CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN NGẮN HẠN VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
Theo điều 4 luật doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Căn cứ vào định nghĩa trên thì doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
-
Là đơn vị kinh tế, hoạt động trên thương trường, có trụ sở giao dịch ổn định, có
tài sản;
-
Đã được đăng ký kinh doanh;
-
Hoạt động kinh doanh.
Luật doanh nghiệp 2005 cũng giải thích kinh doanh là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có
các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
a) Theo bản chất kinh tế của chủ sở hữu
Doanh nghiệp được chia ra làm ba loại hình chính dựa trên hình thức và giới hạn
trách nhiệm của chủ sở hữu:
-
Doanh nghiệp tư nhân
-
Doanh nghiệp hợp danh
-
Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn
b) Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh
nghiệp tại Việt Nam bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp mà các
thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
1
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh
nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên hợp danh).
Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành
viên góp vốn.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân
chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư
nước ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
c) Căn cứ vào chế độ trách nhiệm
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm có thể phân loại các doanh nghiệp thành có chế
độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn.
- Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn: là loại hình doanh nghiệp mà ở đó
chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả tài
sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài chính
của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô
hạn là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
- Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn: là những doanh nghiệp mà ở đó
chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là khi số tài
sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải trả nợ
thay cho doanh nghiệp.
1.1.2. Khái quát về tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong một năm hoặc một
chu kỳ kinh doanh. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có thể tồn tại dưới hình thái
tiền tệ, hiện vật (vật tư, hàng hóa), dưới dạng đầu tư ngắn hạn và các khoản nợ phải
thu ngắn hạn.
2
Thang Long University Library
(Nguồn: PGS.TS Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB
Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2002)
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của
chu kỳ kinh doanh: dự trữ - sản xuất - lưu thông quá trình này gọi là quá trình tuần
hoàn và chu chuyển của tài sản ngắn hạn.
Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh tài sản ngắn hạn lại thay đổi hình thái
biểu hiện. Tài sản ngắn hạn chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất mà không giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào
giá trị sản phẩm. Như vậy, sau mỗi chu kỳ kinh doanh thì tài sản ngắn hạn hoàn thành
một vòng chu chuyển.
TSNH được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các công đoạn nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn định, tránh lãng phí và tổn thất
vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và đảm bảo
khả năng sinh lời của tài sản. Do đó, TSNH trong doanh nghiệp có các đặc điểm sau:
-
TSNH có tính thanh khoản cao nên đáp ứng được khả năng thanh toán của
doanh nghiệp;
-
TSNH là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và luân chuyển không
ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh;
-
TSNH có thể dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền tệ nên cũng vận
động rất phức tạp và khó quản lý.
1.1.2.2. Vai trò của TSNH
TSNH được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các công đoạn nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn định, tránh lãng phí và tổn thất
vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và đảm bảo
khả năng sinh lời của tài sản.
TSNH rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bởi đó là những tài sản được sử dụng trong cho hoạt động hàng ngày và chi trả
cho các chi phí phát sinh.
TSNH là những tài sản có thời gian sử dụng dưới một năm nên có khả năng luân
chuyển và thu hồi vốn nhanh hơn TSCĐ, đảm bảo lượng vốn hoạt động cho các chu kỳ
kinh doanh kế tiếp của doanh nghiệp.
TSNH cũng là yếu tố giúp cho các nhà đầu tư có thể nhận định về hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Lượng tiền bị tồn đọng trong hàng tồn kho hoặc lượng tiền mà
khách hàng còn đang nợ của doanh nghiệp cho dù đó vẫn là các tài sản thuộc quyền sở
hữu của doanh nghiệp. Vì vậy nếu một doanh nghiệp không hoạt động ở mức hiệu quả
3
cao nhất định (Ví dụ: thu hồi nợ chậm) thì điều này sẽ biểu hiện ra ngoài bằng sự gia
tăng trong TSNH. Có thể nhận thấy điều này rõ ràng hơn nếu so sánh TSNH của
doanh nghiệp qua từng thời kỳ việc thu hồi nợ chậm có thể là dấu hiệu cho thấy những
nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động của doanh nghiệp.
TSNH thường được so sánh với nợ ngắn hạn để xác định khả năng thanh toán
ngắn hạn và vốn lưu động ròng của doanh nghiệp từ đó hoạch định các chính sách tín
dụng, chính sách đầu tư và quản lý các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Phân loại tài sản ngắn hạn
a) Phân loại tài sản ngắn hạn theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán
Tiền mặt
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh
nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản
cố định, trả tiền thuế, trả nợ. Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy
trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan
trọng nhất.
Các khoản đầu tƣ ngắn hạn
Các khoản đầu tư ngắn hạn bao gồm bất cứ khoản đầu tư nào mà doanh nghiệp
thực hiện với thời gian dưới 1 năm. Các tài khoản như thế này thường gồm: cổ phiếu,
trái phiếu và các tài sản có tính thanh khoản tương đối nhanh. Các loại chứng khoán
ngắn hạn này gần như tiền mặt giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số
dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách
dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Do đó trong quản trị tài chính người ta sử dụng chứng
khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn.
Các khoản phải thu
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Các
doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền hàng lúc bán mà nhận
sau một thời gian xác định mà hai bên thoả thuận hình thành nên các khoản phải thu
của doanh nghiệp.
Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng thương
mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở
nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý
không cân đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn
thậm chí dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
4
Thang Long University Library
Hàng tồn kho
Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất,
kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp không thể tiến hành
sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ.
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn
của dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được
chia thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng tồn tại những bán
thành phẩm. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nếu dây
truyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn thì tồn kho trong quá trình sản
xuất sẽ càng lớn.
Khi tiến hành sản xuất xong hầu hết các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ hết sản
phẩm. Phần thì do có “độ trễ” nhất định giữa các sản xuất và tiêu dùng, phần phải có
đủ lô hàng mới xuất được... Những doanh nghiệp mà sản xuất mang tính thời vụ và có
quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì dự trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn.
Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì một lượng
hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà mức dự trữ an
toàn khác nhau.
Tài sản ngắn hạn khác bao gồm các khoản tạm ứng cho nhân viên, chi phí trả
trước ngắn hạn và các khoản ký quỹ, ký cược ngắn hạn.
b) Phân loại theo vai trò từng loại tài sản ngắn hạn trong quá trình sản xuất kinh
doanh
Tài sản ngắn hạn dự trữ là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu dự trữ
của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao gồm: tiền mặt
tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên
vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người
bán.
Tài sản ngắn hạn sản xuất là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu sản
xuất của doanh nghiệp, bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất kinh
doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục
vụ cho quá trình sản xuất…
Tài sản ngắn hạn lƣu thông là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu lưu
thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các khoản nợ
phải thu của khách hàng.
5
Theo cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác định được
các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển của tài sản ngắn hạn để đưa ra biện
pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng một cách cao nhất.
Trong khuôn khổ của khóa luận tài sản ngắn hạn được phân loại theo các khoản
mục trên bảng cân đối kế toán nhằm thuận tiện hơn trong việc tính toán các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Đặc trưng cơ bản nhất của tài sản ngắn hạn là sự luân chuyển liên tục trong suốt
quá trình sản xuất kinh doanh và chuyển toàn bộ giá trị một lần vào sản phẩm trong
chu kỳ kinh doanh. Do vậy khi đánh giá về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, người ta
chủ yếu đánh giá về tốc độ luân chuyển của nó. Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn
nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt công tác, mua sắm, dự trữ, sản xuất
và tiêu thụ của doanh nghiệp hợp lý hay không hợp lý, các khoản vật tư dự trữ sử dụng
tốt hay không tốt, các khoản phí tổn thất trong sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết
kiệm hay không tiết kiệm.
Ngoài mục tiêu sử dụng cho mua sắm, dự trữ, tài sản ngắn hạn còn được sử dụng
trong thanh toán. Bởi vậy, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn còn thể hiện ở khả năng
đảm bảo lượng tài sản ngắn hạn cần thiết để thực hiện thanh toán. Đảm bảo đầy đủ tài
sản ngắn hạn trong thanh toán sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh tạo
uy tín với bạn hàng và khách hàng.
Tóm lại hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ và năng lực quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, đảm bảo tài sản ngắn hạn
được luân chuyển với tốc độ cao, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp luôn
ở tình trạng tốt và mức chi phí bỏ ra là thấp nhất.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH
Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải có
một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có vốn sẽ không có bất kỳ
hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu
quả cao mới chính là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh
nghiệp. Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói
chung và TSNH nói riêng là một nội dung rất quan trọng của công tác quản lý tài
chính doanh nghiệp. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSNH phải được
hiểu trên hai khía cạnh:
6
Thang Long University Library
Một là, với số tài sản hiện có có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với
chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hai là, đầu tư thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để
tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ
tăng tài sản.
Dựa trên việc đạt được hai khía cạnh này, ta thấy rõ những lợi ích to lớn của việc
sử dụng hiệu quả TSNH, cụ thể là:
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH sẽ góp phần nâng cao năng suất và khả năng
tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Thật vậy, TSNH được sử dụng càng hiệu quả thì
năng lực sản xuất hàng hóa càng cao, chi phí sản xuất cũng giảm xuống khiến cho sản
phẩm của doanh nghiệp có chất lượng không đổi trong khi giá thành lại giảm. Do vậy,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng doanh thu và đem lại lợi nhuận tốt nhất
cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí đầu tư cho
TSNH. Bởi lẽ, TSNH được sử dụng một cách hợp lí sẽ góp phần đấy nhanh tốc độ lưu
chuyển TSNH, làm cho tài sản quay được nhiều vòng hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận
hơn từ một đồng vốn bỏ ra.
TSNH được sử dụng hợp lí còn góp phần cải thiện tình hình thanh toán cho
doanh nghiệp, tăng cường khả năng chi trả cho các khoản nợ vay. Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng bởi vì hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay vốn của ngân
hàng hay các đối tượng khác để bù đắp phần thiếu hụt của đơn vị mình dẫn đến một
thực trạng là riêng số tiền lãi phải trả hàng năm đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản
lý và sử dụng tài sản ngắn hạn trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố
quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế.
1.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích quy mô – cơ cấu tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Quy mô tài sản ngắn hạn được hiểu là tỉ trọng tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản
của doanh nghiệp. Việc so sánh quy mô tài sản ngắn hạn với quy mô tài sản dài hạn sẽ
cho thấy bức tranh tổng quát về lượng vốn đầu tư cho từng loại tài sản của doanh
nghiệp. Tỉ trọng tài sản ngắn hạn cao hay thấp tùy thuộc vào loại hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp thương mại,
chuyên phân phối hàng hóa, sản phẩm thì tỉ trọng tài sản ngắn hạn luôn rất cao, thường
7
chiếm đến hơn 90% trên tổng tài sản. Mặt khác, những doanh nghiệp sản xuất hay các
doanh nghiệp vận tải, xây dựng... lại có tỉ trọng tài sản ngắn hạn thấp hơn một chút do
đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp này yêu cầu phải đầu tư nhiều hơn cho tài
sản dài hạn. Xem xét quy mô tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đánh giá xem
liệu lượng vốn đầu tư cho tài sản ngắn hạn có phù hợp với đặc điểm hoạt động của
doanh nghiệp hay không. Từ đó, đưa ra những điều chỉnh trong chính sách đầu tư
nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp.
Xem xét cơ cấu tài sản ngắn hạn tức là xem xét tỷ trọng từng khoản mục nhỏ
trong tổng tài sản ngắn hạn, nó cho biết trong tổng tài sản ngắn hạn, khoản mục nào
đang được doanh nghiệp đầu tư nhiều nhất, từ đó đánh giá được cơ cấu tài sản ngắn
hạn đã hợp lý hay chưa. Các khoản mục nhỏ cấu thành lên tài sản ngắn hạn là:
Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền
Nếu tỷ trọng tiền và các khoản tương đương tiền đang chiếm phần lớn trên tổng
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thì ta có thể đưa ra kết luận rằng doanh nghiệp đấy
đang dự trữ quá nhiều tiền. Việc dự trữ nhiều tiền trong tài khoản sẽ tăng khả năng
thanh toán của doanh nghiệp, nhưng mặt khác nó gây lãng phí do không được đưa vào
quá trình đầu tư, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tỷ trọng
tiền và các khoản tương đương tiền quá thấp thì doanh nghiệp sẽ dễ gặp phải rủi ro
thanh khoản. Hơn nữa, dự trữ tiền mặt trong tài khoản quá thấp cũng gây ảnh hưởng
đến việc chi tiêu trong các hoạt động thường ngày của doanh nghiệp.
Các khoản đầu tƣ tài chính ngắn hạn
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao cho thấy doanh nghiệp
đang đầu tư nhiều vào hoạt động tài chính như: mua các chứng khoán, trái phiếu, tín
phiếu ngắn hạn hay đầu tư nhiều tiền nhàn rỗi vào các khoản tiền gửi có kỳ hạn trong
ngân hàng. Tỷ trọng các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn cao hay thấp phụ thuộc nhiều
vào loại hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thật vậy, thường thì các doanh
nghiệp không chuyên về lĩnh vực tài chính sẽ hạn chế đầu tư vào các khoản tài chính
ngắn hạn để tránh rủi ro do hạn chế về mặt kiến thức của lĩnh vực này. Những biến
động của thị trường chứng khoán, tỷ lệ lạm phát hay lãi suất ngân hàng cũng ảnh
hưởng rất lớn đến tỷ trọng các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp.
Hàng tồn kho
Nếu tỷ trọng hàng tồn kho quá cao cho thấy lượng vốn bị tồn đọng trong hàng
tồn kho lớn, lượng vốn đấy không được đưa vào lưu thông sẽ ảnh hưởng đến khả năng
sinh lời của doanh nghiệp. Mặt khác, lượng hàng tồn kho lớn còn thể hiện hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn trì trệ và không được hiệu quả. Ngược lại,
nếu tỷ trọng hàng tồn kho quá thấp sẽ khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng không đủ
8
Thang Long University Library
hàng hóa cung cấp cho khách hàng. Chính vì vậy, việc xem xét tỷ trọng hàng tồn kho
sẽ giúp doanh nghiệp nhận định được thực trạng lượng hàng tồn kho của mình, từ đó
điều chỉnh theo hướng hợp lý nhất nhằm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Các khoản phải thu
Tỷ trọng các khoản phải thu sẽ phản ảnh chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
Các khoản phải thu, đặc biệt là phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn cho thấy doanh
nghiệp đang nới lỏng chính sách tín dụng và ngược lại, nếu tỷ trọng các khoản này
thấp thì doanh nghiệp đang thắt chặt chính sách tín dụng. Việc nới lỏng hay thắt chặt
chính sách tín dụng phụ thuộc nhiều vào tình hình biến động của nền kinh tế cũng như
chính sách bán hàng và chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Như vậy, việc phân tích quy mô và cơ cấu tài sản ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp
đánh giá xem lượng vốn đầu tư cho tài sản ngắn hạn và dài hạn đã phù hợp chưa. Các
khoản mục nhỏ cấu thành lên tài sản ngắn hạn đã chiếm tỷ trọng hợp lý với đặc điểm
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay chưa. Từ đó, đưa ra chính sách
quản lý tài sản ngắn hạn hiệu quả.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
a) Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các
khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ, nó cho
biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có
thể chuyển thành tiền trong mỗi giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ
đó. Để phân tích đánh giá khả năng thanh toán và các khoản nợ ngắn hạn khi chúng
đến hạn thanh toán, người ta sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết khả năng chuyển đổi tài sản có tính
thanh khoản cao thành tiền để đáp ứng nhu cầu trong ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn gồm
3 loại chủ yếu là: tiền, các khoản phải thu và hàng tồn kho. Khả năng thanh toán ngắn
hạn được tính bằng công thức:
Khả năng thanh toán
ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn
=
Nợ ngắn hạn
Khi hệ số này ở mức nhỏ hơn 1, thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp là yếu tố dẫn đến rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản cao. Ngược lại, nếu
hệ số này ở mức lớn hơn 1, cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tương
đối tốt, đủ khả năng đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Song nếu hệ số
này cao quá, tức là lượng TSNH tồn trữ quá lớn và bộ phận tài sản này không vận
động, không sinh lời sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
9
Hệ số này lớn hay nhỏ hơn còn phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh
của doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp thương mại, TSNH thường chiếm
tỷ trọng lớn hơn trong tổng tài sản nên hệ số này tương đối cao. Do đó, khi đánh giá
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cần phải dựa vào hệ số trung bình của doanh nghiệp
cùng ngành. Tuy nhiên, hệ số này chỉ phản ánh một cách tạm thời tình hình thanh toán
của doanh nghiệp vì tài sản ngắn hạn bao gồm cả các khoản phải thu và hàng tồn kho.
Chính vì vậy để đánh giá chính xác hơn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ta
cần xét thêm một số chỉ tiêu khác nữa.
Khả năng thanh toán nhanh phản ánh khả năng thanh toán thực sự của doanh
nghiệp trước các khoản nợ ngắn hạn, nó cho biết những chỉ tiêu có tính thanh khoản
cao nhất trong tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có đáp ứng được nhu cầu nợ ngắn
hạn hay không. Khả năng thanh toán nhanh có công thức tính là:
TSNH – Hàng tồn kho
Khả năng thanh
toán nhanh
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số này thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, thông thường
khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này > 1 vì công ty có
thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần bán bớt hàng tồn kho.
Đây là chỉ tiêu được các chủ nợ ngắn hạn rất quan tâm vì thông qua các chỉ tiêu
này, các chủ nợ có thể đánh giá được tại thời điểm phân tích doanh nghiệp có khả năng
thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn hay không. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, chỉ tiêu này chưa phản ánh một cách chính xác khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
TSNH. Do đó, để đánh giá chính xác và chặt chẽ hơn cần xem xét thêm khả năng
thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán tức thời cho biết tiền và các khoản tương đương tiền có
đáp ứng được nhu cầu thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp hay
không. Khả năng thanh toán tức thời được tính bằng:
Khả năng thanh toán
tức thời
Tiền và các khoản tương đương tiền
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán tức thời là một chỉ tiêu đánh giá sát hơn khả năng
thanh toán của doanh nghiệp. Trong đó, tiền bao gồm: tiền mặt, tiền gửi, tiền đang
chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (dưới 3 tháng)
có thể chuyển đổi thành tiền bất cứ lúc nào như: chứng khoán ngắn hạn, thương
phiếu… Đây là các tài sản có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp.
10
Thang Long University Library
Tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà tỷ số về khả năng thanh toán tức thời
bằng bao nhiêu là hợp lý. Thông thường, tỷ số này xấp xỉ 0,5 là tốt. Nếu quá lớn cho
thấy tài sản của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng tiền nhiều làm cho hiệu quả sử dụng
tài sản của doanh nghiệp sẽ không cao. Ngược lại, nếu tỷ số này quá nhỏ lại phản ánh
một tình hình tài chính không lành mạnh, khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ
phải trả ngay.
b) Chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
Số vòng quay của TSNH (Sức sản xuất của TSNH) cho biết số vòng quay của
TSNH thực hiện trong một thời kỳ nhất định. Nó cho biết một đồng TSNH bình quân
bỏ ra có thể tạo ra được bao nhiêu đồng tổng doanh thu. Số vòng quay càng lớn, hiệu
quả sử dụng TSNH càng cao và ngược lại. Số vòng quay TSNH được tính bằng công thức:
Doanh thu thuần
Số vòng quay TSNH
=
Tài sản ngắn hạn
Thời gian một vòng quay của TSNH cũng phản ánh tốc độ luân chuyển của tài
sản ngắn hạn còn được thể hiện dưới dạng thời gian của một vòng quay. Được tính
bằng công thức:
Thời gian một vòng quay
của TSNH
360
=
Vòng quay TSNH
Thời gian của một vòng quay ngắn cũng tức là tốc độ luân chuyển tài sản ngắn
hạn nhanh và doanh nghiệp có thể thu hồi vốn sớm.
Hệ số đảm nhiệm TSNH cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng luân chuyển
thuần thì phải đầu tư bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn. Hệ số này được tính bằng công thức:
Tài sản ngắn hạn
Hệ số đảm nhiệm TSNH
=
Doanh thu thuần
Thông qua chỉ tiêu này các nhà phân tích sẽ xây dựng được các kế hoạch đầu tư
tài sản của mình, đồng thời có cơ sở để đánh giá tính chính xác của kế hoạch đầu tư tài
sản hiện tại.
c) Chỉ tiêu phản ảnh khả năng sinh lời
Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn phản ánh khả năng sinh lời của tài sản
ngắn hạn. Nó cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn
vị lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
11
Tỷ suất sinh lời của
TSNH
Lợi nhuận sau thuế
=
Tài sản ngắn hạn
Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn phản ánh mỗi đồng tài sản ngắn hạn sử dụng
trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy đã sử dụng được hết
giá trị của tài sản ngắn hạn. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn thể hiện ở lợi
nhuận của doanh nghiệp, đây chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được.
Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả
sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng. Với công thức trên ta thấy, nếu tài sản ngắn hạn sử
dụng trong kỳ thấp mà lợi nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao.
Để phân tích tỷ suất sinh lời của TSNH, ta có thể xác định các nhân tố ảnh hưởng
theo phương pháp Dupont như sau:
Tỷ suất sinh lời
=
của TSNH
Tỷ suất sinh
lời của TSNH
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
X
Doanh thu thuần
TSNH bình quân
= Tỷ suất sinh lời của x Số vòng quay của TSNH
tổng doanh thu thuần
Dựa vào mô hình này, ta thấy được mối liên hệ của các chỉ tiêu tài chính với
nhau và ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Cũng
nhờ có mô hình Dupont ta có thể xem xét các thành phần tác động tới tỉ suất sinh lời
của tài sản ngắn hạn, từ đó có biện pháp kiểm soát tốt các thành phần đó nhằm đạt
được tỉ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn như mong muốn.
Như vậy, theo mô hình Dupont, tỷ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn chịu ảnh
hưởng của 2 nhân tố: tỷ suất sinh lời của tổng doanh thu thuần và số vòng quay của tài
sản ngắn hạn. Muốn cho tỷ suất sinh lời của TSNH cao thì cần có các biện pháp nâng
cao 2 nhân tố ảnh hưởng trên.
Suất hao phí của tài sản ngắn hạn so với lợi nhuận sau thuế cho biết để có
được một đồng lợi nhuận sau thuế trong kỳ thì doanh nghiệp cần đầu tư bao nhiêu
đồng TSNH. Chỉ tiêu này nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSNH của công ty tốt và
ngược lại. Suất hao phí lợi nhuận sau thuế được tính bằng công thức:
TSNH
Suất hao phí của TSNH trên lợi
nhuận sau thuế
=
Lợi nhuận sau thuế
d) Chỉ tiêu đánh giá năng lực hoạt động của TSNH
12
Thang Long University Library
Vòng quay hàng tồn kho phản ánh mối quan hệ giữa hàng tồn kho và giá vốn
hàng bán trong một kỳ kinh doanh theo công thức:
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho
=
Hàng tồn kho
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho của
doanh nghiệp hiệu quả như thế nào. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn
kho bình quân luân chuyển trong kỳ.
Chỉ tiêu này thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực quản trị
hàng tồn kho là tốt hay xấu. Chỉ tiêu này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa
trong kho là nhanh và ngược lại, nếu nó nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp.
Tỷ số này có giá trị cao sẽ ủng hộ lòng tin của khách hàng vào khả năng thanh
toán của doanh nghiệp, nếu tỷ số thấp sẽ cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ
và kém năng động của doanh nghiệp đó. Nhưng cũng có thể doanh nghiệp tăng mức
dự trữ nguyên vật liệu khi dự đoán trước giá sản phẩm sẽ tăng hoặc do có sự gián đoạn
trong khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Bởi vậy khi so sánh cần có thêm
những thông tin về dự trữ nhằm đảm bảo tính chuẩn xác. Đây là một chỉ tiêu khá quan
trọng để đánh giá hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ số này đo
lường tính thanh khoản của hàng tồn kho. Nếu việc quản lý hàng tồn kho của doanh
nghiệp không hiệu quả sẽ phát sinh chi phí lưu trữ hàng tồn kho làm giá bán tăng.
Số ngày quay vòng hàng tồn kho cho ta biết trung bình kể từ khi doanh nghiệp
mua hàng đến khi bán được hàng mất bao nhiêu thời gian.
360
Số ngày quay vòng hàng tồn kho
=
Vòng quay hàng tồn kho
Biến động vòng quay hàng tồn kho có thể do nhiều yếu tố tác động. Việc giảm
vòng quay hàng tồn kho có thể do bán hàng chậm, quản lý hàng tồn kho kém, do chính
sách doanh nghiệp cần dự trữ nguyên liệu do dự đoán hoặc biết trước là giá tăng trong
tương lai,… Ngược lại, việc giảm vòng quay hàng tồn kho nhưng cải tiến áp dụng
trong khâu bán hàng, chất lưọng sản phẩm tăng lên. Việc doanh nghiệp duy trì hàng
tồn kho thấp có thể khiến vòng quay hàng tồn kho tăng lên tuy nhiên tại một số thời
điểm có thể doanh nghiệp sẽ không đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường
làm cho doanh thu bị giảm đi.
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt của doanh nghiệp và được xác định theo công thức:
13
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu
=
Các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản thu
nhanh là tốt, vì doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu (không
phải cấp tín dụng cho khách). Ngược lại, vòng quay quá nhỏ sẽ làm giảm doanh thu do
chính sách cấp tín dụng cho khách hàng trở nên nghiêm ngặt hơn.
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải
thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay các khoản phải thu
càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ và ngược lại. Kỳ thu tiền trung bình được
xác định theo công thức:
360
Kỳ thu tiền trung bình
=
Vòng quay các khoản phải thu
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp chưa thể có
kết luận chắc chắn, mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh
nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Mặt
khác dù chỉ tiêu này có thể đánh giá là khả quan thì doanh nghiệp cần phải phân tích
kỹ hơn vì tầm quan trọng của nó và kỹ thuật tính toán đã che dấu đi các khuyết tật
trong việc quản trị các khoản phải thu.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu trong doanh
nghiệp là điều khó tránh khỏi. Nhờ các chính sách bán chịu mà doanh nghiệp có thể
thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường, duy trì thị trường có sẵn, nâng cao hiệu
quả sử dụng máy móc, thiết bị…Tuy nhiên việc bán chịu có thể khiến doanh nghiệp
chịu rủi ro, đó là việc giảm giá trị hàng hoá, tốc độ chu chuyển vốn chậm, rủi ro về khả
năng thu hồi nợ. Do đó doanh nghiệp cần phải quan tâm đến kỳ thu tiền trung bình và
đưa ra các chính sách nhằm rút ngắn thời gian này.
Vòng quay các khoản phải trả được tính bằng công thức:
Vòng quay các khoản
phải trả
GVHB + Chi phí chung, chi phí bán hàng, quản lý
=
Phải trả người bán + Lương, thưởng, thuế phải trả
Đây là chỉ tiêu nói lên số vòng quay các khoản phải trả, chỉ tiêu này đánh giá bao
nhiêu đồng chi phí bán hàng, chi phí quản lý chung và giá vốn hàng bán bỏ ra thì có 1
đồng DN đi chiếm dụng vốn của khách hàng, người lao động. Chỉ tiêu này càng thấp
càng tốt. Việc chiếm dụng khoản vốn này có thể sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi
phí về vốn, đồng thời thể hiện uy tín về quan hệ thanh toán đối với nhà cung cấp và
chất lượng sản phẩm đối với khách hàng.
14
Thang Long University Library
Thời gian trả chậm trung bình được tính bằng công thức:
Thời gian trả chậm trung bình
=
360
Vòng quay các khoản phải trả
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển tiền hay số ngày
bình quân cần thiết để các khoản trả người bán thực hiện một vòng quay trong kỳ.
Thời gian luân chuyển tiền càng dài càng tốt vì nó thể hiện thời gian công ty chiếm
dụng vốn của khách hàng hay nhà cung cấp.
Thời gian luân chuyển tiền mặt của một công ty được định nghĩa là khoảng
thời gian từ khi thanh toán các khoản nợ đến khi thu được tiền và được tính bằng:
Thời gian thu tiền
của khách hàng
+
Thời gian chuyển
đổi hàng tồn kho
–
Thời gian phải
trả người bán
Rút ngắn thời gian luân chuyển tiền mặt làm tăng khả năng sinh lợi của công ty
bởi vì chu kỳ chuyển đổi tiền mặt càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài với chi phí
cao càng lớn. Do đó, bằng cách giảm thời gian tiền mặt bị ứ đọng trong vốn luân
chuyển, công ty có thể hoạt động hiệu quả hơn vì giảm được chi phí trong điều kiện
doanh số của công ty không đổi. Như vậy, thời gian luân chuyển tiền mặt ngắn hơn sẽ
làm tăng khả năng sinh lợi của công ty vì nó cải thiện hiệu quả của việc sử dụng vốn
luân chuyển.
Thời gian luân chuyển tiền mặt cũng là một cách hữu dụng để đánh giá dòng
tiền của công ty bởi vì nó đo lường khoảng thời gian đã đầu tư vào vốn lưu động, cách
đo lường tính thanh khoản này hiệu quả và toàn diện hơn so với phương pháp truyền
thống là sử dụng tỉ số thanh toán hiện hành và tỉ số thanh toán nhanh vốn chỉ tập trung
vào các giá trị cố định trên bảng cân đối kế toán.
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Tổ chức sản xuất kinh doanh có tác động rất lớn đến hiệu quả sử dụng TSNH của
mỗi doanh nghiệp. Với mục đích sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp sẽ quyết
định trong việc phân phối tài sản, đặc biệt là chu kỳ sản xuất kinh doanh. Sản phẩm
của mỗi doanh nghiệp là khác nhau do vậy mà có những doanh nghiệp chu kỳ sản xuất
dài nhưng doanh nghiệp khác chu kỳ sản xuất lại ngắn, điều đó có ảnh hưởng đến việc
ra quyết định của doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Để đi vào sản
xuất thì lượng tài sản ngắn hạn cần đưa vào là bao nhiêu, mức dự trữ dành cho các chu
15
kỳ tiếp theo như thế nào, lượng tiền mặt doanh nghiệp cần giữ cũng như kỳ thu tiền dài
hay ngắn tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất
kinh doanh dài thì thời gian thu hồi vốn càng lâu, nên các doanh nghiệp luôn tìm cách
làm cho chu kỳ kinh doanh ngắn hơn như vậy vòng quay tài sản ngắn hạn nhanh hơn.
Vòng quay tài sản ngắn hạn tăng tức là việc tiêu thụ hàng hóa cũng tăng lên và như
vậy doanh thu tăng lên, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng. Điều đó thể
hiện hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tăng.
1.3.1.2. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp
Đây là nhân tố hết sức quan trọng, bởi ngoài việc nguyên vật liệu tốt thì để có
được những sản phẩm tốt thì điều quan trọng là doanh nghiệp phải có những thiết bị
máy móc tốt. Một doanh nghiệp có được những trang thiết bị tốt sẽ làm cho các khâu
sản xuất trở nên dễ dàng hơn. Cùng chất lượng nguyên vật liệu nhưng nếu doanh
nghiệp nào trang bị tốt, máy móc đưa vào dây truyền sản xuất những thiết bị công
nghệ cao sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng, đồng thời làm cho các công đoạn
của quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng hơn, ngược lại với máy móc không tốt sẽ
không tận dụng được hết giá trị của nguyên vật liệu thậm chí còn sản xuất ra những
sản phẩm kém chất lượng, như vậy hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn không cao.
1.3.1.3. Trình độ cán bộ công nhân viên
Để việc sử dụng tài sản ngắn hạn đạt hiệu quả đòi hỏi các doanh nghiệp phải
có những cán bộ quản lý giỏi, công nhân viên có trình độ tay nghề cao. Người quản
lý phải nắm bắt rõ tình hình hoạt động của doanh nghiệp, sau mỗi chu kỳ hoạt động
phải phân tích để đánh giá xem hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ra sao, từ đó đưa
ra các kế hoạch trong những chu kỳ tiếp theo. Trong quá trình sản xuất để tận dụng
hết nguyên vật liệu thì người công nhân phải có chuyên môn giỏi, đặc biệt việc sử
dụng máy móc thiết bị hết sức quan trọng, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại đòi
hỏi đội ngũ sử dụng những loại máy móc thiết bị đó cũng phải được đào tạo có
chuyên môn, có kỹ thuật.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Môi trường kinh tế
Nhân tố này thể hiện các đặc trưng của hệ thống kinh tế trong đó các doanh
nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh như: chu kỳ phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế, hệ thống tài chính - tiền tệ, tình hình lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, các
chính sách tài chính - tín dụng của Nhà nước.
16
Thang Long University Library
Nền kinh tế nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng
kinh tế sẽ quyết định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả năng phát triển các hoạt
động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hệ thống tài chính - tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài khoá của
chính phủ có tác động lớn tới quá trình ra quyết định sản xuất - kinh doanh và kết quả
hoạt động của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, doanh nghiệp còn chịu tác động của thị
trường quốc tế. Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước, sự bất ổn của nền
kinh tế các nước tác động trực tiếp đến thị trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp.
Như vậy, những thay đổi của môi trường kinh tế ngày càng có tác động mạnh
đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp những
thuận lợi đồng thời cả những khó khăn. Do đó, doanh nghiệp phải luôn đánh giá và dự
báo những thay đổi đó để có thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ
những cơ hội và hạn chế những tác động tiêu cực từ sự thay đổi của môi trường kinh tế.
1.3.2.2. Chính trị - Pháp luật
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Một
trong những công cụ của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế là các chính sách tài chính,
tiền tệ luật pháp. Đó là hệ thống các nhân tố tác động trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sự can thiệp ở mức độ hợp lý của Nhà nước vào
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết và tập trung ở các nội
dung như: duy trì sự ổn định kinh tế, chính trị, định hướng phát triển kinh tế, kích
thích phát triển kinh tế thông qua hệ thống pháp luật, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Vì vậy, đứng trước các quyết định đầu tư, các chính sách của Nhà nước luôn là
một trong những yếu tố được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu.
1.3.2.3. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Để tồn tại được thì các doanh nghiệp luôn có sự cạnh tranh lẫn nhau. Cùng là các
doanh nghiệp sản xuất ra một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp nào có sản phẩm
chất lượng cao, mẫu mã đẹp thì sẽ thu hút được nhiều người mua. Như vậy vấn đề của
các doanh nghiệp là thu hút được khách hàng và tất nhiên phần thắng sẽ thuộc về kẻ
mạnh. Hiện nay các doanh nghiệp luôn hướng tới việc trọng cầu, việc đưa ra các
phương thức về giá cả, mẫu mã, chất lượng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng luôn là
vấn đề mà mọi doanh nghiệp phải quan tâm.
1.3.2.4. Nhu cầu của khách hàng
Nhu cầu khách hàng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới việc ra quyết định của doanh
nghiệp trong việc sản xuất ra loại sản phẩm gì, chất lượng ra sao, mẫu mã như thế nào.
17
Nhu cầu của con người ngày càng cao, để đáp ứng nhu cầu đó thì doanh nghiệp
luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm. Những doanh nghiệp mà đội ngũ
nhân viên khéo léo, tận tình cộng với công tác xúc tiến thương mại quảng bá sản phẩm
của mình để thâm nhập vào thị trường mới sẽ giúp doanh nghiệp bán được nhiều sản
phẩm làm doanh thu của doanh nghiệp tăng nhanh.
Trên đây là các nhân tố chính tác động tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
nhưng bên cạnh đó doanh nghiệp cần quan tâm tới các nhân tố khác như: các vấn đề về
tỷ giá, lạm phát, thiên tai, dịch bệnh… cũng ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động của
doanh nghiệp.
18
Thang Long University Library
Tổng kết chƣơng 1
Qua việc xem xét chương 1, ta đã có những hiểu biết cơ bản về tài sản ngắn hạn
như khái niệm TSNH, vai trò của TSNH và cách phân loại TSNH. Ngoài ra, ta còn
hiểu được khái niệm hiệu quả sử dụng TSNH và bốn nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
sử dụng TSNH của một doanh nghiệp là: nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm
chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của TSNH, nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực hoạt
động của TSNH và chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của TSNH. Hơn nữa, chương 1
cũng giới thiệu các nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
TSNH trong doanh nghiệp. Nhân tố chủ quan như: đặc thì hoạt động sản xuất kinh
doanh, cơ sở vật chất và trình độ cán bộ công nhân viên trong công tác quản lý TSNH.
Nhân tố khách quan như: Tình hình kinh tế xã hội, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
hoạt động trên cũng lĩnh vực, nhu cầu của người tiêu dùng,.. Những kiến thức ở
chương 1 rất quan trọng vì nó là tiền đề để tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng TSNH
trong doanh nghiệp thực tế.
19
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN
NGẮN HẠN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TU BỔ DI TÍCH TRUNG ƢƠNG
2.1. Khái quát về công ty cổ phần Tu bổ di tích Trung ƣơng
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Tu bổ di tích
Trung ương
2.1.1.1. Giới thiệu chung về công ty
Tên đầy đủ:
Công ty cổ phần Tu bổ di tích Trung ương
Tên giao dịch quốc tế:
Vietnam Joint Stock Company For Restoration of
Monuments
Tên viết tắt:
VINAREMON.,JSC
Quyết định thành lập:
89/QĐ-BVHTT ngày 25/04/1971 của Bộ Văn hóa –
Thông trực thuộc Cục Bảo tồn bảo tàng
Địa chỉ :
Số 489 đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội
Điện thoại :
(04) 3.5522335
Fax:
(04) 3.8542851
Mã số thuế:
0100123319
Người đại diện pháp luật: Trần Văn Khanh
Chức vụ:
Tổng Giám đốc
Vốn điều lệ:
11.4860.000.000 VNĐ
Tổng số cổ phần:
1.000.000 cổ phần
2.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
Khởi đầu từ xưởng tu sửa phục chế là đơn vị sự nghiệp của ngành bảo tồn bảo
tàng, trải qua hơn 40 năm hoạt động nghề nghiệp vì sự nghiệp di sản văn hóa, đặc biệt
là hơn 20 năm hoạt động với tư cách một doanh nghiệp Nhà nước chuyên ngành với
nhiều biến động tổ chức do sắp xếp lại trong sự nghiệp đổi mới và giữ gìn phát huy di
sản của đất nước.
Năm 2006, theo Quyết định số 4651/QĐ-BVHTT công ty Tu bổ di tích và Thiết
bị Văn hóa Trung ương chuyển đổi thành công ty tu bổ di tích Trung ương, là doanh
nghiệp Nhà nước đầu ngành có truyền thống xây dựng và trưởng thành lâu dài trong
công tác tu bổ, phục hồi và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật trên cả nước,
đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo tồn di sản nước nhà.
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -