Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty Cổ phần Xây dựng Vina Des...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty Cổ phần Xây dựng Vina Descon Việt Nam

.PDF
61
324
101

Mô tả:

CHƢƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Tổng quan về tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm tài sản ngắn hạn Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong một kỳ kinh doanh hoặc trong một năm. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có thể tồn tại dưới hình thái tiền, hiện vật (vật tư, hàng hoá), dưới dạng đầu tư ngắn hạn và các khoản nợ phải thu. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm: vốn bằng tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác. (Lê Thị Xuân, giáo trình“Phân tích tài chính doanh nghiệp”, NXB Dân Trí (2011), trang 45) 1.1.2. Đặc điểm tài sản ngắn hạn Dựa trên định nghĩa vừa nêu ở trên, chúng ta có thể khái quát được những nét đặc thù của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp như sau: Tài sản ngắn hạn có tính chất không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kì kinh doanh: Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ gồm: nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu đóng gói. Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất như: sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, khoản phí tổn đợi phân bổ. Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông gồm: thành phẩm, tiền. Phương thức hoạt động chủ yếu của các nhà doanh nghiệp đó là: T- H – SX – H’ – T’ (đối với doanh nghiệp sản xuất) hoặc T – H – T (đối với doanh nghiệp chỉ thực hiện các hoạt động thương mại) Các quá trình trên diễn ra liên tục và lặp đi lặp lại theo chu kì nhất định được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của tài sản ngắn hạn. Theo như phương thức trên thì hình thái ban đầu của tài sản ngắn hạn là tiền tệ, trải qua các giai đoạn sản xuất thành phẩm, lưu thông hàng hóa (tiêu thụ) rồi lại trở về hình thái ban đầu (dưới dạng doanh thu). Kết thúc cả quá trình vận động, tài sản ngắn hạn luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn, nhưng được chuyển biến từ dạng này sang dạng khác. Tài sản ngắn hạn có thời gian luân chuyển ngắn: Thời gian luân chuyển của tài sản ngắn hạn thường chỉ trong vòng một chu kì kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có những hình thái tài sản khác nhau. Với doanh nghiệp thương mại, khoảng thời gian kể từ khi bỏ tiền thu mua hàng hóa tới khi 1 đem bán được hàng hóa đó được coi là một chu kì kinh doanh. Còn đối với doanh nghiệp sản xuất, một chu kì kinh doanh được tính từ khi doanh nghiệp mua vật tư, nguyên vật liệu đến khi sản xuất và tiêu thụ hoàn toàn số lượng thành phẩm đó. Trải qua quá trình vận động này, tài sản ngắn hạn còn tạo được sự biến đổi đáng kể về giá trị, vượt hẳn lên so với việc chỉ biến đổi về hình thái thông thường. Sử dụng những thông tin từ sự biến đổi này không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, tạo hiệu ứng tích cực trong hoạt động thu hồi, bổ sung tài sản ngắn hạn, phục vụ cho việc đầu tư, mua sắm, trang bị vật tư, thiết bị để tái sản xuất, chuẩn bị cho chu kì kinh doanh kế tiếp. Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao: Tính thanh khoản cao chỉ khả năng dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt của tài sản ngắn hạn. Đây là một đặc điểm vô cùng hữu ích trong việc sử dụng và quản lí tài sản ngắn hạn, bởi nó đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ doanh nghiệp chủ động trong các hoạt động thanh toán, chi trả, giảm chi phí phí kinh doanh từ chiết khấu thanh toán,… đồng thời tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Ngoài ra, tính thanh khoản cao còn là lá chắn an toàn trong những trường hợp khẩn cấp như thua lỗ, hỏng hóc,… các cuộc chạy đua tranh giành thị trường với đối thủ cạnh tranh tùy theo từng gia đoạn hay yếu tố thời vụ trong một chu kì kinh doanh. Tài sản ngắn hạn đáp ứng nhanh chóng sự biến động của doanh số và sản xuất: So với đầu tư và giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản dài hạn, việc thay đổi thậm chí hủy bỏ các khoản mục trên đối với tài sản ngắn hạn tại bất kì thời điểm nào đều có thể tiết kiệm đáng kể chi phí bỏ ra, làm giảm những ảnh hưởng tiêu cực đến doanh số cũng như quá trình sản xuất. Kết luận: Tài sản ngắn hạn là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và luân chuyển không ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. 1.1.3. Phân loại tài sản ngắn hạn Kết cấu tài sản ngắn hạn phản ánh các thành phần và mỗi quan hệ tỉ lệ giữa các thành phần tài sản ngắn hạn chiếm trong tổng số tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khác nhau sẽ có các kết cấu tài sản ngắn hạn không giống nhau. Chính vì thế, việc phân tích tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp có được cái nhìn tổng quát hơn về số tài sản ngắn hạn mà mình đang quản lí, từ đó dễ dàng đưa ra các biện pháp quản lí tài sản ngắn hạn hiểu quả hơn, phù hợp hơn đối với điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Trong tài liệu này, xin được nêu ra một số tiêu thức phân loại cơ bản như sau: 2 Thang Long University Library Theo ĩnh vực và thời gian luân chuyển Tài sản ngắn hạn dự trữ: Là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu dự trữ của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán. Tài sản ngắn hạn sản xuất: Là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá trình sản xuất. Tài sản ngắn hạn lưu thông: Là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu lưu thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các khoản nợ phải thu khách hàng Cách phân chia này đóng vai trò quan trọng trong quá trình xác định chính xác tỉ trọng tài sản ngắn hạn trong từng khâu sản xuất, lưu thông, dự trữ. Từ đó giúp các nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra các biện pháp hợp lí nhằm điều chỉnh, giải quyết một cách kịp thời khi phát hiện những dấu hiệu bất ổn, để có thể giảm thiểu rủi ro về tài chính, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả nhất. Theo chế độ quản lý tài chính hiện hành Tiền và các khoản tương đương tiền (Cash and cash equivalents): Là chỉ tiêu tài sản có tính thanh khoản cao nhất trong phần tài sản của bảng cân đối kế toán. Tiền bao gồm: Tiền mặt tại quỹ: Là số tiền mà doanh nghiệp đang giữ tại quỹ của mình bao gồm tiền Việt Nam, ngân phiếu, các loại chứng từ, tín phiếu có giá trị như tiền, vàng bạc, kim khí quý, đá quý đang giữ tại quỹ,… Tiền gửi ngân hàng: Là số tiền hiện có trên tài khoản tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước, công ty tài chính (nếu có). Bao gồm: tiền Việt Nam, vàng bạc, kim khí quý, đá quý,… Tiền đang chuyển: Là số tiền mà doanh nghiệp đã nộp vào ngân hàng hay đã gửi qua đường bưu điện, đang làm thủ tục trích chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp sang tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp chưa nhận được giấy báo có của ngân hàng. Đầu tư tài chính ngắn hạn (Short-term financial investment): Là chỉ tiêu phản ánh giá trị của các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, là các khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài được thực hiện dưới hình thức cho vay, cho thuê, góp vốn kinh doanh, mua bán chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu,…) có thời gian sử dụng, thu hồi vốn không quá một năm. 3 Các khoản phải thu ngắn hạn (Short-term receivables): Là toàn bộ các khoản mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thu từ các đối tượng khác như phải thu từ khách hàng, phải thu nội bộ, các khoản thế chấp, cầm cố, ký quỹ, ký cược,…Đây là một loại tài sản của công ty tính dựa trên tất cả các khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà khách hàng chưa thanh toán cho công ty. Kế toán của công ty sau khi nắm được thông tin chi tiết của các khoản phải thu trên, sẽ thực hiện ghi lại và theo dõi thông qua bảng cân đối kế toán. Tất cả các khoản nợ chưa đòi, chưa đến hạn thanh toán đều được phản ánh một cách rõ ràng, cụ thể trong bảng cân đối nói trên. Tại thời điểm này, các khoản phải thu cũng được ghi nhận như là tài sản của công ty vì nó thể hiện giá trị tài sản hay các khoản tiền mà công ty sẽ nhận được trong tương lai. Hàng tồn kho (Inventory): Là những tài sản hữu hình thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp được sử dụng vào sản xuất kinh doanh hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ, hàng hóa để gửi bán hoặc gửi đi bán trong kỳ kinh doanh. Đối với doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu chính, phụ, các công cụ lao động, vật liệu bao bì đóng gói, thành phẩm, sản phẩm dở dang,…So với tổng tài sản, hàng tồn kho có thể chiếm tỉ lệ tới 30-50%. Với đặc điểm thực tế này, việc điều chỉnh và quản lí số lượng hàng tồn kho, kết hợp quá trình kiểm soát từ khâu đầu vào đến khi bán ra luôn là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu trong quản trị sản xuất tác nghiệp. 1.1.4. Vai trò của tài sản ngắn hạn Vốn là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Là một bộ phận cấu thành nên vốn kinh doanh, tài sản ngắn hạn luôn đóng vai trò thiết yếu, có tác động sâu sắc đến mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Một số vai trò tiêu biểu cần được nhắc đến của tài sản ngắn hạn gồm: Việc duy trì tài sản ngắn hạn ổn định sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục, hiệu quả. Nếu có bất kì tình huống xấu nào xảy ra, khiến cho tài sản ngắn hạn bị thiếu hụt hay chậm trễ khi luân chuyển sẽ làm gián đoạn quá trình mua bán nguyên vật liệu, hàng hóa, ảnh hưởng tới khâu sản xuất hoặc kế hoạch mở rộng khai thác thị trường của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn là một công cụ quản lí hữu hiệu đối với các nhà doanh nghiệp do sở hữu đặc điểm chu chuyển nhanh, phân bổ rộng khắp trong và ngoài doanh nghiệp. Thông qua việc quản lí tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp có thể quản lí toàn diện từ việc cung cấp, sản xuất đến phân phối hàng hóa, đồng thời đưa ra được cái nhìn khách quan đối với các hoạt động tài chính, từ đó đánh giá được khả năng thanh toán, 4 Thang Long University Library tình hình luân chuyển vốn, hàng hóa,…nhằm đưa ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn là tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại và các doanh nghiệp nhỏ, bởi ở các doanh nghiệp này tài sản ngắn hạn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn. Sự thành công và thất bại của những loại doanh nghiệp kể trên lệ thuộc một phần đáng kể vào khả năng hoạch định và kiểm soát chặt chẽ tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn của doanh nghiệp. Một vai trò không thể thiếu của tài sản ngắn hạn đó chính là tạo nguồn lực vững chắc để doanh nghiệp thực hiện và phát huy các chiến lược kinh doanh, khẳng định tài năng của đội ngũ nhân sự. Hàng hóa được chuyển từ lĩnh vực sản xuất sang lưu thông, vừa mang lại lợi nhuận vừa giải quyết được vấn đề mâu thuẫn sẵn có giữa sản xuất và tiêu dùng. Với vai trò quan trọng của tài sản ngắn hạn trong sự nghiệp phát triển chung của toàn doanh nghiệp, việc quản lí, sử dụng tài sản ngắn hạn có hiệu quả luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu mà doanh nghiệp hướng tới. 1.2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.2.1. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của Doanh nghiệp Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Xuất phát từ những nguyên lí chung như vậy, trong lĩnh vực kinh doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá dựa trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lí doanh nghiệp người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung, và tài sản ngắn hạn nói riêng là việc làm mang tính bắt buộc, thường xuyên đối với tất cả các doanh nghiệp, bởi lẽ, quản lí và sử dụng các nguồn lực kinh tế phản ánh một cách chính xác trình độ phân bổ và điều hành nguồn lực của doanh nghiệp, từ đó tạo ra những thành tựu kinh doanh quan trọng cho doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lí nguồn tài sản ngắn hạn làm cho chúng sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, vòng quay lưu động, tốc độ luân chuyển, vòng quay hàng tồn kho. Nói một cách khác, đây chính là biểu hiện được xác định bằng thước đo tiền tệ 5 của mối quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh, hay đầu vào và đầu ra quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp, nó là bước đệm vững chắc cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, từ đó gián tiếp mang lại những giá trị thiết thực cho người lao động (tăng lương, thưởng, nâng cao năng suất sản xuất,…), ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Bởi vây, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn luôn là mối quan tâm, ưu tiên hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Tóm lại, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn có thể được hiểu như sau: Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng tài sản ngắn hạn trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đem lại doanh thu cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất cho doanh nghiệp. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp 1.2.2.1. Chỉ tiêu về khả năng thanh toán Các hệ số này đo lường khả năng đáp ứng các ràng buộc pháp lý về tài chính của doanh nghiệp (nghĩa là thanh toán các khoản nợ ngắn hạn). Khi doanh nghiệp có đủ tiền, doanh nghiệp sẽ tránh được việc vi phạm các ràng buộc pháp lý về tài chính và vì thế tránh được nguy cơ chịu các áp lực về tài chính. Khả năng thanh khoản kế toán đo lường, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn thường liên quan đến tài sản ngắn hạn ròng, chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Để tính toán khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng một số phương pháp cụ thể như : hệ số thanh toán hiện thời, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán bằng tiền. Hệ số thanh toán hiện thời (Current Ratio) Hệ số thanh toán hiện thời phản ánh mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn. Nó thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản ngắn hạn với nợ ngắn hạn và được xác định bằng công thức: Tài sản ngắn hạn Current Ratio = Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán hiện thời cao sẽ phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp là tốt. Tuy nhiên, không phải hệ số này càng cao là càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản ngắn hạn lớn bị tồn trữ, làm việc sử dụng tài sản ngắn hạn không hiệu quả, vì bộ phận này không sinh lời. Do đó tính hợp lý của hệ số thanh toán hiện thời còn phụ thuộc vào từng ngành nghề, góc độ của người phân tích cụ thể. Hệ số thanh toán nhanh (Quick Ratio) 6 Thang Long University Library Hệ số thanh toán nhanh đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu động trước các khoản nợ ngắn hạn. Trong tài sản lưu động của doanh nghiệp hiện có thì vật tư hàng hoá có tính thanh khoán thấp nhất, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy khi xác định hệ số thanh toán nhanh người ta đã trừ phần hàng tồn kho ra khỏi tài sản đảm bảo thanh toán nhanh và được thể hiện bằng công thức: Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho Quick Ratio = Nợ ngắn hạn Cũng như hệ số thanh toán hiện thời, độ lớn hay nhỏ của hệ số này còn tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh cụ thể thì mới có thể kết luận là tíchcực hay không tích cực. Tuy nhiên nếu hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Hệ số thanh toán bằng tiền (Cash Ratio) Tiền & các khoản tương đương tiền Cash Ratio = Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nợ ngắn hạn thì hiện tại doanh nghiệp có bao nhiêu đơn vị tiền tệ tài trợ cho nó. Nếu chỉ tiêu này cao phản ảnh khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là tốt, nếu chỉ tiêu này mà thấp thì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là chưa tốt. Tuy nhiên, khó có thể nói cao hay thấp ở mức nào là tốt và không tốt. Vì nó còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh hoặc góc độ của người phân tích. Như vậy có thể nói, việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tài chính của doanh nghiệp. Bởi vì nó không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận mà còn liên quan đến việc thu hút các nguồn lực cho doanh nghiệp. 1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu hoạt động Nhóm gồm các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp, thông qua các hệ số này, nhà quản trị có thể nắm được tình trạng cụ thể của những tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng từ đó đưa ra các phương án xử lí kịp thời như loại bỏ, giảm thiểu những tài sản không cần thiết hoặc không tạo ra nguồn thu nhập nhằm mang lại hiệu qủa kinh doanh cao nhất cho doanh nghiệp. Khái niệm hệ số hoạt động còn được hiểu là hệ số hiệu quả hay hệ số luân chuyển, muốn tìm hiểu những hệ số này, chúng ta cần tiến hành phân tích một số chỉ tiêu sau: Vòng quay các khoản phải thu: Các khoản phải thu là các khoản bán chịu mà doanh nghiệp chưa thu tiền do thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán các khoản trả trước cho người bán, hiểu một cách đơn giản thì đây là 7 lượng vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng tạm thời. Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp đặc biệt là các công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hóa. Hoạt động mua bán chịu giữa các bên phải thu giữa các bên, phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của qua hệ mua bán, quan hệ hợp đồng. Doanh thu thuần Vòng quay các khoản phải thu = Phải thu khách hàng Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt. Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là tốt vì doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn (ít phải cấp tín dụng cho khách hàng và nếu có cấp tín dụng cho khách hàng thì chất lượng tín dụng cao). Vòng quay các khoản phải thu được xem xét cẩn thận việc khách hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản nợ đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân cho biết khoảng thời gian trung bình từ khi doanh nghiệp xuất hàng đến khi thu được tiền về. Chỉ tiêu này cần được so sánh giữa các năm, giữa các doanh nghiệp cùng ngành và xem xét kỹ từng khoản phải thu để phát hiện những khoản thu quá hạn, từ đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời. 360 Kỳ thu tiền bình quân = Vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho biết bình quân trong bao nhiêu ngày, doanh nghiệp có thể thu hồi các khoản phải thu của mình. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền càng nhỏ và ngược lại. Nếu vòng quay các khoản phải thu thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Vòng quay các khoản phải trả: Các khoản phải trả bao gồm các khoản nợ cần thanh toán ( nợ ngắn hạn, dài hạn) của doanh nghiệp và các chi phí mà doanh nghiệp phải chi trả cho các hoạt động định kì như: lương, thưởng, thuế, các khoản phải trả người bán,… Vòng quay các khoản phải trả Giá vốn hàng bán + Chi phí quản lý chung, bán hàng = Phải trả người bán, lương, thưởng, thuế phải trả 8 Thang Long University Library Vòng quay các khoản phải trả là chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường muốn thu nợ nhanh, trả nợ chậm nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến vòng quay các khoản phải trả thấp. Nếu hệ số này thấp nghĩa là công ty rất có uy tín và là khách hàng tốt của nhà cung cấp nên được cho chậm trả, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang khó trả các khoản nợ đến hạn. Để khẳng định được khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp cần phân tích chi tiết các khoản phải trả, các khách hàng cho nợ, doanh số phát sinh nợ có và tuổi nợ các khoản phải trả, đối chiếu với hợp đồng mua hàng, xem xét tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận,… để có kết luận về việc vòng quay các khoản phải trả thấp là do được cho chậm trả hay do doanh nghiệp kinh doanh yếu kém mất khả năng thanh toán các khoản nợ. Kì trả tiền bình quân: Con số này cho biết thời hạn bình quân của khoản phải trả. Các doanh nghiệp thường muốn duy trì và kéo dài thời hạn phải trả vì họ có thể sử dụng tiền từ nguồn này như là một nguồn tài trợ giá rẻ. 360 Kỳ trả tiền bình quân = Vòng quay khoản phải trả Nếu tất cả doanh nghiệp đều mong muốn đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất theo hình thức “thu sớm, trả muộn”, thì phần thua thiệt sẽ do khách hàng hoặc nhà cung cấp phải gánh chịu, tình trạng này sẽ ảnh hưởng không tốt đối với mối quan hệ giao hữu qua lại giữa các bên. Vì thế, tiêu chí kì thu tiền được đánh giá tốt hay xấu cũng cần được điều chỉnh dựa trên chính sách mở rộng thị trường, xây dựng mối quan hệ khách hàng của doanh nghiệp. Vòng quay hàng tồn kho: Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp hiệu quả như thế nào. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Doanh thu thuần Vòng quay hàng tồn kho = Giá trị hàng tồn kho Chỉ tiêu này thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu. Chỉ tiêu này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, nếu nó nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng càng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Mức dự trữ hàng tồn kho chịu ảnh hưởng rất lớn dựa trên đặc tính của ngành nghề kinh doanh, vì thế không phải trong 9 mọi trường họp mức tồn kho thấp là tốt còn tồn kho cao là xấu. Cụ thể là, nếu hệ số quay vòng hàng tồn kho quá cao, gặp phải thời điểm nhu cầu thị trường đột biến tăng, Doanh nghiệp sẽ không có đủ nguyên vật liệu dự trữ ở khâu đầu vào cho sản xuất, khiến dây chuyền sản xuất bị gián đoạn, lượng hàng hóa cung cấp cho thị trường không đủ làm tăng nguy cơ mất khách hàng hoặc bị tranh giành thị phần từ các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy cần liên tục chú ý để điều chỉnh hệ số này đủ lớn để vừa đảm bảo được mức độ sản xuất vừa phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển kho: 360 Thời gian luân chuyển kho = Vòng quay hàng tồn kho Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết cho việc luân chuyển kho vì hàng tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ở khâu dự trữ. Hệ số này càng thấp chứng tỏ công tác quản lý hàng tồn kho càng tốt, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại. Thời gian quay vòng tiền: Phản ánh khoảng thời gian ròng tính theo ngày kể từ khi doanh nghiệp thanh toán tiền mua hàng cho đến khi doanh nghiệp thu được tiền. Thời gian quay vòng tiền = Thời gian quay vòng hàng tồn kho + Thời gian thu tiền trung bình – Thời gian trả nợ trung bình Khi thời gian quay vòng tiền kéo dài, khả năng thanh khoản tiếp diễn của công ty kém đi, khi vòng quay tiền rút ngắn khả năng thanh khoản tiếp diễn của công ty được cải thiện. Thời gian quay vòng tiền tăng lên thì khả năng thanh khoản của doanh nghiệp thấp đi và ngược lại. Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn: Tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản ngắn hạn ở đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp, cho biết cứ một đồng tài sản ngắn hạn đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng TSNH = Giá trị TSNH trong kỳ Chỉ tiêu này càng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao vì nó chứng tỏ tốc độ tiêu thụ nhanh của hàng hóa, làm hạn chế tình trạng tồn đọng vật tư cũng như tránh được các khoản phải thu và phải thu khó đòi. Ngược lại, nếu hệ số này giảm cho thấy lượng hàng tồn kho lớn, tiền tồn quỹ nhiều, các khoản phải thu tăng, lúc này, 10 Thang Long University Library doanh nghiệp cần nghiêm túc xem lại tình hình tài chính hiện thời để nhanh chóng đưa ra các giải pháp cải thiện. 1.2.2.3. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn: chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn. Nó cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lời của TSNH = Giá trị TSNH trong kỳ Tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản ngắn hạn có ở đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cao phản ánh lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp cao, các doanh nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì nó thể hiện rằng giá trị của tài sản ngắn hạn đã được sử dụng một cách tối ưu. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn biểu hiện rõ nhất thông qua lợi nhuận của doanh nghiệp, cũng là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp hướng tới. Kết quả này phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng. Cũng với chỉ tiêu trên, nếu tài sản ngắn hạn cần sử dụng bình quân trong kỳ thấp mà lợi nhận sau thuế tăng nghĩa là việc sử dụng tài sản ngắn hạn đạt hiệu quả tốt. Mức tiết kiệm vốn ƣu động Mức tiết kiệm vốn lưu động là chỉ tiêu phản ánh số VLĐ có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động ở kỳ này so với kỳ trước. Mức tiết kiệm VLĐ do tăng tốc độ luân chuyển được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu Mức tiết kiệm tuyệt đối Do tăng tốc độ luân chuyển VLĐ nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một số VLĐ để sử dụng vào công việc khác. Nói cách khác với mức luân chuyển VLĐ không thay đổi song do tăng tốc độ luân chuyển VLĐ nên doanh nghiệp cần ít vốn hơn cũng như có thể tiết kiệm một lượng VLĐ. Lượng VLĐ ít hơn đó chính là mức tiết kiệm tuyệt đối VLĐ. Vtktđ = M0 360 K1 Vtktđ: VLĐ tiết kiệm tuyệt đối M0: Tổng mức luân chuyển VLĐ năm kế hoạch K1: Thời gian luân chuyển VLĐ năm kế hoạch VLĐ0: Lần lượt là VLĐ bình quân năm báo cáo 11  VLĐ0 Mức tiết kiệm tương đối Mức tiết kiệm tương đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô VLĐ. Công thức xác định số VLĐ tiết kiệm tương đối như sau: M1 Vtktgđ = (K1  K0) 360 Vtktgđ: Mức tiết kiệm VLĐ tương đối M1: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch K0, K1: Lần lượt là kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo, năm kế hoạch 1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn Quá trình hình thành, quản lí và sử dụng vốn kinh doanh chính là quá trình hoạt động và phát triển của một doanh nghiệp. Với nền kinh tế thị trường trong nước thì nguồn lực về tài sản ngắn hạn có tác động rất lớn đến ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, dựa trên tính cấp thiết về sở hữu tài sản ngắn hạn như hiện nay, có thể coi tài sản ngắn hạn là nguồn năng lượng tuần hoàn không thể thiếu của doanh nghiệp. Muốn đánh giá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Cụ thể hơn, cần dựa trên hai góc độ là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội để nhìn nhận một cách khách quan về hiệu quả kinh doanh. Từ đó ta có thể thấy rõ việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là yêu cầu bắt buộc và thường xuyên đối với doanh nghiệp. Đảm bảo đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận, làm tăng giá trị doanh nghiệp. Để đảm bảo sự thành công cho mục đích này, doanh nghiệp cần không ngừng kết hợp giải quyết và đưa ra các biện pháp, chiến lược cho những mục tiêu tài chính dài hạn và ngắn hạn. Trong số đó thì quản lí và sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là nội dung quan trọng, có tính quyết định với các quyết định trong dài hạn và ngắn hạn trên, từ đó tạo ra ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện mục đích tối đa hóa giá trị doanh nghiệp ban đầu. Từ những định hướng và tính chất kể trên, trong quá trình xấy dựng và phát triển, doanh nghiệp càng cần chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và tài sản ngắn hạn nói riêng. Đây là một yêu cầu khách quan và luôn song hành với bản chất của doanh nghiệp. Đảm bảo tính liên tục cho các hoạt động kinh doanh 12 Thang Long University Library Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn đầu tư và tài sản ngắn hạn lại chính là một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Như đã nêu ở trên về những vai trò vô cùng to lớn và xuyên suốt của tài sản ngắn hạn( từ khâu dự trữ đến khâu tiêu thụ, đảm bảo cho sự vận hành thông suốt của hàng hóa, sản phẩm được liên tục, nhịp nhàng,…), thì việc chú ý tới thời gian luân chuyển, tăng tốc độ luân chuyển thông qua nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là vô cùng có ý nghĩa. Tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Trong thực tế hiện nay, mặc dù có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc kinh doanh không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp của doanh nghiệp, song chúng ta không thể phủ nhận nguyên nhân cốt lõi và hay gặp nhất chính là việc sử dụng vốn không hiệu quả. Sự lãng phí về tài sản ngắn hạn, sự giảm mạnh của tốc độ luân chuyển hay mức sinh lợi dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng trong khâu mua sắm, sản xuất, tiêu thụ,…từ đó gây thất thoát, mất kiểm soát khả năng quản lí thậm chí khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Đối với một số hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có đặc thù chịu ảnh hưởng nặng nề cơ chế bao cấp trước đây, kết quả sản xuất kinh doanh khi rơi vào tình trạng yếu kém thường chủ yếu do sự thiếu năng lực trong quản lý tài chính nói chung và quản lý tài sản ngắn hạn nói riêng, gây lãng phí, thất thoát vốn. Trước thực trạng đi xuống này, nếu xét từ góc độ quản lý tài chính, để cải thiện kết quả kinh doanh, chúng ta cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính mà tiêu biểu là chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn. cụ thể là tăng tốc độ luân chuyển, từ đó rút ngắn thời gian tài sản ngắn hạn nằm trong quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông, giúp giảm bớt số lượng tài sản ngắn hạn bị chiếm dụng, đồng thời tiết kiệm tài sản ngắn hạn trong luân chuyển. Từ việc tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn nói trên,còn có thể tạo ra những hiệu ứng tích cực trong việc hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng lượng vốn đủ để thỏa mãn nhu cầu về sản xuất và hoàn thành các nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước, nhằm bắt kịp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội trong cả nước.Chính vì thế, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn được coi là một nội dung quan trọng không chỉ đảm bảo lợi ích riêng của doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đáng kể đối với nền kinh tế quốc dân. 1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn một cách có hiệu quả, hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung 13 của doanh nghiệp. Tuy nhiên,trong thực tế, việc sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp luôn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Nhằm phát huy được những mặt mạnh, giảm thiểu những mặt tiêu cực tác động đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, đòi hỏi các nhà quản lý phải nắm bắt được các nhân tố tác động đó. 1.3.1. Nhân tố chủ quan Bao gồm nhóm các nhân tố phát sinh từ doanh nghiệp, trong phạm vi kiểm soát và điều chỉnh của doanh nghiệp. Nhân tố con ngƣời: Trong mọi hoạt động, chiến lược, kế hoạch,…con người luôn đóng vai trò trung tâm, là đối tượng trực tiếp tác động, đưa ra những lựa chọn có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt, xét về khía cạnh hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp, vai trò của con người càng được thể hiển một cách rõ rệt Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà các nguồn lực bên ngoài không còn là yếu tố quyết định duy nhất và phải chịu nhiều sự chi phối của các yếu tố vĩ mô, thì sự khác biệt tạo nên tính cạnh tranh vượt trội đối với mỗi doanh nghiệp đều được hình thành từ những nhân tố nội tại bên trong hay chính là năng lực nguồn nhân sự. Đi sâu vào phân tích về yếu tố nguồn nhân lực này, chúng ta cần đề cập đến những vấn đề: Trình độ quản lí, chiến lược hoạch định, ý thức công tác… Trình độ và khả năng quản lý: Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để đánh giá, lựa chọn các nhà lãnh đạo của doanh nghiệp. Trước đây, dưới nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì trình độ và khả năng quản lý thường bị coi nhẹ hoặc được cho là không cần thiết, không liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Tuy nhiên ,với tình trạng thực tế của nền kinh tế thị trường hiện nay, nó giữ một vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Những nhà lãnh đạo không chỉ có khả năng chuyên môn cao, còn cần có kinh nghiệm và bản lĩnh để đưa ra những quyết định đúng đắn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý doanh nghiệp còn non kém sẽ dẫn tới việc thất thoát vật tư, hàng hoá, sử dụng lãng phí tài sản, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn thấp. Việc xây dựng chiến lược và phương án kinh doanh: Cần có sự tiếp cận sâu sắc những thị trường mục tiêu để hoạch định và đưa ra các chiến lược, phương án kinh doanh phù hợp, dựa trên đường lối phát triển kinh tế của nhà nước. Từ đó lập nên những kế hoạch có tính định hướng, dài hạn nhằm tăng hiệu quả sử dụng tài sản kinh doanh. Vì thế, đây cũng được coi là một nhân tố có tính quyết định tác dộng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. 14 Thang Long University Library Ý thức, trách nhiệm: Ý thức trách nhiệm trong lao động cũng như khả năng thích ứng với yêu cầu thị trường bằng việc không ngừng học tập, nâng cao tay nghề của cán bộ công nhân viên, cũng góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, cải thiện hiệu quả việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Uy tín của doanh nghiệp: Một doanh nghiệp có tạo dựng được lòng tin, xây đựng được vị thế trong nhận thức của khách hàng, đối tác, thị trường… sẽ tạo nên bước đệm vững chắc cho sự phát triển của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp được thể hiện một cách rõ nét thông qua mối quan hệ với các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng, bạn hàng, khách hàng tiềm năng,…về sản phẩm, dịch vụ hay hàng hóa của bản thân. Những mối liên kết quan trọng này sẽ giúp cho doanh nghiệp có khả năng tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí huy động được lượng tài sản ngắn hạn mạnh mẽ trong quá trình thực hiện thay vì phải dự trữ một số lượng lớn ngay từ ban đầu. Bởi vậy, đây chính là yếu tố góp phần không nhỏ trong việc tác động lên hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh mà cụ thể là tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. 1.3.2. Nhân tố khách quan Nhóm các nhân tố không thể kiểm soát được tác động tới doanh nghiệp, có những lúc thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhưng cũng có lúc kìm hãm sự phát triển đó. Sự tác động đó không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp, do vậy khi gặp những nhân tố này các doanh nghiệp luôn phải tự điều chỉnh mình cho phù hợp với tác động đó. Sau khi xem xét các nhân tố chủ quan ở trên, việc tìm hiểu chi tiết các nhân tố khách quan cũng vô cùng quan trọng, bởi đây là nhóm nhân tố có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhưng lại không nằm trong phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp vì thế doanh nghiệp cần có sự tự điều chỉnh để phù hợp với những tác động này. Các nhân tố khách quan cần được quan tâm bao gồm: Tính đặc thù ngành, đặc điểm riêng của từng hoạt động sản xuất kinh doanh: Tùy thuộc vào mỗi loại hình doanh nghiệp thì hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn cũng sẽ được thể hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Những doanh nghiệp hoạt động có tính chất thời vụ sẽ không giống với những doanh nghiệp có mục tiêu đánh giá hiệu quả dựa trên dài hạn, hay những doanh nghiệp chuyên trách khâu sản xuất sẽ có nhiều khác biệt so với các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ lưu thông hàng hóa, có tính thương mại cao. Ví dụ như khi tính toán chu kỳ sản xuất kinh doanh thì những doanh nghiệp có chu kì kinh doanh càng ngắn, nhu cầu tài sản ngắn hạn càng tránh được những biến động lớn, do vậy doanh nghiệp càng nhanh chóng thu hồi được 15 vốn, cụ thể là tiền bán hàng hóa. Từ đó, doanh nghiệp có thể giảm thiểu khó khăn, sẵn sàng trong việc chi trả các khoản nợ, đảm bảo Nguồn vốn ổn định cho kinh doanh. Ngược lại, đối với những doanh nghiệp trải qua chù kì kinh doanh dài, độ biến động của tài sản ngắn hạn thường cao hơn, tình hình thanh toán, hoàn trả gặp nhiều khó khăn do Nguồn thu từ các khoản tiền bán hàng hóa không đồng đều, dẫn đến sụt giảm hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Do vậy, chu kì sản xuất kinh doanh trước tiên sẽ tác đông đến nhu cầu sử dụng tài sản ngắn hạn cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Chính vì thế, muốn nâng cao được hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo, quản lí cần chú trọng vào việc đề ra các kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế và đăc điểm riêng biệt của những hoat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu của thị trƣờng tiêu thụ: Trước thực trạng hiện nay của thị trường trong nước, khi sự canh tranh gay gắt ngày càng tăng cao thì việc tập trung tìm hiểu về nhu cầu thị trường là một việc làm vô cùng cần thiết, vì nó chính là nhân tố ảnh hưởng đáng kể tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Sở dĩ đưa ra nhận xét trên là do: dưới sức ép từ hiệu ứng dư thừa nguồn cung ứng hiện nay của thị trường trong nước, ở nhiều ngành nghề, trong nhiều lĩnh vực sản xuất, lưu thông, cung ứng hàng hóa, dịch vụ thì doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, tiến hành nghiên cứu thị trường cẩn thận, tìm kiếm thị trường mục tiêu để có thể đưa ra các chiến lược, hướng đi đúng đắn, mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm nổi bật, có chất lượng tốt nhất để khẳng định chỗ đứng của doanh nghiệp trên thị trường, cũng là tạo ra kết quả tối nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy việc sử dụng tài sản ngắn hạn một cách có hiệu quả. Sự hỗ trợ và trình độ khoa học công nghệ: Từ suốt những năm đầu của thế kỉ 21 đến nay, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định vai trò thiết yếu của mình đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chúng cũng chính là gia tăng hiệu quả sử dụng vốn lao động. Vì vậy, nếu doanh nghiệp quan tâm tới với việc áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ, cải tiến, nâng cấp trang thiết bị, cập nhật phần mềm quản lí,…nhằm bắt kịp với xu thế phát triển kinh tế chung của khu vực và thế giới thì sẽ tạo ra được những thế hệ sản phẩm có tính thích ứng cao, phù hợp với nhu cầu đa dạng và yêu cầu khắt khe của thị trường. Chính sách kinh tế của Nhà nƣớc trong việc phát triển nền kinh tế: Nếu các nhà lãnh đạo, quản lí đưa ra các định hướng phát triển cho doanh nghiệp ở tầm vi mô thì vai trò của Nhà nước lại được thể hiện thông qua việc đưa ra các chủ trương, ban hành các bộ luật kinh tế, đồng thời kiểm soát và điều tiết hoạt động của 16 Thang Long University Library doanh nghiệp dưới góc độ vĩ mô, chi tiết hơn là trực tiếp tác động lên thị trường trong nước bằng nhiều chính sách kinh tế đúng đắn. Nhà nước xây dựng môi trường, tạo lập các hành lang kinh tế, nhằm hướng các doanh nghiệp phát triển theo quỹ đạo có tính vĩ mô, vì thế có ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Lạm phát: Đây là một trong những tình trạng không mong muốn của bất kì thị trường, nền kinh tế trên toàn cầu. Quá trình này là sự tăng giá chung của một loại hàng hóa, dịch vụ theo thời gian dẫn đến sự mất giá trị của một loại tiền tệ. Trong mọi thời kì phát triền của nền kinh tế, hiện tượng này luôn xuất hiện tiềm ẩn và đe dọa trực tiếp tới giá trị của tài sản ngắn hạn( là biểu hiện băng tiền của mọi tài sản lưu động- như đã định nghĩa ở trên). Để tránh những hậu quả từ lạm phát bao gồm việc sụt giảm tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp cần được bổ sung nguồn lực một cách liên tục và thích hợp. Rủi ro: Lợi nhuận và rủi ro luôn là những yếu tố song hành và tỉ lệ thuận với nhau mà doanh nghiệp cần xét đến. Quá trình sản xuất, kinh doanh luôn phải đối mặt với những rủi ro bất trắc ( từ nội tại hoặc ngoại lực), bởi vậy, nếu vẫn muốn đạt được lợi nhuận cao, đồng thời tránh được những rủi ro không đáng có, doanh nghiệp phải luôn chuẩn bị sẵn sàng những phương án dự phòng, thay thế,… nhằm bảo vệ nguồn tài sản ngắn hạn khỏi những hệ lụy như suy giảm kinh tế hay phá sản,… Kết luận chƣơng 1: Qua chương 1, bằng việc đề cập và tìm hiểu về các khái niệm, đặc điểm, vai trò, một số chỉ tiêu đánh giá, sự cần thiết cũng như các nhân tố tác động tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, chúng ta đã tiến hành nghiên cứu một cách chi tiết những vấn đề liên quan tới tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Dựa trên những kiến thức cơ bản này, chúng ta có thể đi sâu vào phân tích và đánh giá cụ thể tình hình sử dụng tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp lựa chọn. Từ đó, đưa ra những giải pháp hợp lí, thiết thực để nâng cao tối ưu hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Như vậy, muốn đánh giá một cách khách quan, chính xác hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, chúng ta cần xem xét tính đặc thù riêng của ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh, đồng thời phân tích những chỉ tiêu hoạt động mà daonh nghiệp cần đạt được. Tất cả những điểm được nêu ở trên sẽ được thể hiện rõ nét thông qua phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty công ty cổ phần xây dựng Vina descon Việt Nam. 17 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VINA DESCON VIỆT NAM 2.1. Giới thiệu về công ty cổ phần xây dựng Vina descon Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần xây dựng Vina descon Việt Nam - Tên công ty - Trụ sở chính - Ngày thành lập Số điện thoại Fax Mã số thuế Tên giao dịch - Email Hình thức sở hữu : Công ty cổ phần xây dựng Vina descon Việt Nam : Số 4/72, ngõ 663, đường Trương Định, Phường Thịnh Liệt, Quận Hoàng Mai, Hà Nội. : 27/06/2012 : 04.3854.838 : 04.3558.720 : 0105929494 : VINA DESCO VIET NAM CONSTRUCTION JOINT STOCK COMPANY : [email protected] : Công ty cổ phần 2.1.2. Bộ máy tổ chức của công ty cổ phần xây dựng Vina descon Việt Nam Hình 2.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty cổ phần xây dựng Vina descon Việt Nam Giám đốc Phó giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng kỹ thuật vật tư Phòng kinh doanh Các đội xây dựng (Nguồn: Phòng tổ chức hành chính) Vị trí và chức năng của các phòng ban: Các phòng ban trong công ty là cơ quan tham mưu giúp việc cho giám đốc trong phạm vi chuyên môn được phân công, tiến 18 Thang Long University Library hành công tác quản lý chỉ đạo chuyên ngành, xây dựng kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Giám đốc Giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty, chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Giám đốc phải điều hành công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty. Quyết định tất cả các vấn đề không cần phải có nghị quyết của Hội đồng quản trị, bao gồm việc thay mặt công ty ký kết các hợp đồng tài chính và thương mại, tổ chức và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thường nhật của công ty theo những thông lệ quản lý tốt nhất. Phó giám đốc Là người giúp việc, tham mưu cho giám đốc, thường xuyên theo dõi điều hành kinh doanh, phụ trách quá trình nhập, xuất hàng của công ty, xây dựng các chính sách, chiến lược kinh doanh. Bên cạnh sự giúp đỡ của Giám Đốc, Phó Giám đốc Công ty còn có sự giúp đỡ của các phòng ban chức năng. Các phòng ban này có chức năng nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc trong các quyết định đầu tư, sản xuất. Phòng tổ chức hành chính Xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hằng năm về kế hoạch phát triển số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên (công chức, viên chức). Xây dựng mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ về kiện toàn tổ chức bộ máy về quản lý đội ngũ cán bộ theo đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và hướng dẫn của Bộ. Xây dựng các quy định, quyết định cụ thể về tổ chức bộ máy của các đơn vị cơ sở bao gồm việc thành lập, sáp nhập, giải thể xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phân công, phân cấp, cơ cấu tổ chức, biên chế, quan hệ công tác và lề lối làm việc. Phòng tài chính kế toán Là cơ quan tham mưu cho giám đốc doanh nghiệp, tổ chức triển khai toàn bộ công tác tài chính, kế toán, thống kê thông tin kinh tế, hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp theo đúng quy định Nhà nước. Đồng thời còn tham mưu cho lãnh đạo doanh nghiệp thực hiện quyền quản lý và sử dụng vốn qua hệ thống báo cáo kế toán và sổ sách kế toán, kiểm soát mọi hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp theo đúng pháp luật, giúp Giám đốc tổ chức và chỉ đạo công tác tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả. 19 Phòng kỹ thuật vật tƣ Quản lý và giám sát kỹ thuật, chất lượng, công tác quản lý vật tư, thiết bị, công tác quản lý an toàn, lao động, vệ sinh môi trường tại các dự án. Soát xét, lập, trình duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, kiểm định chất lượng thi công, chất lượng công trình. Soát xét trình duyệt hồ sơ hoàn công công trình. Chịu trách nhiệm kiểm tra, theo dõi, đôn đốc và tham mưu giúp giám đốc về lĩnh vực quản lý, sử dụng phương tiện, máy móc, thiết bị, vật tư trong toàn công ty. Phối hợp với các phòng ban trong việc xây dựng đơn giá cho thuê phương tiện, thiết bị. Phòng kinh doanh Đây là phòng trực tiếp ký hợp đồng kinh tế. Phòng kinh doanh lập và quản lý, theo dõi tình hình thực hiện các đơn đặt hàng. Giúp phó giám đốc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, thực hiện các chương trình khuyến mãi, giới thiệu sản phẩm. Đồng thời tư vấn cho ban Giám đốc về các hợp đồng kinh tế và lập kế hoạch và thực hiện các chương trình quảng cáo giới thiệu sản phẩm cho hệ thống đại lý cấp 2. Các đội xây dựng Thực hiện các công việc liên quan đến công tác được phân công ở đội của mình: xây, tô trát, ốp lát, hoàn thiện…. theo hồ sơ thiết kế được lập. Lập đề xuất cung cấp vật tư cho công việc liên quan. Đề xuất giải quyết các bất hợp lý (nếu có) của hồ sơ thiết kế với Ban chỉ huy công trường. 2.1.3. Đặc điểm ngành nghề kinh doanh Công ty hoạt động trên một số lĩnh vực sau: Trong đó lĩnh vực mang lại doanh thu chủ yếu cho công ty là xây dựng dân dụng, công nghiệp. Xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi và san lấp mặt bằng. Trang trí nội, ngoại thất. Buôn bán, vận chuyển vật liệu xây dựng. Buôn bán, cho thuê thiết bị máy móc trong lĩnh vực xây dựng, công nghiệp. Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hóa. Dịch vụ vệ sinh môi trường. Sửa chữa máy móc, thiết bị. Phá dỡ các công trình cao và trung tầng. Vận chuyển vật liệu xây dựng. Phá, bắn tỉa đầu cọc khoan nhồi. Phá cầu cống các loại. Phá đá núi, đá vỉa. Phá bê tông phần ngầm. 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng