Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty cổ phần vang Thăng Long...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty cổ phần vang Thăng Long

.PDF
66
304
86

Mô tả:

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1 Tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm và phân loại doanh nghiệp 1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp Theo điều 4 luật doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Căn cứ vào định nghĩa trên thì doanh nghiệp có những đặc điểm sau:  Là đơn vị kinh tế, hoạt động trên thương trường, có trụ sở giao dịch ổn định, có tài sản;  Đã được đăng ký kinh doanh;  Hoạt động kinh doanh. Luật doanh nghiệp 2014 cũng giải thích kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận. 1.1.1.2 Phân loại doanh nghiệp a. Theo bản chất kinh tế của chủ sở hữu Doanh nghiệp được chia ra làm ba loại hình chính dựa trên hình thức và giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu:  Doanh nghiệp tư nhân  Doanh nghiệp hợp danh  Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn b. Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp Theo luật doanh nghiệp 2014 thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam bao gồm:  Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp mà các thành viên trong Công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của Công ty. 1  Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.  Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu của Công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên hợp danh). Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Ngoài ra trong Công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.  Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.  Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định. c. Căn cứ vào chế độ trách nhiệm Căn cứ vào chế độ trách nhiệm có thể phân loại các doanh nghiệp thành có chế độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn.  Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn: là loại hình doanh nghiệp mà ở đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh.  Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn: là những doanh nghiệp mà ở đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là khi số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp. 1.1.2 Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp 1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa dạng hóa. Tùy theo tình hình phát triển thị trường tài chính của mỗi quốc gia, tùy theo loại hình thức doanh nghiệp và các đặc điểm hoạt động kinh doanh cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có hình thức huy động vốn khác nhau. Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ. Vốn chủ sở hữu được huy động từ: 2 Thang Long University Library  Vốn góp ban đầu  Lợi nhuận không chia  Phát hành cổ phiếu mới Các hình thức huy động nợ chủ yếu là huy động từ:  Tín dụng ngân hàng  Tín dụng thương mại  Tín dụng thuê mua  Phát hành trái phiếu 1.1.2.2 Hoạt động sản xuất kinh doanh Trong thời đại ngày nay, hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất và dịch vụ luôn gắn liền với cuộc sống của con người, công việc sản xuất thuận lợi khi các sản phẩm tạo ra được thị trường chấp nhận tức là đồng ý sử dụng sản phẩm đó. Để được như vậy thì các chủ thể tiến hành sản xuất phải có khả năng kinh doanh. Hoạt động kinh doanh là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh nghiệp với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng với mục đích là thu được lợi nhuận nhằm mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh. Vậy hoạt động sản xuất kinh doanh được hiểu là một quá trình liên tục từ nghiên cứu thị trường và tìm cách đáp ứng nhu cầu đó thông qua việc thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp Đặc điểm cơ bản cùng hoạt động sản xuất kinh doanh là:  Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, hệ thống chính sách và luật pháp của nhà nước cũng như các yếu tố môi trường kinh doanh khác.  Phải nghiên cứu phân tích để xác định được nhu cầu của thị trường  Xây dựng được chiến lược kinh doanh trên cơ sở huy động và sử dụng hợp lý của nguồn lực của doanh nghiệp 1.1.2.3 Hoạt động khác Khi doanh nghiệp hoạt động, nguồn thu của doanh nghiệp không chỉ từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp đó mà nguồn thu có thể xuất phát từ nhiều hoạt động khác, bao gồm thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản; thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; hoàn nhập các khoản dự phòng; thu khoản nợ khó đòi đã xóa nay đòi được; thu khoản 3 nợ phải trả không xác định được chủ; khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót và các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh bên ngoài Việt Nam. Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản; chuyển nhượng dự án (không gắn liền với chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng quyền thuê đất); chuyển nhượng quyền thực hiện dự án, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định của pháp luật phải hạch toán riêng để kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 25%, không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và không được bù trừ với thu nhập hoặc lỗ của các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Trường hợp doanh nghiệp có các hoạt động chuyển nhượng bất động sản; chuyển nhượng dự án (không gắn liền với chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất); chuyển nhượng quyền thực hiện dự án, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định của pháp luật thì được bù trừ lãi, lỗ của các hoạt động này với nhau để kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. 1.1.3 Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp 1.1.3.1 Khái niệm tài sản ngắn hạn Trong nền kinh tế ngày nay, có nhiều ngành nghề mới liên tục ra đời dẫn đến quan niệm tài sản ngày càng được mở rộng. Tài sản là tất cả những nguồn lực có giá trị thuộc sở hữu của doanh nghiệp và là yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất, đến chu kì sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, các thành thủy tinh, một số khác bị mất đi như nhiên liệu. Bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có các đối tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Như vậy: “Tài sản ngắn hạn là một khoản mục trong bảng cân đối kế toán bao gồm tất cả loại tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi sang tiền mặt trong vòng 1 năm hoặc trong 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản ngắn hạn bao gồm tiền mặt và các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu ngắn hạn, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho và những tài sản khác có tính thanh khoản cao”. Tài sản ngắn hạn quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi đó là loại tài sản được sử dụng trong hoạt động kinh doanh hàng ngày, chi trả cho các chi phí phát sinh để tạo ra sản phẩm. Cơ cấu của các loại tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn có ảnh hưởng đến việc 4 Thang Long University Library hoàn thành chỉ tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù phần lớn các trường hợp phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải do việc quản trị tài sản ngắn hạn quyết định tất cả. Nhưng cũng phải thấy rằng sự quản lý không tốt các loại tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những thất bại của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn được phân biệt với tài sản dài hạn ở những đặc điểm về luân chuyển. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, khác với tài sản dài hạn chỉ dịch chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm, thì tài sản ngắn hạn dịch chuyển toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm. Chính vì vậy, tài sản ngắn hạn chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và khi kết thúc chu kỳ sẽ hoàn thành một vòng luân chuyển. Ngoài ra, trong quá trình luân chuyển ngày, tài sản ngắn hạn liên tục thay đổi hình thái. Trong doanh nghiệp sản xuất, sự thay đổi này được thể hiện qua chu trình: T-H-SX-H’-T’. Mở đầu chu kỳ sản xuất kinh doanh, tài sản ngắn hạn có hình thái tiền tệ. Sau đó chuyển sang hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua quá trình sản xuất, các nguyên vật liệu dự trữ thành thành phẩm hay bán thành phẩm. Kết thúc quá trình này, khi đã tiêu thụ được thành phẩm, tài sản ngắn hạn lại quay trở về hình thái ban đầu. Đối với doanh nghiệp thương mại, quá trình này bao gồm: T-H-T’. Tài sản ngắn hạn cũng có hình thái ban đầu là tiền tệ, sau đó chuyển sang hàng hóa và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ. Như vậy, có thể nói tài sản ngắn hạn luôn tham gia vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua sự vận động thường xuyên và thay đổi các hình thái. Từ đó có thể thấy rằng đặc điểm của tài sản ngắn hạn bao gồm những điểm sau:  Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng được khả năng thanh toán của doanh nghiệp.  Tài sản ngắn hạn là một bộ phần của nguồn vốn sản xuất nên nó vận động và luân chuyển liên tục trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.  Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển đổi từ dạng vật chất sang tiền tệ nên việc quản lý là rất phức tạp. 1.1.3.2 Vai trò của tài sản ngắn hạn Để tiến hành sản xuất, ngoài TSDH như máy móc, thiết bị, nhà xưởng... doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu. phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, TSNH là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác TSNH là điều kiện tiên quyết của quá trình sản xuất kinh doanh. 5 Ngoài ra tài sản ngắn hạn còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Tài sản ngắn hạn còn là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của danh nghiệp phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Tài sản ngắn hạn còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phâm cộng thêm một phần lợi nhuận. Do đó, tài sản ngắn hạn đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả của hàng hóa bán ra. 1.1.3.3 Phân loại tài sản ngắn hạn Việc quản lý và sử dụng TSNH muốn tiến hành một cách khoa học và hiệu quả đòi hỏi nhà quản lý phải nắm được thành phần và kết cấu của TSNH, từ đó có các biện pháp điều chỉnh và nâng cao hiệu suất sử dụng TSNH. Người ta sử dụng các tiêu thức khác nhau để phân loại TSNH tùy thuộc vào mục tiêu của nhà quản lý. Có hai tiêu thức phân loại chủ yếu thường được sử dụng: phân loại theo hình thái biểu hiện và phân loại theo vai trò của TSNH đối với quá trình sản xuất kinh doanh. a. Phân loại theo hình thái biểu hiện Theo hình thái biểu hiện, TSNH được phân chia như sau: Tiền và các khoản tương đương tiền:  Gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, tiền dưới dạng séc các loại, tiền trong thẻ tín dụng và trong tài khoản ATM. Tiền là loại tài sản có tính thanh khoản cao nhất, đứng đầu tiên bên tài sản trên bảng cân đối kế toán. Loại tài sản này có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác hoặc thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho doanh nghiệp, bởi vậy nó cho phép doanh nghiệp duy trì khả năng chi trả và phòng tránh rủi ro thanh toán. Bên cạnh đó các tài sản dạng đặc biệt như: vàng, bạc, đá quý, kim khí quý được dùng chủ yếu cho mục đích dự trữ. Tuy nhiên, tiền mặt cũng là loại tài sản không hoặc gần như không sinh lợi, bởi vậy việc giữ tiền mặt ở mức độ nào để vừa đảm bảo an toàn vừa tiết kiệm vốn lại là một câu hỏi quan trọng cần nhà quản trị tài chính quan tâm giải quyết.  Đầu tư tài chính ngắn hạn: 6 Thang Long University Library Mục tiêu của các doanh nghiệp là việc sử dụng các loại tài sản sao cho hiệu quả đạt được là nhất. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt được giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào những loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết thì hoàn toàn cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Do đó trong việc quản trị tài chính người ta sử dụng những loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mà doanh nghiệp mong muốn. Qua phân tích trên ta thấy tiền mặt là một loại hàng hóa nhưng đây là hàng hóa đặc biệt-một tài sản có tính thanh khoản nhất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp luôn cần có một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hóa đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để có lại được lượng tiền như ban đầu.  Các khoản phải thu: Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán trả chậm là một hoạt động không thể thiếu. Các doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền hàng lúc bán mà có thể phải nhận sau một thời gian xác định mà hai bên đã thoả thuận, chính việc này đã hình thành nên phần lớn các khoản phải thu của doanh nghiệp.Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng thương mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn thâm chí có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.  Hàng tồn kho: Trong quá trình luân chuyển tài sản ngắn hạn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh thì việc vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành được bình thường. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ gây tốn kém chi phí, dẫn đến ứ đọng vốn và thậm chí nếu sản phẩm thuộc loại khó bảo quản có thể bị hư hỏng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp dự trữ quá ít nguyên vật liệu sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, các khâu tiếp theo trong quá trình sản xuất sẽ không thể tiếp tục được nữa, việc này đồng thời với việc không hoàn thành được kế 7 hoạch sản xuất. Hàng tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn của dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được chia thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng xuất hiện những bán thành phẩm. Khi tiến hành sản xuất xong sản phẩm hầu hết các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ hết sản phẩm. Phần vì lý do có “độ trễ” nhất định giữa quy trình sản xuất và tiêu dùng, phần khác là do phải có đủ lô hàng mới xuất được... Những doanh nghiệp mà sản xuất mang tính thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì phần dự trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp khác nhau mà mức dự trữ an toàn khác nhau. Phân loại theo hình thái biểu hiện cho phép doanh nghiệp xem xét đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, biết được kết cấu tài sản ngắn hạn theo hình thái biểu hiện để có hướng điều chỉnh hợp lý và hiệu quả. b. Phân loại theo vai trò của TSNH với quá trình sản xuất kinh doanh Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ: là toàn bộ tài sản ngắn hạn có trong khâu dự trữ của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán. Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất: là toàn bộ tài sản ngắn hạn có trong khâu sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá trình sản xuất… Tài sản ngắn hạn trong khâu lƣu thông: là toàn bộ tài sản ngắn hạn có trong khâu lưu thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các khoản nợ phải thu của khách hàng. Cách phân loại tài sản ngắn hạn theo vai trò với quá trình sản xuất kinh doanh giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác định được các nhân tố gây ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển của tài sản ngắn hạn để có thể đưa ra các biện pháp quản lý thích hợp để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn một cách cao nhất. 1.1.3.4 Kết cấu tài sản ngắn hạn và các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu tài sản ngắn hạn Kết cấu TSNH là tỷ trọng giữa từng bộ phận TSNH trên tổng số TSNH của doanh nghiệp. Bên cạnh việc nghiên cứu các cách phân loại TSNH theo những tiêu thức khác nhau, doanh nghiệp còn phải đánh giá và nắm bắt được kết cấu của TSNH ở 8 Thang Long University Library từng cách phân loại đó. Kết cấu TSNH thể hiện thành phần và các mối quan hệ tỷ lệ thành phần trong tổng số TSNH của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có kiểu kết cấu TSNH khác nhau. Việc phân tích kết cấu TSNH của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm của TSNH mà mình đang quản lý, sử dụng từ đó xác định đúng các trọng điểm và các biện pháp quản lý TSNH có hiệu quả phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc phân tích, theo dõi kết cấu TSNH trong các thời kì khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực cũng như những hạn chế còn tồn tại trong việc quản lý TSNH của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu của TSNH doanh nghiệp có nhiều loại, tuy nhiên có thể chia thành những nhóm chính:  Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung ứng của thị trường, kì hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng, chủng loại vật tư được cung cấp…đều ảnh hưởng đến tỷ trọng TSNH vào khâu dự trữ.   Các nhân tố về mặt sản xuất cũng như đặc điểm kĩ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo: độ dài của chu kì sản xuất, trình độ tổ chức của quá trình sản xuất.   Những nhân tố về thanh toán: những doanh nghiệp sử dụng phương thức thanh toán hợp lí, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỷ trọng TSNH sẽ không thay đổi. Đồng thời việc chấp hành kỉ luật thanh toán của khách hàng cũng ảnh hưởng tới kết cấu của TSNH.   Điều kiện tiêu thụ sản phẩm cũng có ảnh hưởng nhất định tới kết cấu TSNH. Quy mô sản phẩm tiêu thụ lớn hay nhỏ, khoảng cách giữa các công trình và doanh nghiệp dài hay ngắn đều ảnh hưởng đến tỷ trọng TSNH trong lưu thông.  1.2 Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.2.1 Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn 1.2.1.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm, quản trị kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể bám trụ và phát triển trên thị trường. Để đạt được hiệu quả đó đòi hỏi doanh nghiệp phải cần nhiều cố gắng và có những chiến lược cũng như sách lược hợp lý ngay từ khâu sản xuất cho đến tận khi sản phẩm được đến tay người tiêu dùng. Mục đích cuối cùng của doanh nghiệp bao giờ cũng là đạt được những mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. Chính vì vậy quan niệm về hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên để đi đến mục đích cuối cùng thì vấn 9 đề chung mà các doanh nghiệp đều cần phải quan tâm và chú trọng đến đó chính là hiệu quả sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí. Với mỗi doanh nghiệp có một sự cân đối về tài sản riêng, mỗi loại tài sản cũng phải khác nhau. Nếu như các doanh nghiệp kinh doanh về lĩnh vực chế biến hay về lĩnh vực công nghiệp nặng thì tài sản cố định là phần chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Ngược lại với các doanh nghiệp lĩnh vực thương mại thì tài sản ngắn hạn lại chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng giá trị tài sản của doanh ngiệp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì tài sản ngắn hạn đóng một vai trò hết sức là quan trọng. Các nhà quản lý doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải cân nhắc làm thế nào để sử dụng các loại tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả nhất. Sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả là kết quả đạt được cao nhất với mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Nghĩa là phải làm như thế nào để có được nhiều lợi nhuận nhất từ việc khai thác và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí. 1.2.1.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn Dù là loại hình doanh nghiệp nào thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn bao giờ cũng là một biện pháp quan trọng giúp các doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không đảm bảo đủ lượng tài sản ngắn hạn đáp ứng kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh thì quá trình này sẽ bị gian đoạn, ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn sẽ làm cho vốn quay vòng nhanh, chớp được cơ hội đầu tư, thu được nhiều lợi nhuận. Thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận luôn là mối quan tâm và mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những biện pháp mà mất kì một doanh nghiệp nào cũng cần đó là không ngừng nâng cao hiệu quả 10 Thang Long University Library sử dụng tài sản ngắn hạn. Đó chính là chìa khóa, là con đường ngắn nhất giúp doanh nghiệp có được kết quả kinh doanh tốt nhất cho mình. Sự vận động của tài sản ngắn hạn phản ánh sự vận động của vật tư, hàng hóa, vốn bằng tiền…tài sản ngắn hạn luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí, tốc độ thu hồi các khoản phải thu như thế nào. Từ đó, doanh nghiệp có các biện pháp thích hợp nhằm kiểm tra giảm sát một cách toàn diễn đối với các khoản mục trong cơ cấu tài sản ngắn hạn, đảm bảo tài sản ngắn hạn không bị ứ đọng ở các khâu. Sử dụng tài sản ngắn hạn hợp lýkhông những giúp giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường mà còn giúp doanh nghiệp khai thác tối đa năng lực làm việc của tài sản cố định, làm tăng lợi nhuận, góp phần vào công tác bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. Mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung, nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trong đặt ra cho các doanh nghiệp là bảo toàn tài sản ngắn hạn. Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn là chu chuyển một lần, toàn bộ vào giá trị của sản phẩm, hình thái vốn lưu động thường xuyên biến đổi nên việc bảo toàn tài sản ngắn hạn thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kì đủ mua một lượng vật tư, hàng hóa tương đương với đầu kì khi giá cả hàng hóa tăng lên. Như vậy, có thể nói nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng tài sản ngắn hạn luôn là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Nó gắn liền với sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, là tiêu chí để đo hiệu quả kinh doanh giữa các kỳ. Do vậy, phải không ngừng nâng cao hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất, đảm bảo mục tiêu kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.2.2.1 Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn là mô hình tài trợ cho tài sản ngắn hạn mà doanh nghiệp theo đuổi. Trước khi xem xét chính sách quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, chúng ta tìm hiểu các mô hình quản lý tài sản ngắn hạn và quản lý nợ ngắn hạn. Sự kết hợp giữa chúng sẽ tạo nên những chính sách quản lý tài sản ngắn hạn khác nhau. Chính sách tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có thể được nhận biết thông qua mô hình quản lý tài sản ngắn hạn và mô hình quản lý nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Khi kết hợp hai mô hình này, ta có thể có 3 chính sách: chính sách cấp tiến, chính sách thận trọng và chính sách dung hòa. 11 Hình 1.1 Tỷ trọng TSNH và TSDH theo trƣờng phái cấp tiến TSNH TSDH Chính sách quản lý cấp tiến: Sự kết hợp giữa mô hình quản lý tài sản ngắn hạn cấp tiến và nợ ngắn hạn cấp tiến tạo nên chính sách tài sản ngắn hạn cấp tiến. Với chính sách này, doanh nghiệp đã sử dụng một phần tài sản ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Ưu điểm của chính sách này là chi phí huy động vốn thấp hơn, tuy nhiên sự ổn định của nguồn không cao do nguồn ngắn hạn được sử dụng nhiều, khả năng thanh toán ngắn hạn cũng không được đảm bảo. Tóm lại, chính sách này đem lại thu nhập cao và rủi ro cao. Hình 1.2. Tỷ trọng TSNH và TSDH trong trƣờng phái thận trọng TSNH TSDH Chính sách quản lý thận trọng: Chính sách này là sự kết hợp giữa mô hình quản lý tài sản ngắn hạn thận trọng và nợ ngắn hạn thận trọng. Doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn tài sản dài hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Chính sách này mang lại khá nhiều ưu điểm như khả năng thanh toán được đảm bảo, tính ổn định của nguồn cao và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại mất chi phí huy động vốn cao hơn do lãi suất dài hạn thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Tóm lại, chính sách này, doanh nghiệp có mức thu nhập thấp và rủi ro thấp. Chính sách quản lý dung hòa: Với hai kiểu chính sách trên, doanh nghiệp chỉ có thể đạt được thu nhập cao với mức rủi ro cao (chính sách cấp tiến) hoặc mức rủi ro thấp nhưng thu nhập lại thấp (chính sách thận trọng). Để dung hòa giữa hai phương án, doanh nghiệp có thể lựa chọn chính sách dung hòa: kết hợp quản lý tài sản thận trọng với nợ cấp tiến hoặc kết hợp quản lý tài sản cấp tiến với nợ thận trọng. Chính sách này dựa trên cơ sở nguyên tắc tương thích: tài sản dài hạn được tài trợ hoàn toàn bằng nguồn ngắn hạn và tài sản ngắn hạn được tài trợ bằng nguồn dài hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, để đạt được trang thái tương thích không hề đơn giản do vấp phải những vấn đề như sự tương thích kì hạn, luồng tiền hay khoảng thời gian, do vậy chính sách này chỉ cố tiến tới trạng thái tương thích, duy hòa rủi ro và tạo ra mức thu nhập trung bình. Trên đây là các mô hình cơ bản về chính sách quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một chính sách tài sản ngắn hạn 12 Thang Long University Library riêng và việc quản lý tài sản ngắn hạn tại mỗi doanh nghiệp sẽ mang những đặc điểm rất khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, nội dung chính của quản lý tài sản ngắn hạn vẫn quản lý các bộ phận cấu thành nên tài sản ngắn hạn. 1.2.2.2 Quản lý tiền mặt Tiền mặt là một bộ phận cấu thành của TSNH, có tính thanh khoản cao nhất và trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tiền mặt bản thân nó không sinh lời, nó chỉ sinh lời khi được sử dụng vào mục đích nhất định. Hơn nữa do có tính thanh khoản cao nên tiền mặt rất dễ bị thất thoát, gian lận và lợi dụng. Vì vậy quản lý tiền mặt đòi hỏi vừa phải đảm bảo độ an toàn tuyệt đối, khả năng sinh lời cao song cũng phải đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp, nhu cầu tiền mặt thường do 3 lý do chính: nhằm đáp ứng yêu cầu giao dịch, thanh toán hằng ngày như chi trả tiền mua hàng, trả tiền lương, tiền công, cổ tức hoặc nộp thuế…; nắm bắt các cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư sinh lời; nhu cầu dự phòng hoặc đề phòng các rủi ro bất ngờ ảnh hưởng đến việc thu chi tiền mặt của doanh nghiệp. Quản lý tiền mặt là nội dung quan trọng trong việc quản lý TSNH. Nội dung chủ yếu của công tác quản trị tiền mặt của doanh nghiệp là xác định đủ mức dự trữ biên và quản lý hoạt động thu chi tiền mặt. Xác định mức dự trữ vốn tiền mặt một cách hợp lý. Việc xác định mức tồn trữ tiền mặt hợp lý có ý nghĩa quan trọng giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán bằng tiền mặt cần thiết trong kỳ, tránh được rủi ro không có khả năng thanh toán. Giữ được uy tín với các nhà cung cấp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được cơ hội kinh doanh tốt, tạo khả năng thu được lợi nhuận cao. Để xác dịnh được mức tồn trữ tiền mặt hợp lý có nhiều cách như có thể dựa vào kinh nghiệm thực tế, có thể sử dụng mô hình quản lý Baumol. William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quyết định số dư tiền mặt kết hợp giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Mô hình này được thiết lập nhằm xác định số dư tiền mặt mục tiêu với các giải định là: Nhu cầu về tiền của doanh nghiệp là ổn định, không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an toàn, doanh nghiệp chỉ có hai hình thức dự trữ: tiền mặt và chứng khoán khả thị, không có rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Chi phí giao dịch (Transaction Cost – TrC) T TrC = *F C Trong đó: T là tổng cầu về tiền mặt trong năm 13 C là quy mô một lần bán chứng khoán, T/C: số lần DN bán chứng khoán khả thị để bù đắp tiền mặt đã chi tiêu F là định phí cho mỗi lần bán chứng khoán, Chi phí cơ hội (Opportunity Cost – OC) C OC = *K 2 Trong đó: OC là chi phí cơ hội của việc giữ tiền trong một năm, C/2 là mức dự trữ tiền mặt trung bình K là lãi suất đầu tư chứng khoán/năm, Tổng chi phí = TrC + OC = T C *F + C 2 *K * Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (C ) khi tổng chi phí ở mức tối thiểu: TCmin C 2 * F *T * = K * C chính là mức dự trữ tiền mặt mà tại đó chi phí cơ hội bằng chi phí giao dịch và tổng chi phí đạt cực tiểu Mô hình quản lí tiền mặt Miller-orr: Mô hình này áp dụng cho DN có nhu cầu về tiền là không ổn định hay DN không dự đoán được chính xác các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ. Hình 1.3 Mô hình Miller-Orr Mức cân đối tiền mặt Giới hạn trên Mức tiền mặt Giới hạn dưới Thời gian Qua hình 1.3, mức tồn quỹ dao động lên xuống và không thể dự toán được cho đến khi đạt được giới hạn trên. Doanh nghiệp sẽ can thiệp bằng cách sử dụng số tiền 14 Thang Long University Library vượt quá mức so với mức tồn quỹ thiết kế để đầu tư vào các chứng khoán hay đầu tư ngắn hạn khác và lúc đó, cân đối tiền trở về mức thiết kế . Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, cân đối tiền lại tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống dưới giới hạn dưới là lúc doanh nghiệp phải có sự bổ sung tiền để đáp ứng cho những hoạt động cần thiết, chẳng hạn việc bán một lượng chứng khoán để đáp ứng nhu cầu tiền của mình. Như vậy, mô hình này cho phép quản lý ngân quỹ ở mức độ hoàn toàn tự do. Khoảng dao động của mức cân đối tiền phụ thuộc vào ba yếu tố được chỉ ra trong công thức sau: Khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền 3 * CP giao dịch * phương sai của thu chi NQ 1/3 = 3* 4 * Lãi suất Nhìn vào hình 1.3, ta thấy mức ngân quỹ theo thiết kế không nằm chính giữa giới hạn trên và giới hạn giới hạn dưới . Các doanh nghiệp thường xác định mức tồn quỹ theo thiết kế ở điểm một phần ba khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên: Mức tiền theo thiết kế = Mức tiền mặt giới hạn dưới + Khoảng dao động tiền mặt 3 Mục tiêu của quản lý tiền mặt là phải đảm bảo cho việc tăng đầu tư lượng tiền mặt nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận trong khi vẫn duy trì mức thanh khoản hợp lý để đáp ứng các nhu cầu trong tương lai. Các Công ty cần phải lập kế hoạch khi nào thì có tiền nhàn rỗi có thể dành cho đầu tư và khi nào thì cần vay thêm tiền. Như vậy để quản lý tiền mặt hiệu quả thì ta cần đưa ra các biện pháp sau:  Quản lý chặt chẽ các khoản thu chi bằng tiền doanh nghiệp cần phải xây dựng các nội quy, quy chế về quản lý các khoản thu, chi, đặc biệt là các khoản thu chi bằng tiền mặt để tránh sự mất mát, lạm dụng tiền của doanh nghiệp mưu lợi cho cá nhân.   Tất cả các khoản thu chi bằng tiền mặt phải được thông qua quỹ, không được chi tiêu ngoài quỹ.   Phải có sự phân định rõ ràng trong quản lý tiền mặt giữa nhân viên kế toán tiền mặt và thủ quỹ. Việc xuất nhập quỹ tiền mặt hàng ngày do thủ quỹ tiến hành trên cơ sở các phiếu thu chi tiền mặt hợp thức và hợp pháp.  15  Tăng tốc quá trình thu tiền và làm chậm đi quá trình chi tiền. Dự đoán được thời gian chi trả, doanh nghiệp có thể tận dụng lượng tền mặt trôi nổi trên một số dư tiền mặt nhỏ hơn.   Cần quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt. Xác định rõ đối tượng tạm ứng, mức độ tạm ứng và thời gian được tạm ứng.   Thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn cho doanh nghiệp. Để chủ động trong thanh toán doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc lập kế hoạch lưu chuyển tiền tệ, trên cơ sở đó có biện pháp thích ứng nhằm đảm bảo sự cân bằng thu chi tiền mặt của doanh nghiệp và nâng cao khả năng sinh lời của số tiền mặt nhàn rỗi.  1.2.2.3 Quản lý hàng tồn kho Việc quản lý HTK rất quan trọng không phải chỉ vì nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng TSNH của doanh nghiệp mà quan trọng hơn là tránh được tình trạng vật tư hàng hóa bị ứ đọng, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra bình thường, góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển TSNH. Các doanh nghiệp sản xuất thường tồn tại ba loại hàng tồn kho ứng với ba giai đoạn khác nhau của một quá trình sản xuất: Tồn kho nguyên vật liệu, tồn kho sản phẩm dở dang, tồn kho thành phẩm. Đối với các doanh nghiệp thương mại, hàng tồn kho chủ yếu là dự trữ hàng hóa để bán. Để xác định được mức độ đầu tư vào HTK tối ưu cần so sánh lợi ích đạt được từ dự trữ HTK với chi phí phát sinh do dự trữ HTK để có phương thức quyết định hợp lí. Các chi phí liên quan đến dự trữ HTK gồm:  Chi phí đặt hàng: gồm chi phí giao dịch, chi phí vận chuyển, chi phí giao nhận hàng theo hợp đồng. Trên thực tế chi phí cho mỗi lần đặt hàng thường bao gồm các chi phí cố định và chi phí biến đổi. Tuy nhiên trong các mô hình quản lý, TSNH về HTK đơn giản thường giả định chi phí cho mỗi làn đặt hàng là cố định và độc lập với số đơn vị hàng đặt mua.  Chi phí lưu trữ (chi phí tồn trữ): là những chi phí liên quan đến việc thực hiện dự trữ HTK trong một khoảng thời gian xác định trước. Chi phí lưu trữ bao gồm chi phí lưu kho và chi phí bảo quản; chi phí hư hỏng và chi phí thiệt hại do HTK bị lỗi thời, giảm giá, biến chất; chi phí bảo hiểm; chi phí cơ hội về TSNH lưu giữ đầu tư vào HTK; chi phí trả tiền lãi vay để mua vật tư, hàng hóa dữ trữ; chi phí thuế. Thông thường, chi phí lưu trữ hàng năm giao động từ 20-45% tính trên giá trị HTK cho hầu hết các doanh nghiệp  16 Thang Long University Library  Chi phí thiệt hại khi không có hàng (HTK hết): bao gồm chi phí đặt hàng khẩn cấp, chi phí thiệt hại do ngừng trệ sản xuất, lợi nhuận bị mất do hết thành phẩm dự trữ để bán cho khách hàng…  Trong rất nhiều hàng tồn kho không phải loại nào hàng hóa cũng có vai trò như nhau trong việc bảo quản hàng tồn kho. Để quản lý hàng tồn kho hiệu quả người ta phải phân loại hàng hóa dự trữ thành các nhóm theo mức độ quan trọng của chúng trong dự trữ, bảo quản. Kĩ thuật phân tích A-B-C sẽ giúp doanh nghiệp phân loại và đầu tư có hiệu quả hơn cho việc quản lý hàng tồn kho. Giá trị hàng tồn kho trong năm được xác định bằng cách lấy nhu cầu của từng loại hàng tồn kho nhân với chi phí tồn kho đơn vị. Tiêu chuẩn để xếp các loại hàng tồn kho vào các nhóm là: Nhóm A: Bao gồm các loại hàng hóa có giá trị hằng năm từ 60–80% tổng giá trị tồn kho nhưng về số lượng chỉ chiếm 15–20% tổng số hàng tồn kho. Nhóm B: Bao gồm các loại hành hóa có giá trị hằng năm từ 25–30% tổng giá trị tồn kho nhưng về số lượng chúng chiếm 30–50% tổng số hàng tồn kho. Nhóm C: Gồm những loại hàng có giá trị hằng năm nhỏ, giá trị hàng năm chỉ chiếm 5–10% tổng giá trị hàng tồn kho. Tuy nhiên về số lượng chúng lại chiếm 30– 55% tổng số hàng tồn kho. Hình 1.4. Các nhóm hàng tồn kho theo phân loại A-B-C Mô hình phân tích theo A-B-C giúp doanh nghiệp đầu tư có trọng tâm khi mua hàng, chẳng hạn ta phải dành nhiều tiềm lực để mua hàng hóa nhóm A nhiều hơn so với nhóm C. Ngoài ra doanh nghiệp có thể xác định các chu kì kiểm toán khác nhau. Đối với hàng tồn kho thuộc nhóm A, việc tính toán phải được thực hiện thường xuyên, thường là mỗi tháng 1 lần. Đối với hàng hóa thuộc nhóm B, sẽ tính toán trong chu kì dài hơn thường là 1 quý 1 lần. Đối với hàng hóa thuộc nhóm C thường tính toán 6 tháng 1 lần. 17 Doanh nghiệp cũng có thể áp dụng mô hình EOQ cho việc quản lý HTK với các giả định: Mô hình EOQ là một mô hình quản lý hàng tồn kho mang tính định lượng được sử dụng để xác định mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở giữa chi phí tồn trữ hàng tồn kho và chi phí đặt hàng có mối quan hệ tương quan tỷ lệ nghịch với nhau. Cụ thể, nếu số lượng sản phẩm cho mỗi lần đặt hàng tăng lên thì số lần đặt hàng trong kỳ sẽ giảm xuống và dẫn đến chi phí đặt hàng trong kì giảm trong khi chi phí tồn trữ hàng hóa lại tăng lên. Do đó mục đích của quản lý hàng tồn kho là cân bằng hai loại chi phí này: chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng sao cho tổng chi phí tồn kho là thấp nhất. Hình 1.5. Biến động hàng tồn kho trong một chu kỳ, hàng tồn kho bình quân Q Lượng hàng cung ứng Dự trữ trung bình Q/2 Thời gian Gọi Q là lượng hàng tồn kho cho mỗi lần đặt hàng, khi hết hàng doanh nghiệp lại tiếp tục đặt mua Q đơn vị hàng mới. Tại thời điểm đầu kỳ, lượng hàng tồn kho là Q và ở thời điểm cuối kỳ là 0 nên số lượng tồn kho bình quân trong kỳ là: Q0 Q  2 2 Gọi C là chi phí tồn trữ cho mỗi đơn vị hàng tồn kho thì tổng chi phí tồn trữ hàng tồn kho trong kỳ là: Q xC 2 Gọi S là hàng tiêu thụ trong kỳ nên số lần đặt hàng trong kỳ là Gọi T là tổng chi phí thì : T= Q S xC  xO 2 Q 18 Thang Long University Library S Q Hình 1.6 Đƣờng biểu diễn mối quan hệ giữa chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng tổng chi phí theo các mức sản lƣợng tồn kho Chi phí Chi phí lưu kho C1 . Q/2 Chi phí đặt hàng C2 . D/Q 0 Lượng hàng cung ứng Q* Gọi Q* là lượng hàng tồn trữ tối ưu tức tại Q* là lượng hàng cho chi phí thấp nhất dẫn đến: Q* = 2SO C Nếu gọi T* là thời gian dự trữ tối ưu được tính bằng cách lấy số lượng hàng tối ưu Q* chia cho nhu cầu sử dụng hàng tồn kho bình quân một ngày, tức S/360 ( giả định một năm có 360 ngày), đơn vị tính ngày. Ta có công thức sau: T* = Q* S / 360 Công thức trên cũng có thể được viết lại như sau: T* = 360 xQ * S 1.2.2.4 Quản lý các khoản phải thu Trong số các khoản mục phải thu của doanh nghiệp, phải thu khách hàng đóng vai trò quan trọng nhất. Phải thu khách hàng là khoản mục xuất hiện trong quan hệ mua bán trả chậm giữa các doanh nghiệp, hay còn gọi là khoản tín dụng thương mại. Khi doanh nghiệp bán hàng trả chậm cho khách hàng của mình nghĩa là doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các khoản tín dụng thương mại ngày càng trở nên phổ biến và cũng thể hiện mối quan hệ ràng buộc giữa các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Chính sách tín dụng thƣơng mại Việc lựa chọn chính sách tín dụng thương mại là hết sức quan trọng vì quyết định bán hàng trả chậm có thể cùng một lúc gây nhiều tác động. Chúng ta hãy xem xét những ảnh hưởng của quyết định cấp tín dụng (bán hàng trả chậm). 19 Việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể giúp tăng lợi nhuận do tăng doanh thu, nhưng cũng gây ra những chi phí cơ hội đầu tư vào các khoản phải thu, chi phí quản lý khoản phải thu hay các chi phí dự phòng nợ phải thu khi khách hàng không trả. Do vậy, nguyên tắc cơ bản để đưa ra chính sách tín dụng đó là:  Khi lợi ích gia tăng lớn hơn chi phí gia tăng thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng.  Khi lợi ích gia tăng nhỏ hơn chi phí gia tăng thì doanh nghiệp nên thắt chặt tín dụng.  Trường hợp cả lợi ích và chi phí đều giảm thì doanh nghiệp cần xem xét phần chi phí tiết kiệm được có đủ bù đắp cho phần lợi ích bị giảm đi không Phân tích tín dụng Là một bước cơ bản trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Việc phân tích tín dụng bao gồm hai nội dung cơ bản:  Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng: Trước khi đánh giá uy tín của khách hàng. Doanh nghiệp cần xây dựng các tiêu chuẩn tín dụng phù hợp. Các tiêu chuẩn này có thể là:  Tiêu chuẩn về năng lực trả nợ: được xác định bẳng khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán tức thời và quy mô vốn bằng tiền của khách hàng.  Tiêu chuẩn về quy mô vốn kinh doanh: thể hiện năng lực tài chính dài hạn của khách hàng.  Tiêu chuẩn về khả năng phát triển: xác định khả năng phát triển của khách hàng và ngành nghề kinh doanh trong tương lai. Sau đó, doanh nghiệp tiến hành đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng dựa trên thông tin từ các nguồn khác nhau như: báo cáo tài chính, báo cáo tín dụng, ngân hàng và các tổ chức thương mại, kinh nghiệm của doanh nghiệp. Nếu khách hàng đáp ứng được các tiêu chuẩn của doanh nghiệp đề ra, doanh nghiệp sẽ tiến hành cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Nếu cần cân nhắc, lựa chọn giữa nhiều khách hàng, Công ty có thể sử dụng phương pháp chấm điểm tín dụng trên cơ sở các tiêu chuẩn đã xây dựng kèm theo trọng số. Sau đó, doanh nghiệp sẽ xếp hạng khách hàng và có thể phân loại theo từng mức độ rủi ro để dễ dàng quản lý cũng như đưa ra quyết định.  Phân tích lợi ích thu được từ khoản tín dụng thương mại: Để hiểu rõ về các phương án, doanh nghiệp có thể lượng hóa những lợi ích ròng thu được từ việc cấp tín dụng thông qua xác định giá trị hiện tại ròng NPV. 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng