung
a) Chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Các chỉ tiêu này đo lường khả năng đáp ứng các ràng buộc pháp lý về tài chính
của doanh nghiệp (nghĩa là thanh toán các khoản nợ). Để tính toán khả năng thanh
toán ngắn hạn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng bốn chỉ tiêu: khả năng thanh
toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán tức thời và khả năng
thanh toán lãi vay.
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn là những khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng
một năm hay một chu lỳ kinh doanh. Nếu trị số của chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1, doanh
nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình
thường hoặc khả quan.Ngược lại, nếu “Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn” <1,
doanh nghiệp không đảm bảo đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn.Trị số của chỉ tiêu
này càng nhỏ hơn 1, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp.
18
Thang Long University Library
Tuy nhiên thực tế, giữ tỷ lệ khả năng thanh toán không thấp hơn 1 là mức tối thiểu cho
thấy khả năng tồn tại nhưng lại thiếu biên độ an toàn.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh =
Hệ số khả năng thanh toán nhanh thể hiện mối quan hệ giữa các loại tài sản ngắn
hạn có khả năng chuyển nhanh thành tiền để thanh toán nợ ngắn hạn, cho biết với
những khoản mục có khả năng thanh khoản cao gồm tiền mặt và các khoản tương
đương tiền hiện có liệu doanh nghiệp có đảm bảo được việc thanh toán kịp thời các
khoản nợ không.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số thanh toán tức thời =
Thể hiện khả năng bù đắp nợ ngắn hạn bằng số tiền đang có của DN. Do tiền có
tầm quan trọng đặc biệt quyết định tính thanh toán nên chỉ tiêu này được sử dụng
nhằm đánh giá khắt khe khả năng thanh toán ngắn hạn của DN.
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh
toán tức thời liên quan tới tất cả hoặc hầu hết tài sản lưu động và nợ phải trả. Do đó,
việc đánh giá phân tích cần được xem xét trong mối tương quan với các tỷ suất chu
chuyển hướng vào từng thành phần của tài sản lưu động và nợ ngắn hạn thông qua các
chỉ tiêu xác định vòng quay các khoản phải thu, vòng quay hàng tồn kho, vòng quay
khoản nợ phải trả vì đây là các yếu tố cơ bản của tính thanh khoản phản ánh khả năng
“tạo tiền mặt” của doanh nghiệp.
b) Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS)
ROS =
Tỷ suất này phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, chỉ
tiêu này cho biết trong 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
thuế. Trên thực tế, tỷ suất sinh lời trên doanh thu giữa các ngành là khác nhau, còn
trong bản thân một ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tốt
hơn thì sẽ có hệ số này cao hơn. Xét từ góc độ nhà đầu tư, một công ty có điều kiện
phát triển thuận lợi sẽ có mức lợi nhuận ròng cao hơn lợi nhuận trung bình của ngành
và có thể liên tục tăng. Ngoài ra, một công ty càng giảm chi phí của mình một cách
hiệu quả thì tỷ suất sinh lời trên doanh thu càng cao.
Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA)
19
Trong quá trình tiến hành những hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
mong muốn mở rộng quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ, nhằm tăng trưởng mạnh, do
vậy nhà quản trị thường đánh giá hiệu quả sử dụng các tài sản đã đầu tư có thể xác
định bằng công thức:
ROA =
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích thì một đồng tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng thu nhập, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản tốt, đó là nhân
tố giúp nhà quản trị đầu tư theo chiều rộng như xây dựng nhà xưởng, mua thêm máy
móc thiết bị. Một công ty đầu tư tài sản ít nhưng thu được lợi nhuận cao sẽ là tốt hơn
so với công ty đầu tư nhiều vào tài sản mà lợi nhuận thu được lại thấp. Hệ số ROA
thường có sự chênh lệch giữa các ngành. Những ngành đòi hỏi phải có đầu tư tài sản
lớn vào dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ như các ngành vận tải, xây
dựng, sản xuất kim loại….thường có ROA nhỏ hơn so với các ngành không cần phải
đầu tư nhiều vào tài sản như ngành dịch vụ, quảng cáo, phần mềm…
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
LNST
ROE =
Vốn CSH
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích thì 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra
bao nhiêu đồng thu nhập, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở
hữu tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của doanh nghiệp, điều đó sẽ giúp nhà
quản trị doanh nghiệp tăng vốn chủ sở hữu phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh.
Có thể nói, bên cạnh các hệ số tài chính khác thì ROE là thước đo chính xác nhất để
đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là
một chỉ số đáng tin cậy về khả năng một công ty có thể sinh lời trong tương lai. Thông
thường, ROE càng cao chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn chủ sở hữu, có
nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai
thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô.
Phân tích ROA/ROE thông qua mô hình Dupont
Dupont là tên của một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh tại
Mỹ. Dupont đã chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên
phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn.
Mô hình Dupont là kỹ thuật được sử dụng để phân tích khả năng sinh lời của một
doanh nghiệp bẳng các công cụ quản lý hiệu quả truyền thống. Mô hình Dupont tích
hợp nhiều yếu tố của báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán. Trong phân
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -