CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tài sản doanh nghiệp
Doanh nghiệp được coi như một tế bào trong nền kinh tế quốc dân với nhiệm vụ
chính là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm, hàng hoá
dịch vụ cung ứng cho xã hội. Bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có
một nguồn tiền để duy trì, đó được gọi chung là tài sản. Một doanh nghiệp muốn nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản thì trước hết phải hiểu rõ khái niệm tài sản của doanh nghiệp.
Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật dân sự 1995
về những đối tượng nào được coi là tài sản, theo đó, không chỉ những “vật có thực”
mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương lai cũng được
gọi là tài sản. Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật dân sự năm
1995, theo đó tại Điều 172 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định “Tài sản bao gồm vật
có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều 163
Bộ luật dân sự 2005 (Bộ luật dân sự hiện hành) quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
này. Sau đây là một số quan điểm chủ yếu:
Theo chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS/IFRS) do Hội đồng chuẩn mực Kế toán
Quốc tế (IASC) đưa ra và được Hội đồng chú giải chuẩn mực (SIC) giải thích: “Tài
sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát, là kết quả của những hoạt động trong
quá khứ, mà từ đó một số lợi ích kinh tế trong tương lai có thể dự kiến trước một cách
hợp lý”.
Theo chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ tài chính ban hành theo
Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC vào ngày 31/12/2011 và được hướng dẫn lại theo
Thông tư 161/2007/TT-BTC ban hành vào năm 2007 cho rằng: “Tài sản là nguồn lực
do doanh nghiệp kiểm soát được và mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp
trong tương lai”.
Tài sản của doanh nghiệp có thể là vật chất có sẵn trong tự nhiên như đất đai,
khoáng sản,… hoặc có thể là những của cải có lợi ích kinh tế trong tương lai do con
người tạo ra và tích lũy qua thời gian bao gồm tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản
trị giá được bằng tiền. Từ những tài sản có sẵn, doanh nghiệp có thể bán hoặc trao đổi
lấy tài sản khác, thanh toán các khoản nợ hoặc để kết hợp với các tài sản khác để sản
xuất sản phẩm. Tóm lại, tài sản là một bộ phận không thể tách rời trong mọi
HĐSXKD, là yếu tố quan trọng và không thể thiếu của mọi doanh nghiệp.
1
1.1.2. Phân loại tài sản doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp đều có những hoạt động kinh doanh đa dạng, có thể tham gia
vào một hay nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ khác nhau. Theo
đó, tài sản cũng có nhiều loại khác nhau và được sử dụng trong nhiều hoạt động kinh
doanh khác nhau. Do vậy, tài sản cần được phân loại cụ thể để có những biện pháp sử
dụng và quản lý hợp lý. Việc phân loại tài sản là việc phân chia số tài sản hiện có
nhằm phục vụ yêu cầu quản lý và sử dụng của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Theo thời hạn sử dụng của tài sản
Dựa theo thời gian luân chuyển của tài sản và thời hạn sử dụng, ta có thể chia tài
sản thành hai loại: Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn
Tài sản ngắn hạn: Tài sản ngắn hạn là những tài sản mà thời gian sử dụng, thu
hồi vốn luân chuyển trong khoảng thời gian 12 tháng hoặc một chu kì kinh doanh của
doanh nghiệp. Căn cứ vào các khoản mục trong bảng cân đối kế toán, TSNH bao gồm:
tiền và các khoản tương đương tiền, tài sản tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu
ngắn hạn, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác.
Tiền và các khoản tương đương tiền: phản ánh toàn bộ số tiền hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm báo cáo, gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển,
chứng khoán dễ thanh khoản. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn
hạn có thời hạn thu hồi hoặc đáo hạn không quá 3 tháng có khả năng chuyển đổi dễ
dàng thành một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành
tiền kể từ ngày mua khoản đầu tư đó tại thời điểm báo cáo. Việc trữ lượng tiền và các
khoản tương đương tiền hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng kiểm soát khả năng
thanh toán tức thời.
Tài sản tài chính ngắn hạn: Bao gồm các khoản đầu tư chứng khoán có thời hạn
thu hồi dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh như: tín phiếu kho bạc, kỳ
phiếu ngân hàng,… hoặc chứng khoán mua vào bán ra (cổ phiếu, trái phiếu) để kiếm
lời và các loại đầu tư tài chính khác không quá một năm. Đây là khoản vừa có tính
thanh khoản cao, vừa có khả năng sinh lời. Khi có nhu cầu thanh toán mà tiền không
đáp ứng đủ thì doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán này.
Các khoản phải thu ngắn hạn: Là các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng,
phải thu nội bộ ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc
thanh toán trong vòng một năm. Đây là một loại tài sản quan trọng đặc biệt là trong
các doanh nghiệp thương mại. Doanh nghiệp muốn mở rộng mạng lưới tiêu thụ và giữ
các mối quan hệ với các bạn hàng thân thiết thì sẽ phát sinh ra các khoản tín dụng
thương mại. Các khoản này có thể giúp doanh nghiệp nâng cao doanh số, từ đó thúc
2
Thang Long University Library
đẩy doanh thu nhưng cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn khi doanh
nghiệp không thể hoặc khó thu hồi nợ từ khách hàng.
Hàng tồn kho: Hàng tồn kho là một loại tài sản thường chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp, bao gồm vật tư, hàng hoá, sản phẩm, sản
phẩm dở dang lưu trong kho bãi, hàng gửi bán, hàng mua đi đường... Hàng tồn kho
trong doanh nghiệp thường gồm nhiều loại và có vai trò khác nhau trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Hơn nữa, công tác tổ chức quản lý hàng tồn kho cũng có những đặc
thù riêng. Do đó, đòi hỏi công tác tổ chức, quản lý và hạch toán hàng tồn kho phải rõ
ràng và chính xác. Việc quản lý và sử dụng có hiệu quả hàng tồn kho có ảnh hưởng
lớn đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước ngắn hạn,
thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, thuế và các khoản khác phải thu Nhà nước, tài sản
ngắn hạn khác. Cụ thể, các khoản tạm ứng là tiền hoặc vật tư do doanh nghiệp giao
cho người nhận tạm ứng để thực hiện hoạt động kinh doanh nào đó. Chi phí trả trước
ngắn hạn là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác động đến kết quả hoạt
động của nhiều kì thanh toán.
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thường được phân bổ ở khắp giai đoạn của
quá trình sản xuất thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, để nâng cao hiệu
quả kinh doanh cần phải thường xuyên phân tích từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
Tài sản dài hạn: Tài sản dài hạn là những tài sản thường có giá trị lớn và thời
gian sử dụng dài, thời gian sử dụng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh bình thường trong vòng 12
tháng thì những tài sản có khả năng thu hồi vốn hay thanh toán sau 12 tháng kể từ khi
kết thúc năm kế toán được coi là tài sản dài hạn. Đối với doanh nghiệp có chu kỳ kinh
doanh dài hơn 12 tháng thì những tài sản có khả năng thu hồi vốn hay thanh toán sau
một chu kỳ kinh doanh kể từ khi kết thúc năm kế toán được coi là tài sản dài hạn. Tài
sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm:
Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn của khách hàng, phải
thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc thanh
toán trên một năm. Các khoản phải thu dài hạn này có ảnh hưởng khá lớn tới kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp quản lý khoản phải thu dài
hạn không tốt sẽ dẫn tới tình trạng không thu hồi được nợ, gây khó khăn trong việc
luân chuyển vốn kinh doanh.
3
Bất động sản đầu tư: là những bất động sản gồm: quyền sử dụng đất, nhà hoặc
một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi
thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho
thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hoá,
dịch vụ hay cho các mục đích quản lý hoặc bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông
thường. Một bất động sản đầu tư được ghi nhận là tài sản phải thoả mãn đồng thời hai
điều kiện sau: Doanh nghiệp chắc chắn có thể thu được lợi ích kinh tế từ khoản bất
động sản đầu tư trong tương lai. Đồng thời, nguyên giá của bất động sản đầu tư phải
được xác định rõ ràng và cụ thể nhất; nguyên giá của bất động sản đầu tư bao gồm giá
mua và các chi phí liên quan trực tiếp, như: phí dịch vụ tư vấn luật pháp liên quan,
thuế trước bạ và các chi phí giao dịch liên quan khác.
Tài sản cố định: Trong doanh nghiệp hầu như tài sản cố định thường chiếm tỉ
trọng cao trong tổng tài sản dài hạn. Các tài sản dài hạn của doanh nghiệp đều được
mua sắm, xây dựng hay lắp đặt chi trả bằng tiền và được đầu tư từ nguồn vốn ổn định.
Nguồn vốn ổn định của doanh nghiệp thường bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, vay dài
hạn. Số vốn này doanh nghiệp kinh doanh có lãi sẽ thu hồi lại sau các chu kỳ kinh doanh.
Theo điều 3 của Thông tư 45/2013/TT-BTC, tài sản cố định là những tài sản có
giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thỏa
mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn sau: Chắc chắn phải thu được lợi ích kinh tế trong
tương lai từ việc sử dụng tài sản; Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin
cậy; Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên; Có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên.
Về lợi ích thu được có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Lợi ích trực tiếp xác định
khi những tài sản được sử dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Những tài sản mặc dù không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhưng đó là những tài sản cần thiết cho doanh nghiệp để
đảm bảo điều kiện hoạt động kinh doanh tốt hơn của doanh nghiệp, hoặc đạt được lợi
ích kinh tế nhiều hơn từ các tài sản khác, khi đó việc sử dụng những tài sản này sẽ
mang lại lợi ích gián tiếp của doanh nghiệp. Sự chắc chắn đối với việc thu được lợi ích
trong tương lai là việc xác định tại thời điểm ghi nhận tài sản cố định, mục đích sử
dụng của tài sản cố định được xác định rõ ràng mà không tính đến các rủi ro tiềm tàng
có thể có trong quá trình sử dụng tài sản.
Trong điều kiện hiện nay, tài sản cố định được xem như là yếu tố quyết định
năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc đầu tư đổi mới tài sản cố
định đặc biệt là đối với thiết bị, công nghệ là một trong các yếu tố quyết định đến năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, bởi vì:
4
Thang Long University Library
Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt,
chi phí tạo ra sản phẩm thấp tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu
và do đó doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Xét trên góc độ này,
đầu tư đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi
doanh nghiệp.
Tài sản tài chính dài hạn: Là các khoản đầu tư vào việc mua bán các chứng
khoán có thời hạn thu hồi trên một năm hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, bằng hiện
vật, mua cổ phiếu có thời hạn thu hồi vốn trong thời gian trên một năm và các loại đầu
tư khác trên một năm. Có thể nói tài sản tài chính dài hạn là các khoản vốn mà doanh
nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong thời hạn trên một năm nhằm tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho
doanh nghiệp.
Tài sản dài hạn khác: Bao gồm chi phí trả trước dài hạn, tài sản thuế thu nhập
hoãn lại, tài sản dài hạn khác.
1.1.2.2. Theo tính luân chuyển của tài sản
Khi phân loại tài sản theo tính luân chuyển ta chia tài sản thành hai loại chính:
Tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tài sản cố định: thường là cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu của doanh nghiệp thể
hiện năng lực sản xuất hiện có, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong tổng giá trị
tài sản cố định thì máy móc thiết bị sản xuất là điều kiện quan trọng và cần thiết để
tăng sản lượng và năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tài sản cố
định được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau như theo hình thái biểu hiện, theo
quyền sở hữu, theo tình hình sử dụng… mỗi một cách phân loại sẽ đáp ứng những nhu
cầu quản lý nhất định và có những tác dụng riêng của nó.
Theo hình thái biểu hiện:
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất, có giá trị
lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu. Những tài sản được phân loại theo hình thái biểu
hiện gồm có:
Nhà cửa vật kiến trúc: bao gồm các công trình xây dựng cơ bản như: nhà cửa, vật
kiến trúc, hàng rào, các công trình cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, đường sắt…
phục vụ cho hạch toán sản xuất kinh doanh;
Máy móc thiết bị: bao gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh
doanh như máy móc chuyên dùng, máy móc thiết bị công tác, dây chuyền thiết bị công nghệ;
Thiết bị phương tiện vận tải truyền dẫn: là các phương tiện dùng để vận chuyển
như các loại đầu máy, đường ống và phương tiện khác( ô tô, máy kéo, xe tải, ống dẫn…);
5
Thiết bị, dụng cụ dùng cho quản lý: bao gồm các thiết bị dụng cụ phục vụ cho
quản lý như dụng cụ đo lường, máy tính, máy điều hoà…;
Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm: bao gồm các loại cây lâu năm(
cà phê, chè, cao su…) súc vật nuôi để lấy sản phẩm ( bò sữa, súc vật sinh sản…);
Tài sản cố định khác: bao gồm những tài sản cố định mà chưa được qui định
phản ánh vào các loai nói trên (tác phẩm nghệ thuật, sách chuyên môn kỹ thuật…).
Phương thức phân loại theo hình thái biểu hiện có tác dụng giúp doanh nghiệp
nắm được những tư liệu lao động hiện có với gía trị và thời gian sử dụng bao nhiệu, để
từ đó có phương hướng sử dụng tài sản cố định có hiệu quả.
Theo quyền sở hữu: Theo cách này toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp
được phân thành tài sản cố định tự có và thuê ngoài.
Tài sản cố định tự có: là những tài sản cố định xây dựng, mua sắm hoặc chế tạo
bằng nguồn vốn của doanh nghiệp do ngân sách cấp, do đi vay của ngân hàng, bằng
nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vố liên doanh…;
Tài sản cố định đi thuê: là những tài sản mà doanh nghiệp thuê ngoài để phục vụ
cho yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Với cách phân loại này giúp doanh nghiệp nắm được những tài sản cố định nào
mà mình hiện có và những tài sản cố định nào mà mình phải đi thuê, để có hướng sử
dụng và mua sắm thêm tài sản cố định phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Theo nguồn hình thành: Theo cách phân loại này tài sản cố định được phân thành:
TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn được ngân sách cấp hay cấp trên cấp;
TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp (quĩ
phát triển sản xuất , quĩ phúc lợi…);
TSCĐ nhận vốn góp liên doanh.
Phân loại TSCĐ theo nguồn hình thành, cung cấp được các thông tin về cơ cấu
nguồn vốn hình thành TSCĐ. Từ đó có phương hướng sử dụng nguồn vốn khấu hao
TSCĐ một cách hiệu quả và hợp lý.
Theo tình hình sử dụng: TSCĐ được phân thành các loại sau:
TSCĐ đang sử dụng: đó là những TSCĐ đang trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hay đang sử dụng với những mục đích khác
nhau của những doanh nghiệp khác nhau;
TSCĐ chờ xử lý: bao gồm các TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng vì thừa so
với nhu cầu sử dụng hoặc vì không còn phù hợp với việc sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, hoặc TSCĐ tranh chấp chờ giải quyết. Những TSCĐ này cần xử lý
nhanh chóng để thu hồi vốn sử dụng cho việc đầu tư đổi mới TSCĐ.
6
Thang Long University Library
Tài sản lƣu động: Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên
luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp,
tài sản lưu động được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản
cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp kinh doanh,
sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý sử
dụng hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm
vụ chung của doanh nghiệp. Tài sản lưu động được chia thành hai loại: Tài sản lưu
động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông.
Tài sản lưu động sản xuất: gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình
sản xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư
liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm:
Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang,
công cụ lao động nhỏ.
Tài sản lưu động lưu thông: gồm sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng
tiền, vốn trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong
quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động sản xuất và
tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho
quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình thành nên tài sản lưu động sản
xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp cần phải có một số vốn tương ứng để
đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản ấy được gọi là tài sản lưu
động của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của
chu kỳ kinh doanh: dự trữ - sản xuất - lưu thông, quá trình này được gọi là quá trình
tuần hoàn và chu chuyển của tài sản lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh
doanh tài sản lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện. Tài sản lưu động chỉ tham gia
vào một chu kỳ sản xuất mà không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của
nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Như vậy, sau mỗi chu kỳ
kinh doanh thì tài sản lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển. Tài sản lưu động
theo một vòng tuần hoàn, từ hình thái này sang hình thái khác rồi trở về hình thái ban
đầu với một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
1.1.2.3. Theo hình thức biểu hiện của tài sản
Phân loại theo hình thức biểu hiện của tài sản được chia làm hai loại: Tài sản hữu
hình và tài sản vô hình.
7
Tài sản hữu hình: Theo Thông tư số 45/2013/TT-BTC ban hành ngày 25 tháng
4 năm 2013 cho biết: Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có
hình thái vật chất thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào
nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà
cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải... Khi nói đến tài sản hữu
hình bắt buộc chúng phải có một số đặc tính riêng như: Thuộc sở hữu của ai đó; có đặc
tính vật lý; có thể trao đổi được; có thể mang giá trị tinh thần hoặc vật chất. Là những
thứ đã tồn tại (tài sản trước kia), đang tồn tại và có thể có trong tương lai.
Tài sản vô hình: Cũng theo Thông tư số 45/2013/TT-BTC ban hành ngày 25
tháng 4 năm 2013, tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất,
thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định
vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp
tới đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền
tác giả...
Tài sản vô hình có những đặc điểm chủ yếu như: có hình thái vật chất không rõ
ràng; có tính mới, là một kỹ thuật mới, sáng chế mới, một sáng tác mới hoặc một tác
phẩm mới; việc xác định giá trị rất phức tạp; tồn tại sự hao mòn vô hình; thời gian sử
dụng hữu ích của một tài sản vô hình thường là một đại lượng biến đổi, không cố định,
có thể dài ngắn khác nhau nhưng không phải là vô hạn định.
1.1.3. Vai trò của tài sản trong doanh nghiệp
Về mặt pháp lý
Theo quy định của Nhà nước, mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện
đầu tiên là phải có một lượng tài sản hay lượng vốn tối thiểu bằng lượng vốn pháp
định, khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Các doanh nghiệp
cùng hoạt động và cạnh tranh trong môi trường pháp lý của nhà nước nên phải thực
hiện đầy đủ các thủ tục, yêu cầu của Nhà nước ban hành. Nếu trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, lượng tài sản xuống dưới mức quy định của Nhà nước thì doanh nghiệp đó
buộc phải chấm dứt hoạt động và chờ xử lý. Như vậy, tài sản hay vốn được xem là một
cơ sở quan trọng để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước
pháp luật.
Về mặt kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, xu thế cạnh tranh là tất yếu: “Sản xuất cái gì? Sản
xuất cho ai? Sản xuất như thế nào?” là những câu hỏi luôn được đặt ra đòi hỏi các
doanh nghiệp phải tìm ra được lời giải đáp thoả đáng nhất. Muốn vậy doanh nghiệp
phải điều tra nắm bắt thị trường, từ đó lựa chọn quy trình công nghệ phù hợp tạo ra cơ
sở vật chất hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Để đạt
8
Thang Long University Library
được mục tiêu lớn thì cần phải làm tốt các bước nhỏ ngay từ đầu, cụ thể là tìm hiểu về
vai trò của nguồn vốn và tài sản doanh nghiệp. Tài sản là yếu tố quan trọng quyết định
năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp
trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế hiện nay khi sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng cải tiến, hiện đại hoá
công nghệ và có chiến lược đầu tư, sử dụng tài sản hợp lý. Thêm vào đó, việc đảm bảo
khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, hình thành nên các tài sản
sẽ phục vụ cho quá trình sản xuất và đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được
diễn ra thường xuyên, liên tục, đạt hiệu quả theo mục tiêu của mỗi doanh nghiệp.
Việc nhận thức được vai trò quan trọng của tài sản sẽ giúp cho doanh nghiệp sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả, đầu tư đúng lúc, phù hợp và luôn tìm cách nâng cao hiệu
quả sử dụng tài sản, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường sự phát triển doanh nghiệp.
1.2. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục
tiêu của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện nhất định.
Hiệu quả được xem xét trong bối cảnh hay điều kiện nhất định, đồng thời cũng được
xem xét dưới quan điểm đánh giá của chủ thể nghiên cứu.
Mục tiêu chung của bất kỳ doanh nghiệp nào là tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu
hoá chi phí. Do vậy, một doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển được thì phải
quan tâm tới hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế được hiểu là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu xác
định trong quá trình sản xuất – kinh doanh. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của
một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các bộ phận.
Để thực hiện được mục tiêu đó, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao
trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó có công tác quản lý và sử dụng tài sản
vì đây là những bộ phận quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong đó hiệu quả sử dụng tài sản gắn liền với lợi ích của
doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các
doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản.
Khi phân tích hiệu quả sử dụng tài sản, cần phải nghiên cứu một cách toàn diện
cả về thời gian, không gian, môi trường kinh doanh và đồng thời đặt nó trong mối
quan hệ với sự biến động giá cả của các yếu tố sản xuất. Việc trước hết là phải xây
dựng được hệ thống các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết phù hợp với đặc điểm
của từng nhóm tài sản trong các doanh nghiệp, sau đó phải biết vận dụng thích hợp.
Việc phân tích phải tiến hành trên cơ sở phân tích từng chỉ tiêu sau đó tổng hợp lại, từ
9
đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, nhằm khai thác hết công
suất các tài sản đã đầu tư.
Tóm lại, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp phản ánh trình độ, năng lực
khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp sao cho quá trình sản xuất kinh doanh
tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tổng tài sản
Đánh giá hiệu quả sử dụng tổng tài sản giúp doanh nghiệp nắm bắt mức độ sử
dụng tổng tài sản, xu hướng và các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới quá
trình sử dụng. Việc đánh giá bất kì một vấn đề nào đều cần hệ thống chỉ tiêu riêng và
phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Theo giáo trình “Phân tích báo cáo tài chính” của
PGS.TS Nguyễn Năng Phúc, các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử
dụng tổng tài sản gồm:
Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)
Tỷ suất sinh lời của tổng tài sản =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân trong kỳ
Tỷ suất sinh lời của tổng tài sản cho biết trong một kỳ phân tích, doanh nghiệp
đầu tư 100 đồng tài sản thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khoản mục đầu tư vào tài sản cao, nguồn lực từ
tài sản được doanh nghiệp khai thác tốt, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
càng tốt và ngược lại; chỉ số của chỉ tiêu càng thấp mức sinh lời từ tài sản thấp, hiệu
quả kinh tế thấp. Từ kết quả tính toán, doanh nghiệp có thể tính toán khả năng mở
rộng đầu tư thiết bị máy móc, phân xưởng… tăng quy mô thị trường hay cắt bỏ nhằm
thu hồi vốn.
Số vòng quay của tài sản
Số vòng quay của tài sản =
Tổng doanh thu thuần
Tài sản bình quân
Số vòng quay của tài sản cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được
bao nhiêu vòng, tức mỗi đồng tài sản doanh nghiệp đầu tư thu được bao nhiêu đồng
doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ các tài sản vận động nhanh, góp phần
tăng doanh thu và là điều kiện nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này
thấp, chứng tỏ các tài sản vận động chậm hoặc hàng tồn kho và sản phẩm dở dang
nhiều khiến cho doanh thu của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên, chỉ tiêu này phụ thuộc
vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, đặc điểm cụ thể của tài sản trong các doanh nghiệp.
10
Thang Long University Library
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân trong kỳ
Trong đó: Tổng tài sản bình quân trong kỳ là bình quân số học của tổng tài sản ở
đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu
thuần. Chỉ tiêu này càng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản càng cao, nếu tỷ lệ này thấp cho
thấy nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng không hiệu quả, có thể là doanh nghiệp
thừa hàng tồn kho, khoản phải thu, đầu tư tài sản nhàn rỗi hoặc tiền mặt dự trữ vượt
quá nhu cầu.
Suất hao phí của tài sản so với doanh thu thuần
Khả năng tạo ra doanh thu thuần của tài sản là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản để dự
kiến vốn đầu tư khi doanh nghiệp muốn một mức doanh thu thuần như dự kiến, chỉ
tiêu này thường được xác định như sau:
Suất hao phí của tài sản so với doanh thu thuần =
Tài sản bình quân
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được 1 đồng doanh
thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ thì cần bao nhiêu đồng tài sản đầu tư. sản
bình quân. Suất hao phí của tài sản so với doanh thu thuần càng cao chứng tỏ doanh
nghiệp đang phải mất rất nhiều chi phí từ đầu tư tài sản cho hoạt động kinh doanh trên
thị trường hoặc đang gặp vấn đề trong công tác kiểm soát chi phí phát sinh, lợi nhuận
thu được không cao. Ngược lại, chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng tài sản
càng tốt, góp phần tiết kiệm tài sản và nâng cao doanh thu thuần trong kỳ của
doanh nghiệp.
Suất hao phí của tài sản so với lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của các tài sản mà
doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu này thường được xác
định như sau:
Suất hao phí của tài sản so với lợi nhuận sau thuế =
Tài sản bình quân
Lợi nhuận sau thuế TNDN
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được 1 đồng lợi nhuận
sau thuế TNDN thì cần bao nhiêu đồng tài sản. Tương tự như chỉ tiêu suất hao phí của
tài sản so với doanh thu thuần, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả sử dụng tài sản càng cao.
11
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Quá trình vận động của tài sản ngắn hạn bắt đầu từ giai đoạn cung cấp, dùng tiền
để mua nguyên vật liệu dự trữ quá trình sản xuất, sau đó tiến hành tổ chức sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Muốn cho quá trình sản xuất liên tục, doanh nghiệp cần có một
lượng vốn nhất định để đầu tư vào từng giai đoạn của quá trình sản xuất. Quản lý chặt
chẽ tài sản ngắn hạn sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng
cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ta
thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Nhóm chỉ tiêu hoạt động: Là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh
nghiệp. Hệ số hoạt động còn được gọi là hệ số hiệu quả hay hệ số luân chuyển.
Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn:
Tỷ suất sinh lời của TSNH =
Lợi nhuận sau thuế
Tài sản ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng TSNH thì
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn càng tốt, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Hiệu
quả của việc sử dụng TSNH thể hiện ở lợi nhuận của doanh nghiệp, đây chính là kết
quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này phản ánh hiệu quả HĐSXKD
nói chung và hiệu quả sử dụng TSNH nói riêng. Với công thức trên ta thấy nếu TSNH
trong kỳ thấp mà lợi nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng TSNH cao.
Tài sản ngắn hạn bình quân được tính tuỳ theo mục đích của việc phân tích
tháng, quý, năm, có thể tính như sau:
TSNH bình quân =
TSNH đầu kỳ + TSNH cuối kỳ
2
Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Doanh thu thuần
TSNH bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH trên mối quan hệ so sánh giữa
Hiệu suất sử dụng TSNH =
doanh thu thuần và số TSNH bỏ ra trong một kỳ. Nói cách khác, chỉ tiêu hiệu suất sử
dụng TSNH cho biết trong một năm TSNH của doanh nghiệp luân chuyển được bao
nhiêu vòng hay một đồng TSNH tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này
càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSNH càng cao, đó là nhân tố góp phần nâng cao
lợi nhuận.
12
Thang Long University Library
Thời gian luân chuyển tài sản ngắn hạn
365
Thời gian luân chuyển TSNH =
Vòng quay tài sản ngắn hạn trong kỳ
Vòng quay tài sản ngắn hạn trong kỳ là chỉ tiêu phản ánh số lần quay của tài sản
ngắn hạn trong một kỳ nhất định. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
hạn trên mối quan hệ so sánh giữa doanh thu thuần và số tài sản ngắn hạn bỏ ra trong
kỳ. Chỉ tiêu này cho biết trong một năm tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp luân
chuyển được bao nhiêu vòng hay một đồng tài sản ngắn hạn mang lại bao nhiêu đồng
doanh thu. Số vòng quay càng cao, chứng tỏ tài sản ngắn hạn vận động càng nhanh,
góp phần nâng cao doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Suất hao phí của TSNH so với doanh thu thuần
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Suất hao phí của TSNH so với DTT =
Tài sản
ắ
ạ bình quân
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có một đồng doanh thu thuần trong kỳ
thì cần bao nhiêu đồng giá trị tài sản ngắn hạn. Khi phân tích chỉ tiêu này, doanh
nghiệp có thể có được căn cứ để đầu tư tài sản ngắn hạn sao cho phù hợp và đạt được
hiệu quả cao nhất. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ doanh nghiệp đầu tư vào tài sản
ngắn hạn không nhiều nhưng lại đạt được hiệu quả lớn từ đó cho thấy hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn cao.
Suất hao phí của TSNH so với lợi nhuận sau thuế:
Suất hao phí của TSNH so với lợi nhuận sau thuế =
Tài sản
ắ
ạ bình quân
Lợi nhuận sau thuế TNDN
Ý nghĩa của chỉ tiêu như sau: Để có 1 đồng lợi nhuận sau thuế thì cần bao nhiêu
đồng tài sản ngắn hạn bình quân. Chỉ tiêu này là căn cứ để các doanh nghiệp xây dựng
dự toán về nhu cầu tài sản ngắn hạn khi muốn có mức lợi nhuận mong muốn. Chỉ tiêu
này càng thấp càng chứng tỏ doanh nghiệp đang sử dụng TSNH hiệu quả. Việc phân
tích suất hao phí của TSNH so với lợi nhuận sau thuế góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh, từ đó doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp thích hợp nhằm làm giảm suất hao
phí vốn chủ sở hữu trên lợi nhuận sau thuế. Điều này buộc các nhà quản lý phải xác
định được một cấu trúc tài chính hợp lý, vừa bảo đảm vốn cho kinh doanh, vừa bảo
đảm an ninh tài chính lại vừa có hiệu quả nhất.
13
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Trong kinh doanh, vấn đề làm cho mỗi doanh nghiệp lo ngại đó là các khoản nợ
khó đòi hay các khoản phải trả mà không có khả năng thanh toán. Căn cứ vào luật
doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp có khả năng bị buộc tuyên bố phá sản nếu
không có khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp luôn
phải duy trì một mức tài sản luân chuyển hợp lý để đáp ứng kịp thời các khoản nợ
ngắn hạn, duy trì các loại hàng tồn kho để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh thuận lợi. Do đó, các chỉ tiêu sau đây thường được sử dụng để phân tích khả
năng thanh toán của một doanh nghiệp:
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn bình quân
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành là một trong những thước đo cơ bản để
đánh giá khả năng thanh toán của một doanh nghiệp, dùng để đo lường khả năng trả
các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp và các khoản phải trả bằng các tài sản ngắn
hạn của doanh nghiệp như tiền mặt, các khoản phải thu…Hệ số này phản ánh một
đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn. Nếu hệ số
thanh toán hiện hành giảm (<1) cho thấy khả năng thanh toán giảm, đó là dấu hiệu báo
trước những khó khăn về tài chính, rủi ro thanh khoản. Nếu hệ số này cao (>1), điều
đó có nghĩa là doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Song nếu hệ số
này quá cao, chứng tỏ nguồn tài sản lưu động đang bị tồn đọng quá lớn, không sinh lời
dẫn đến hiệu quả kinh doanh giảm. Tuy nhiên, hệ số này chỉ phản ánh một cách tạm
thời tình hình thanh toán của doanh nghiệp vì tài sản ngắn hạn bao gồm cả các khoản
phải thu và hàng tồn kho. Chính vì vậy để đánh giá chính xác hơn về khả năng thanh
toán của doanh nghiệp, ta cần xét thêm một số chỉ tiêu khác nữa.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh =
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn bình quân
Khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu thể hiện khả năng trả nợ ngắn hạn bằng
các tài sản có khả năng chuyển thành tiền một cách nhanh nhất không tính đến hàng
tồn kho, tức là một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn
hạn có tính thanh khoản cao. Đây là chỉ tiêu được đối tác doanh nghiệp quan tâm do có
thể đánh giá được tại thời điểm phân tích doanh nghiệp có khả năng thanh toán ngay
các khoản nợ ngắn hạn hay không. Ngoài khả năng thanh toán nhanh ta còn cần phải
xem xét đến hệ số khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
14
Thang Long University Library
Hệ số khả năng thanh toán tức thời:
Tiền và các khoản tương đương tiền
Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn bình quân
Đây là chỉ tiêu đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tiền bao
gồm: tiền mặt, tiền gửi và tiền đang chuyển. Tương đương tiền là các khoản đầu tư
ngắn hạn và có thể chuyển đổi thành tiền bất cứ lúc nào.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời phản ánh rằng với lượng tiền và tương đương
tiền hiện có doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bất kỳ lúc
nào, đặc biệt là nợ ngắn hạn đến hạn. Khi trị số của chỉ tiêu này lớn hơn 1, doanh
nghiệp bảo đảm và thừa khả năng thanh toán tức thời và ngược lại. Trong thời gian ba
tháng, trị số của chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời có giá trị cảnh báo cao, nếu
doanh nghiệp không đảm bảo đủ khả năng thanh toán tức thời, nhà quản trị doanh
nghiệp sẽ phải áp dụng ngay các biện pháp tài chính khẩn cấp để tránh cho doanh
nghiệp không bị lâm vào tình trạng phá sản.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng quay vòng của tiền
Vòng luân chuyển hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Vòng luân chuyển hàng tồn kho
=
Hàng tồn kho bình quân
Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ phân tích vốn đầu tư, hàng tồn kho quay được bao
nhiêu vòng. Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp
bán hàng càng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Đây là nhân tố giúp tăng
doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao thì
doanh nghiệp dễ gặp phải một số vấn đề như dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho các
khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ, nhu cầu thị
trường tăng đột ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng..v..v. Vì vậy,
hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng
được nhu cầu khách hàng.
Hàng tồn kho bình quân được tính theo công thức như sau:
HTK đầu kỳ + HTK cuối kỳ
Hàng tồn kho bình quân =
2
Thời gian quay vòng hàng tồn kho
365
Thời gian quay vòng HTK
=
Số vòng quay của HTK
15
Chỉ tiêu này cho biết vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu lâu, chỉ tiêu này
càng thấp chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh. Doanh nghiệp mất ít thời gian quay
vòng hàng tồn kho, tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp. Việc tăng tốc độ luân chuyển
hàng tồn kho đồng nghĩa với thời gian hàng hoá lưu tại kho giảm. Đồng thời, tăng tốc
độ luân chuyển hàng tồn kho còn giúp doanh nghiệp giảm chi phí, giảm giá thành sản
phẩm tạo điều kiện cho việc thoả mãn nhu cầu sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hệ số đảm nhiệm hàng tồn kho
Hệ số đảm nhiệm hàng tồn kho cho biết doanh nghiệp muốn có một đồng doanh
thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư cho hàng tồn kho, chỉ tiêu này càng thấp
thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho hàng tồn kho càng cao. Thông qua chỉ tiêu này,
doanh nghiệp sẽ lên được kế hoạch cụ thể về dự trữ, thu mua, sử dụng hàng hoá, thành
phần một cách hợp lý.
Hệ số đảm nhiệm HTK
Hàng tồn kho bình quân
=
Doanh thu thuần
Mục đích của việc phân tích tình hình luân chuyển của hàng tồn kho là lên được
kế hoạch sử dụng và đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho
hàng tồn kho. Tăng tốc độ luân chuyển hàng tồn kho là rút ngắn thời gian hàng tồn kho
nằm trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời là điều kiện quan
trọng để phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thêm điều kiện mở
rộng quy mô của quá trình sản xuất mà không cần tăng thêm vốn đầu tư.
Vòng quay các khoản phải thu
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu bình quân
Vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc khách
hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản
nợ đã đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng. Chỉ tiêu này cho
biết khả năng thu nợ của doanh nghiệp trong kỳ phân tích doanh nghiệp đă thu được
bao nhiêu nợ và số nợ còn tồn đọng chưa thu được là bao nhiêu. Chỉ số vòng quay
càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Theo dõi số vòng quay
khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp hay tình
hình thu hồi nợ của doanh nghiêp. Ngoài việc so sánh chỉ tiêu này qua các năm, người
phân tích cần xem xét từng khoản thu để phát hiện nợ đến hạn, nợ quá hạn để đưa ra
biện pháp xử lý đồng thời có thể tính toán thời gian thu tiền bình quân.
16
Thang Long University Library
Thời gian thu tiền trung bình
365
Thời gian thu tiền trung bình =
Vòng quay các khoản phải thu
Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp, nó phản ánh thời gian
cần thiết để thu hồi các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ
thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. Thời gian thu nợ bình quân cao hay thấp phụ
thuộc vào chính sách bán chịu của doanh nghiệp.
Vòng quay các khoản phải trả
Chỉ số vòng quay các khoản phải trả phản ánh khả năng chiếm dụng vốn của
doanh nghiệp đối với nhà cung cấp. Chỉ số vòng quay các khoản phải trả quá thấp có
thể ảnh hưởng không tốt đến xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp. Công thức tính chỉ
số vòng quay các khoản phải trả như sau:
Giá vốn hàng bán
Vòng quay khoản phải trả =
Các khoản phải trả bình quân
Chỉ tiêu vòng quay các khoản phải trả năm nay nhỏ hơn năm trước chứng tỏ
doanh nghiệp chiếm dụng vốn và thanh toán chậm hơn năm trước. Ngược lại, nếu chỉ
số năm nay lớn hơn năm trước chứng tỏ doanh nghiệp chiếm dụng vốn và thanh toán
nhanh hơn năm trước.
Nếu chỉ số vòng quay các khoản phải trả quá nhỏ (các khoản phải trả lớn), sẽ
tiềm ẩn rủi ro về khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý việc chiếm dụng
khoản vốn này có thể sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí về vốn, đồng thời thể
hiện uy tín về quan hệ thanh toán đối với nhà cung cấp và chất lượng sản phẩm đối với
khách hàng.
Kỳ chuyển đổi khoản phải trả
Đây là chỉ tiêu thể hiện số ngày trung bình mà doanh nghiệp cần để trả tiền cho
nhà cung cấp. Hệ số này thế hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người bán. Hệ số
kỳ chuyển đổi các khoản phải trả cao nghĩa là doanh nghiệp có quan hệ tốt với nhà
cung cấp và có khả năng kéo giãn thời gian trả tiền cho người bán. Ngược lại hệ số
thấp nghĩa là doanh nghiệp phải trả tiền cho người bán trong thời gian ngắn sau khi
nhận hàng.
365
Kỳ trả nợ bình quân =
Vòng quay các khoản phải trả
17
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn của doanh nghiệp gồm nhiều loại và có vai trò và vị trí khác nhau
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, chúng thường xuyên biến động về quy
mô, kết cấu và tình trạng kỹ thuật. Do vậy, phân tích hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
với mục đích để đầu tư tài sản dài hạn hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Khi phân tích hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn ta thường tập trung
phân tích các chỉ tiêu sau:
Tỷ suất sinh lời của tài sản dài hạn
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lời của tài sản dài hạn
=
Tài sản dài hạn bình quân
Tỷ suất sinh lời của TSDH cho biết cứ 100 đồng giá trị TSDH bình quân sử dụng
trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả
sử dụng TSDH của doanh nghiệp là tốt, đây cũng là yếu tố thu hút đầu tư từ các đối tác
bên ngoài doanh nghiệp.
Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSDH =
TSDH bình quân trong kỳ
Trong đó: Tài sản dài hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản dài
hạn có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị giá trị tài sản dài hạn sử dụng trong kỳ tạo ra
bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này thể hiện sự vận động của tài sản dài
hạn trong kỳ, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tài sản dài hạn vận động càng nhanh. Tài
sản dài hạn được khai thác hợp lý và hiệu quả. Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng thúc
đầy hiệu quả sử dụng tổng tài sản nói riêng và nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung
Suất hao phí của tài sản dài hạn so với doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng doanh thu trong kỳ thì cần
bao nhiêu đồng giá trị tài sản dài hạn. Đây là căn cứ để nhà quản trị doanh nghiệp
quyết định sử dụng tài sản dài hạn sao cho phù hợp:
TSDH bình quân trong kỳ
Suất hao phí của TSDH so với doanh thu =
Doanh thu thuần trong kỳ
Suất hao phí của TSDH còn là căn cứ để xác định nhu cầu vốn dài hạn của doanh
nghiệp khi muốn đạt được mức doanh thu như mong muốn. Chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ doanh thu thuần không đảm bảo khả năng hoàn vốn cho tài sản dài hạn, chi
18
Thang Long University Library
phí trong doanh nghiệp chưa được kiểm soát và quản lý có hiệu quả gây lãng phí trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Suất hao phí của tài sản dài hạn so với lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
TSDH bình quân trong kỳ
Suất hao phí của TSDH so với lợi nhuận =
Lợi nhuận sau thuế TNDN
Trong đó, nếu doanh nghiệp muốn có 1 đồng lợi nhuận sau thuế TNDN trong kỳ
thì cần bao nhiêu đồng giá trị tài sản dài hạn. Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt, đồng
thời doanh nghiệp sẽ xác định nhu cầu vốn dài hạn nhất định khi muốn đạt được lợi
nhuận như mong muốn.
1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một trong những vấn đề được các nhà quản
trị doanh nghiệp quan tâm hàng đầu hiện nay. Tính hiệu quả của việc sử dụng tài sản
được thể hiện qua việc tăng lợi nhuận mà không làm tăng vốn hoặc đầu tư vốn hợp lý
nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh thu nhưng vẫn đảm bảo tốc độ tăng lợi
nhuận lớn hơn tốc độ tăng tài sản.
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản chính là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư. Khi hiệu quả sử dụng tài sản cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã làm cho đồng vốn
đầu tư sử dụng có hiệu quả và sẽ tạo cho doanh nghiệp một uy tín tốt để huy động vốn.
Bên cạnh đó khi hiệu quả sử dụng tài sản cao thì nhu cầu vốn sẽ giảm đi, do đó sẽ cần
ít vốn hơn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh nhất định, từ đó sẽ làm giảm chi phí cho sử
dụng nguồn vốn, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí.
Tài sản được sử dụng hiệu quả (đặc biệt là TSCĐ) sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo
toàn và phát huy vốn tốt nhất do tận dụng được công suất máy móc, sắp xếp dây
chuyền sản xuất hợp lý hơn, vấn đề khấu hao TSCĐ, trích lập quỹ khấu hao... được
tiến hành đúng đắn, chính xác.
Nói tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một tất yếu trong cơ chế
thị trường cạnh tranh gay gắt, có ý nghĩa quan trọng không những giúp cho doanh
nghiệp tăng được lợi nhuận (là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp) mà còn giúp
doanh nghiệp bảo toàn và phát triển nguồn vốn, tăng sức mạnh tài chính, giúp doanh
nghiệp đổi mới, đẩy nhanh tốc độ hoạt động, phát huy tối đa năng lục sản xuất kinh
doanh góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội.
19
1.4. Nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, trước hết ta phải
xác định rõ ràng các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh
nghiệp. Đây là việc nhận thức một cách đúng đắn những yếu tố tác động đến kết quả
nhất định trong việc phân tích kinh doanh. Doanh nghiệp cần xác định rõ ràng, chính
xác sức ảnh hưởng của từng nhân tố đến với doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn chịu sự tác động từ nhiều phía, cả
môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp. Do vậy để đạt hiệu quả
tối ưu, doanh nghiệp cần phân tích đánh giá và biết kết hợp hài hòa giữa các yếu tố này
để đưa ra các chiến lược và kế hoạch phù hợp trong từng giai đoạn góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản cho doanh nghiệp mình. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
sử dụng tài sản doanh nghiệp được chia làm hai loại: nhân tố khách quan và nhân tố
chủ quan.
1.4.1. Nhân tố khách quan
Môi trƣờng chính trị - pháp luật
Đảng và Nhà nước ban hành các luật lệ, chính sách nhằm mục đích tránh sự gian
lận, đảm bảo sự công bằng và an toàn trong xã hội; có trách nhiệm quản lý các doanh
nghiệp để nó đi vào hoạt động theo khuôn khổ. Một trong những công cụ của Nhà
nước để điều tiết nền kinh tế là các chính sách tài chính, tiền tệ. Sự thắt chặt hay nới
lỏng chính sách quản lý kinh tế đều có ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Việc ban hành hệ thống luật pháp chặt chẽ sẽ tạo ra môi trường kinh doanh bình
đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo quyền lợi của
cả nhà sản xuất và người tiêu dùng. Các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh
tế, chính sách cơ cấu… sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành,
từng vùng kinh tế cụ thể, do đó tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp thuộc các ngành, vùng kinh tế nhất định.
Môi trƣờng kinh tế
Môi trường kinh tế có vai trò lớn, tác động mạnh tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp luôn phụ thuộc với trạng thái phát triển
của nền kinh tế: tăng trưởng, ổn định hay suy thoái. Sự tăng trưởng kinh tế sẽ quyết
định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả năng phát triển các hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Hệ thống tài chính tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách tài khoá của nhà
nước có tác động lớn tới quá trình ra quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp. Nền
kinh tế quốc dân ổn định thì các hoạt động kinh doanh cũng giữ ở mức ổn định. Khi
nền kinh tế quốc dân suy thoái sẽ tác động theo hướng tiêu cực đối với các doanh nghiệp.
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -