1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cưú của đề tài:
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề có tính chiến
lược đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, vì đó là cơ
sở quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Kinh doanh đạt
hiệu quả cao cho phép doanh nghiệp thực hiện tốt quá trình tái sản xuất ở mức
độ ngày càng cao hơn. Đồng thời tạo ra nguồn thu để đóng góp cho ngân sách
Nhà nước. Vì thế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn giữ vị trí quan
trọng trong quá trình cấu trúc lại nền Kinh tế quốc dân.
Các doanh nghiệp dệt may thuộc ngành kinh tế kỹ thuật sản xuất hàng
tiêu dùng giữ vị trí quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của
nước ta trong những năm gần đây, các sản phẩm may mặc luôn chiếm một tỷ
trọng đáng kể. Năm 2010 tiếp tục được xem là một năm thành công của
ngành dệt may khi kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt 11,2 tỷ USD, tăng
23,2% so với năm 2009. Không chỉ đứng đầu về xuất khẩu trong nước, dệt
may Việt Nam còn vươn lên vị trí thứ 5 trong các nước xuất khẩu hàng dệt
may trên toàn thế giới. Với bước tiến lớn như vậy, ngành dệt may Việt Nam
tiếp tục đặt ra những kỳ vọng phát triển mới trong năm 2011.
Những biến động trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã tác
động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của hàng dệt may xuất khẩu. Là một
trong những doanh nghiệp có truyền thống sản xuất hàng may mặc phục vụ
nhu cầu trong nước - quốc phòng và xuất khẩu có uy tín đó là Công ty cổ
phần X20. Càng làm cho việc nghiên cứu về hiệu quả hoạt động xuất khẩu tại
công ty X20 trở nên cấp thiết hơn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Khái quát những thành công và hạn chế
trong công tác thực hiện nâng cao hiệu quả kinh doanh ở công ty cổ phần
2
X20. Nhằm phân tích thực trạng và xu hướng của hàng dệt may của công ty,
đánh giá những thuận lợi và khó khăn mà công ty đang gặp phải. Trên cơ sở
lý luận và thực tiễn đề tài đề xuất một số chính sách giải pháp, kiến nghị cho
công ty trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Để đạt được những mục tiêu trên,
luận văn sẽ tập trung nghiên cứu lý luận và thực tế về hoạt động gia công xuất
khẩu hàng may mặc ở công ty 20. Và những biến động ảnh hưởng đến thị
trường dệt may của công ty những năm qua, kết hợp với phân tích năng lực
sản xuất và gia công xuất khẩu của một số sản phẩm dệt may của công ty.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được triển khai nghiên cứu theo nghiên cứu
tại văn phòng công ty và khảo sát thực tế ở các xí nghiệp chủ lực của công ty.
Việc nghiên cứu tại văn phòng , qua các tài liệu , sách báo tạp chí, các trang
web hỗ trợ. Thời gian nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2010
Dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, PGS.TS. Nguyễn Văn Tuấn kết hợp
với những kiến thức, kinh nghiệm đúc kết được trong quá trình nghiên cứu,
em chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu hàng dệt may tại
công ty cổ phần X20” cho luận văn của mình.
4. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Một số lý luận chung về hiệu quả kinh tế và nâng cao hiệu
quả kinh tế trong hoạt động gia công xuất khẩu hàng dệt may
Chương 2: Thực trạng hiệu quả gia công xuất khẩu hàng dệt may tại
công ty cổ phần X20 trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động gia công
xuất khẩu tại Công ty cổ phần X20
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một vấn đề nghiên cứu thu hút sự quan tâm của rất
nhiều quốc gia cũng như của các nhà kinh tế học trên thế giới. Với mỗi giai
đoạn lịch sử phát triển cũng như của các nhà kinh tế học trên thế giới. Với
mỗi giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau của xã hội cùng những đặc thù
riêng của từng quốc gia, đã hình thành nên nhiều quan điểm khác nhau về
hiệu quả. Chúng ta có thể tổng hợp và phân thành một số quan điểm cơ bản
sau:
Quan điểm thứ nhất, coi hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động
kinh tế hoặc tốc độ tăng của các chỉ tiêu kết quả đó. Quan điểm này tồn tại
trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tiêu biểu là quan điểm của Viện
nghiên cứu khoa học thuộc Uỷ ban kế hoạch Nhà nước Liên Xô (cũ), đã xem
hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng của thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã
hội. Với quan điểm này, nếu đạt được kết quả như nhau thì hiệu quả như nhau
ở bất kỳ mức chi phí nào. Quan điểm này cũng không lý giải được trường hợp
tốc độ tăng của các chỉ tiêu kết cao,nhưng tốc độ tăng của kết quả thì hiệu quả
sẽ như thế nào.
Quan điểm thứ hai, cho rằng hiệu quả là mức độ thoả mãn yêu cầu của
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính
cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp
là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này có ưu điểm bám sát
mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không khgừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn ở đây là phương tiện
4
đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nói chung và mức sống
của nhân dân nói riêng rất phong phú đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ và để phản
ánh trong các chỉ tiêu mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời
sống là điều kiện khó khăn. Quỹ tiêu dùng là một bộ phận của thu nhập quốc
dân, bộ phân thu nhập quốc dân còn lại là quỹ tích luỹ. Chọn quỹ tiêu dùng để
phản ánh hiệu quả làm chưa thấy đầy đủ vai trò của quỹ tích luỹ là nhằm phát
triển sản xuất, để có quỹ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Không thể đưa
quỹ tiêu dùng lên tối đa mà lại không tân theo một tỷ lệ thích hợp giữa tích
luỹ và tiêu dùng, phải kết hợp một cách tốt nhất lợi ích trước mắt và lợi ích
lâu dài.
Quan điểm thứ ba, theo P.Samuelson và W.Nordhuas cho rằng: Hiệu
quả nghĩa là không lãng phí. Nền kinh tế gọi là có hiệu quả nằm trên đường
giới hạn khả năng sản xuất. Giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bằng
chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng, tức là tổng sản phẩm quốc dân
cao nhất có thể đạt được trong một tình hình dân số, công nghệ nhất định.
Đây chính là mức sản lượng toàn dụng nhân công, là mức sản lượng mà ở đó
nền kinh tế có thể sản xuất khi huy động một lực lượng lao động tối đa nào
đó, toàn dụng ở đây không có nghĩa là tận dụng toàn bộ lao động vào sản xuất
mà còn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Chỉ tiêu hiệu quả là tỷ lệ giữa tổng sản
phẩm quốc dân thực tế và tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng, chệnh lệch giữa
sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế là phần sản lượng tiềm năng mà xã
hội lãng phí. Ở nước ta hiện nay chưa cho phép vận dụng quan điểm này bởi
việc tính tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là vấn đề khó khăn.
Quan điểm thư tư, cho rằng hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh,
biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức
tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một
thời kỳ, góp phần tăng thêm lợi ích xã hội của nền kinh tế quốc dân. Quan
5
điểm này đã phân biệt rõ giữa kết quả và hiệu quả, gắn kết quả với chi phí,
xem hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Tuy nhiên, tại một
phạm vi không gian, thời gian cụ thể mỗi đối tượng chỉ có một kết quả và chi
phí tương ứng thì không thể xác định mức tiết kiệm.
Để có quan niệm đúng về hiệu quả kinh doanh trước hết chúng ta cần
phân biệt rõ hai phạm trù kết quả và hiệu quả. Hai phạm trù này có mối quan
hệ mật thiết, làm tiền để cho nhau và giữa chúng có sự khác biệt rõ ràng. Kết
quả là một phạm trù chỉ phản ánh đơn thuần về mặt lượng của thành tựu đạt
được qua sự nỗ lực của chủ thể kinh doanh với một nguồn lực nhất định. Tuy
nhiên trong thực tiễn, xã hội không chỉ quan tâm đến kết quả mà vấn đề quan
trọng hơn cả là kết quả đó đựo tạo ra ở mức độ nào, với chi phí nào và lượng
thời gian như thế nào. Điều này phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết
quả phản ánh mặt chất của nền sản xuất xã hội , nó thể hiện trình độ của nền
kinh tế. Đối với một doanh nghiệp, kết quả là tiền đề để xác định hiệu quả và
bộ phận chính cấu thành hiệu quả của doanh nghiệp chính là kết quả. Doanh
nghiệp được coi là là kinh doanh có hiệu quả thì trước hết doanh nghiệp đó
phải đạt được một kết quả trong kinh doanh, tức là một kết quả lớn nhất với
những khả năng về nhân tài, vật lực mà doanh nghiệp hiện có. Phạm trù hiệu
quả mang một ý nghĩa xã hội lớn cho nên nó được quan tâm nhiêu hơn so với
kết quả đơn thuần. Hơn nữa khi nói đến tính hiệu quả thì đã ngầm chứa một
kết quả tốt trong đó.
Như vậy, qua những phân tích trên có thể hiểu khái niệm hiệu quả xét
từ phía các doanh nghiệp như sau: Hiệu quả là một phạm trù kinh doanh biểu
hiện sự tập trung của phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai
thác và sử dụng các nguồn lực trong quá trình kinh doanh nhằm thực hiện
mục tiêu kinh doanh trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp . Bản chất của
hiệu quả là tiết kiệm thời gian lao động xã hội, tiết kiệm hao phí lao động
6
sống và lao động quá khứ nhưng đạt mức cao nhất về kết quả hữu ích mà xã
hội thừa nhận.
Tóm lại, hiệu quả kinh tế là một phạm trù khách quan, phản ánh trình
độ và năng lực quản lý, đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ
kinh tế xã hội đặt ra trong từng thời kỳ với chi phí nhỏ nhất. Hiệu quả kinh tế
cũng là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp. Hiệu
quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu
và tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định
1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh
Từ khái niệm về hiệu quả trên, có thể hình thành công thức biểu diễn
khái quát phạm trù hiệu quả như sau: H = K/C (1)
Với H là hiệu quả kinh tế, K là kết quả thu được từ kinh tế và C là chi
phí toàn bộ để dặt được kết quả đó. Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn
gọn, hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của
hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khằng định bản chất của hiệu quả
kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao
động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục
tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp –
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm
hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiểu kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt
7
được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt cũng là
mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp có thể là những đại lượng cân đong đo đếm được như
số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại , doanh thu, lợi nhuận, thị phần,.. và cũng có thể
là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính
như uy tín của doanh nghiệp, là chất lượng, sản phẩm,.. Như thế, kết quả bao
giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó, công thức (1) lại cho
thấy trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta sư dụng cả hai
chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh
cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện
vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả
kinh tế sẽ vấp phải khó khăn là giữa đầu vào và đầu ra không có cùng một
đơn vị đo lường còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng
khác nhau về cùng một đơn vị đo lường – tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là : hiệu
quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của sản xuât kinh doanh nói riêng là
mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trong thực tế, nhiều lúc người ta
sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp
khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới
mục tiêu cần đạt là kết quả.
1.3. Phân loại hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp
Phạm trù hiệu quả có thể biểu hiện ở những dạng khác nhau, mỗi dạng
thể hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả. Việc phân loại hiệu
quả theo các tiêu thức khác nhau là cơ sở để xác định mức hiệu quả, xác định
các chỉ tiêu hiệu quả và những biện pháp nâng cao hiệu quả. Sau đây là một
số phương pháp cơ bản để phân loại hiệu quả.
8
1.3.1. Hiệu quả nền sản xuất xã hội
Hiệu quả nền sản xuất xã hội được xem xét ở hai khía cạnh là: hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh kết quả việc thực hiện các mục
tiêu về mặt xã hội, như cải tiến đời sống ngừoi lao động, giải quyết việc làm,
cải thiện môi trường,… Hiệu quả xã hội của nền sản xuất do quan hệ sản xuất
và mục đích của nền sản xuất quy định.
Nói tới hiệu quả kinh tế là nói đến mối tương quan giữa kết quả đạt
được về mặt kinh tế với các chi phí hoặc nguồn lực tham gia vào quá trình sản
xuất.
Giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết, bổ
sung cho nhau. Dễ thấy trong kết quả và chi phí để xác định hiệu quả kinh tế
luôn luôn có các yếu tố nhằm đạt được các kết quả, mục tiêu về mặt xã hội.
Đồng thời hiệu quả xã hội không đơn thuần đứng độc lập riêng rẽ, nó tồn tại
và phụ thuộc vào kết quả và chi phí phát sinh trong hoạt động kinh tế.
Khi bàn về hiệu quả không xét tới hiệu qủa xã hội, đồng thời cũng
không được đánh đồng hiệu qủa xã hội với hiệu quả kinh tế. Chỉ khi nào đảm
bảo hiệu quả kinh tế thì mới có thể tạo ra hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế
quyết định những vấn đề xã hội, là tiền đề vật chất của hiệu quả xã hội.
Ngược lại, khi những vấn đề xã hội được giải quyết lại ảnh hưởng tích cực
đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế.
Cần phải chú ý rằng vấn đề kết hợp giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả
xã hội không chỉ xét ở toàn bộ nền kinh tế quốc dân mà còn ở các ngành, các
cấp, các đơn vị kinh tế cơ sở và nội dung quan trọng là kết hợp hiệu quả kinh
tế và hiệu quả xã hội trong các doanh nghiệp.
9
1.3.2. Hiệu quả tổng hợp và hiệu quả bộ phận
Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp nhiều mặt, nhiều
nhân tố liên quan về lượng và chất. Hiệu quả tổng hợp là phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ sử dụng tổng hợp các loại chi phí, nguồn lực được huy
động nhằm đáp ứng các mục tiêu kinh tế - xã hội. Hiệu qủa tổng hợp phản
ánh mặt chung nhất của tiêu chuẩn hiệu quả.
Hiệu quả bộ phận là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các loại chi
phí, nguồn lực riêng biệt như hiệu quả sử dụng các loại chi phí, các nguồn lực
tài chính, lao động,…
Giữa hiệu quả tổng hợp và hiệu quả bộ phận có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Hiệu quả tổng hợp chỉ có thể đạt được khi các nhân tố chi phí,
nguồn lực riêng biệt sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, trong thực tế có trường
hợp một yếu tố nào đó sử dụng còn lãng phí nhưng những yếu tố khác vẫn
đảm bảo hiệu quả cao, người ta vẫn thu được hiệu quả tổng hợp. Hiệu quả bộ
phận là cấu thành hiệu quả tổng hợp và ảnh hưởng đến hiệu quả tổng hợp.
Khi phân tích hiệu quả không chỉ phân tích hiệu quả tổng hợp mà cần phân
tích hiệu quả bộ phận. Điều này giúp phát hiện và khai thác tiềm năng để tăng
hiệu quả tổng hợp chung. Tuy nhiên, việc phân tích như thế nào còn phụ
thuộc vào mục đích của nhà nghiên cứu.
1.3.3. Hiệu quả của nền kinh tế quốc dân và hiệu quả cá biệt
Cách phân loại này dựa trên phạm vi tính toàn hiệu quả trong nền kinh
tế quốc dân. Hiệu quả của nền kinh tế quốc dân này còn được gọi là hiệu quả
kinh tế xã hội là hiệu quả quả tổng hợp được xem xét trong phạm vi toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn
bộ xã hội mà người đại diện là Nhà nước, vì vậy, những lợi ích và chi phí
được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội được xuất phát từ quan điểm toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là
10
hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế, về cơ bản đó là
lượng sản phẩm thặng dư, thu nhập quốc dân hoặc toàn bộ tổng sản phẩm xã
hội và tài nguyên đã hao phí.
Hiệu quả cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh
nghiệp như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
công ty TNHH,… Giữa hiệu quả cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân có mối
quan hệ nhân quả và tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu qủa kinh tế quốc dân chỉ
đạt được trên nền tảng các đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động có hiệu quả. Chính
các đơn vị kinh tế cơ sở là nơi trực tiếp kết hợp giữa lao động với tư liệu lao
động để tạo nên sản phẩm. Ngược lại, khi hiệu qủa kinh tế quốc dân đạt được,
Nhà nước với tư cách là người đại diện cho nền kinh tế sẽ có những chính
sách hỗ trợ để các đơn vị kinh tế cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh. Và như vậy hiệu quả của nền kinh tế quốc dân lại có điều kiện nâng
lên cao hơn.
1.3.4. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Việc xác định hiệu quả nhằm mục đích đánh giá trình độ sử dụng các
dạng chi phí và nguồn lực huy động từ đó làm cơ sở lựa chọn một phương án
tối ưu nhất khi thực hiện một nhiệm vụ hay kế hoạch kinh doanh nào đó.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ
thể bằng cách xác định mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra
khi thực hiện phương án đó. Về phương pháp tính toán, hiệu quả này được
tính theo các chỉ tiêu như năng suất lao động, thời hạn hoàn vốn, tỷ suất vốn,
…băn
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan giữa các đại lượng thể hiện chi phí hoặc
kết quả của các phương án với nhau. Các chỉ tiêu hiệu quả so sánh được sử
11
dụng để đánh giá mức độ hiệu quả của các phương án, để chọn phương án có
lợi nhất về kinh tế.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, song giữa chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết, xác định hiệu
quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là trên cơ sở những
chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án, người ta so sánh mức hiệu quả ấy của
các phương án với nhau. Mức chênh lệch chính là hiệu quả so sánh.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Toàn bộ những nhân tố tác động đến đầu vào, đầu ra đều là những tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các nhân tố này rất đa dạng và việc nghiên cứu nó còn phụ thuộc vào đặc thù
kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tuy vậy, về cơ bản có thể chia các nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thành hai nhóm cơ
bản là : Nhóm nhân tố bên ngoài bao gồm môi trường kinh tế, tinh fhình thị
trường, có chế chính sách của Nhà nước; Nhóm nhân tố bên trong bao gồm
nguồn lao động, vốn, công nghệ, tình hình khả năng quản lý tổ chức sản xuất.
Nghiên cứu những nhân tố náy là cơ sở để đề ra những biện pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.4.1.1. Lao động:
Lao động là một trong những nhân tố đầu tiên quan trọng nhất tác động
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng của lao động được thể
hiện qua trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội
ngũ lao động. Với những ngành kinh doanh có đặc thù sản phẩm của nó là kết
tinh nhiều yếu tố lao động như ngành dệt may. Vì vật , khi xét đến hiệu quả
kinh doanh chúng ta không thể không nhắc tới yếu tố lao động. Trong các
doanh nghiệp, hiệu quả là một trạng thái tổng hợp của cách thức hoạt động
12
của con người và doanh nghiệp. Có thể coi sự phát triển của hiệu quả là một
quá trình để phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng, phát triển và nâng cao trình
độ kỹ năng của nguồn nhân lực sẽ tạo điều kiện sản xuất có hiệu quả, với chất
lượng cao hơn.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh trước tiên cần quan tâm tới yếu tố con
người. Làm sao để có được một đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có
nỗ lực, có nhiệt tình trong công việc. Muốn vậy, cần nhận thức đúng vai trò
quan trọng của yếu tố con người, phải thường xuyên tạo điều kiến cho người
lao động nâng cao trình độ , đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh
thân sáng tạo và tính tích cực trong công việc bằng các hình thức khuyến
khích vật chất và tinh thần nhằm làm cho con người lao động thoả man, gắn
bó hơn với doanh nghiệp. Đây cũng là vấn đề ngày càng được các doanh
nghiệp ở nước ta quan tâm hơn và nó báo hiệu một hướng đi đúng của các
doanh nghiệp.
1.4.1.2. Vốn và công nghệ của doanh nghiệp
Vốn theo nghĩa chung nhất được biểu hiện vả bằng công nghệ, thiết bị
máy móc, nguyên liệu. Việc đảm bảo vốn đầy đủ, kịp thời và sử dụng có hiệu
quả vốn sẽ là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Trong việc huy động và sử dụng vốn, doanh nghiệp cần phải có kế
hoạch sử dụng hiệu quả và phải có những biện pháp phòng chống những rủi
ro có thể có, phải xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ thích ứng với quy mô
doanh nghiệp, trành không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là loại vốn
vay ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn ngắn hạn vượt mức quá mức an
toàn cho phép có thể làm mất khả năng tự chủ về tài chính gây nên nhiều rủi
ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp. Khi đi vào các dựa án đầu tư mở rộng
hayu đầu tư theo chiều sâu cần phải có nguồn vốn ổn định không chạy theo
13
quá nhiều dự án vì sẽ dễ dẫn đến tình trạng phát triển quá mức, gây mất cân
đối tài chính. Sự phân tán về tài chính đôi khi làm giảm thế mạnh cũng như
tính cạnh tranh ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Công nghệ hiện đại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao trình độ
lao động, trình độ quản lý và tính hiệu quả của các doanh nghiệp. Công nghệ
cao hơn khuyến khích lực lượng lao động và quản lý tạo ra nhiều giá trị gia
tăng hơn với chi phí thấp hơn. Và khả năng thích ứng với nhu cầu liên quan
đến việc khai thác công suất, năng lực sản xuất tốt hơn nếu đáp ứng đúng nhu
cầu thị trường.
1.4.1.3. Công tác tổ chức quản lý
Để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất cần tạo ra môi trường tốt
nhất cho sự phối hợp giữa quản lý, lao động và yếu tố công nghệ. Xây dựng
tốt mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động, hình thành tinh thần
quản lý mới trong đó luôn tôn trọng và khuyến khích tính tự chủ sáng tạo của
lực lượng lao động tạo ra sức mạnh tổng hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố
sản xuất, đặc biệt là yếu tố con người. Bảo đảm chế độ tuyển dụng đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực theo chiến lược dài hạn vì mục tiêu chung của
doanh nghiệp, xã hội và của người lao động.
Trình độ và khả năng tổ chức sản xuất của mỗi doanh nghiệp có tác
động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh thông qua việc xác định phương
hướng phát triển, phương án đầu tư, phương án lựa chọn công nghệ, cách
thức tổ chức, bố trí dây chuyền công nghệ và cơ cấu tổ chức sản xuất. Tăng
cường chuyên môn hoá kết hợp đa dạng hoá cùng với những phương án quy
mô hợp lý cho phép khai thác tối đa lợi thế quy mô giảm chi phí, nâng cao
hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc tổ chức, phối hợp với các hoạt
động kinh tế thông qua các hình thức tổ chức liên doanh, liên kết nhằm phát
14
huy sức mạnh chung, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ trên thị trường là
một trong các biện pháp tăng hiệu qua kinh doanh.
Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các luồng thông tin đến
với công ty với tốc độ nhanh và đa dạng. Yêu cầu các phản ứng, các quyết
định từ phía công ty cũng phải nhanh chóng và chính xác. Để làm được điều
này doanh nghiệp cần có đội ngũ lãnh đạo giỏi, vì vậy trong mọi giai đoạn
phát triển việc tìm kiếm và đào tạo cán bộ lãnh đạo cho doanh nghiệp là cần
thiết. Trình độ thành thạo nghiệp vụ, trình độ hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh
cùng với những phẩm chất riêng có của người lãnh đạo là bí quyết thành công
của mọi doanh nghiệp.
1.4.2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Các nhân tố bên ngoài tác động đến hiệu qả kinh doanh của doanh
nghiệp rất đa dạng. Các nhân tố này thường mang tính khách quan và nằm
ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Yếu tố bên ngoài tác động đến doanh
nghiệp theo chiều hướng khác nhau và luôn thay đổi, nó có thể là yếu tố tích
cực cũng có thể magn ảnh hưởng tiêu cực. Phản ứng với các nhân tố bên
ngoài doanh nghiệp cần tạo cho mình một vị thế vững chắc và thích nghi với
những biến động nằm ngoài tầm kiểm soát. Các nhân tố bên ngoài thuộc về
môi trường kinh doanh có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp:
- Tình hình thị trường như cung cầu trên thị trường, mức độ cạnh tranh
giá cả, chất lượng hàng hoá kinh doanh, số lượng các nhà cung cấp, quy mô
của khách hàng. Các tổ chức cạnh tranh và bạn hàng là những yếu tố tác động
trực tiếp và mạnh mẽ tới doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh, một mặt là đối
thủ của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp bị giảm bớt doanh sô, phải tăng
thêm chi phí, hạ giá bán. Nhưng mặt khác, cũng chính các tổ chức cạnh tranh
lại là các đồng nghiệp của doanh nghiệp, cùng với doanh nghiệp tạo ra sức
15
hấp dẫn lôi cuốn khách hàng. Tất cả những nhân tố này đều trực tiếp ảnh
hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cơ chế, chính sách kinh tế của Nhà nước. Hiệu lực và hiệu quả quản
lý của Nhà nước là môi trường thực tế thúc đẩy nâng cao hiệu qủa kinh doanh
của doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý và các chính sách kinh tế tác động rất
lớn đến việc giúp các doanh nghiệp đảm bảo sư cân bằng thống nhất giữa các
mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Trong các chính sách kinh tế vĩ mô thì
chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách tiền tệ có tác động lớn đến hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Phối hợp đồng bộ các chính sách này
tạo ra môi trường vĩ mô thuận lợi cho các doanh nghiệp khai thác và huy
động các nguồn vốn, công nghệ và lao động, mở rộng sản xuất kinh doanh,
mở rộng thị trường đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dung.
- Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ, các phát minh khoa học,
các sản phẩm mới ra đời,… Những nhân tố này có thể làm thay đổi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đôi khi có thể làm chuyển hướng hoàn
toàn các định hướng kinh doanh hay loại bỏ hoàn toàn ngành nghề kinh doanh
của doanh nghiệp trên thị trường. Ngược lại, các nhân tố này tạo điều kiện mở
ra cho doanh nghiệp cơ hôi để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí và
giá thành sản phẩm, phát triển các sản phẩm mới, đẩy nhanh tốc độ lưu
chuyển hàng hoá và do đó doanh nghiệp có cơ hội nâng cao hiệu quả kinh
doanh cho mình.
1.5. Lý luận chung về gia công và hiệu quả gia công xuất khẩu
1.5.1. Khái niệm gia công xuất khẩu
“Gia công hàng xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu. Trong
đó, người đặt gia công ở nước ngoài cung cấp: Máy móc, thiết bị, nguyên phụ
liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia
công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách.
16
Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia
công để nhận tiền công”1.
1.5.2.Đặc điểm hoạt động gia công xuất khẩu
1.5.2.1 Sản xuất gắn liền với thương mại
Hình thức gia công xuất khẩu ngày nay khá phổ biến trong buôn bán
ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này
giúp họ lợi dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận
gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết
công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị
hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng nền công nghiệp dân tộc.
1.5.2.2 Khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài còn hạn chế
Theo những phương thức gia công xuất khẩu, việc nắm nhu cầu của
khách hàng và tổ chức tiêu thụ hàng hoá thường do doanh nghiệp nước ngoài
thực hiện, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không nắm được nhu cầu thực
tế của thị trường. Đây là một bất lợi lớn của kinh doanh trong cơ chế thị
trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam có quá ít thông tin về thị trường và đối tác
nước ngoài có quan hệ gia công. Mạng lưới thương vụ của Việt Nam chưa
đáp ứng nhu cầu thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp. Trong khi đó,
do nguồn lực tài chính và khả năng cán bộ còn hạn chế, các doanh nghiệp
Việt Nam chưa đủ khả năng tham gia thường xuyên các hội chợ triển lãm
quốc tế, thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, thiết lập văn phòng đại
diện ở nước ngoài. Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn chưa biết cách khai thác
thông tin về thị trường trên mạng internet một cách hiệu quả.
1
Trang 199-Mục V- Tài liệu tham khảo số 9
17
1.5.2.3. Nội lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
trên thị trường tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp
Việt Nam vẫn được coi là nước có nguồn lao động thành thạo và giá rẻ
hơn so với nhiều nước trong khu vực. Song lợi thế này, nếu tính toán chi tiết
lại không lớn do năng suất lao động của công nhân Việt Nam chỉ bằng 2/3 so
với các nước khác. Do vậy, để đảm bảo tiến độ giao hàng đã cam kết, hầu hết
các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng ca giãn giờ. Điều này đã ảnh hưởng
nhiều đến việc tổ chức sản xuất để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. “Bộ Luật
Lao Động của Việt Nam qui định số giờ của mỗi người lao động trong các
doanh nghiệp làm thêm giờ: Tổng số thời giờ làm thêm trong một ngày vượt
quá 12 giờ. Tổng số thời giờ làm thêm trong một năm không vượt quá 200
giờ”2. “Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh có sản xuất hoặc gia
công hàng xuất khẩu, bao gồm sản phẩm: dệt, may, da, giày và chế biến thủy
sản nếu phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do yêu cầu cấp
thiết của sản xuất hoặc do tính chất thời vụ của sản xuất hoặc do yếu tố khách
quan không dự liệu trước thì được làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong
một năm”. Nhiều doanh nghiệp muốn làm thêm ngoài số giờ quy định này,
phải có sự thoả thuận của người lao động. Điều này đã làm cho nhiều doanh
nghiệp rất lúng túng khi phải thực hiện những đơn hàng gấp về thời gian.
Một thực tế đang tồn tại hiện nay trong ngành may là sự dịch chuyển lao
động giữa các doanh nghiệp cùng ngành và với các doanh nghiệp khác là do
điều kiện lao động và thu nhập của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã
phải liên tục tuyển lao động mới, khiến chất lượng lao động không đồng đều,
ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp đã không ký được hợp đồng
dài hạn với công nhân do công nhân không yên tâm sản xuất. Chính vì vậy,
2
Điều 69- Tài liệu tham khảo số 13
18
kỹ năng lao động của ngành may Việt Nam thường không cao, ảnh hưởng rất
nhiều đến khả năng nhận gia công.
Trong việc thực hiện gia công xuất khẩu, hình thức liên kết sản xuất theo
kiểu vệ tinh giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ đã xuất hiện,
song còn chưa phổ biến, các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng gia công một
cách biệt lập. Không những chưa thiết lập quan hệ hợp tác hỗ trợ nhau, các
doanh nghiệp trong nước còn phá giá gia công để giành hợp đồng gia công
của đối tác nước ngoài.
1.5.2.4. Môi trường, thể chế hoạt động gia công còn bất cập
Đó là sự cứng nhắc trong việc cho phép các doanh nghiệp Việt Nam tiếp
nhận mẫu hàng gửi theo đường hàng không mà đối tác nước ngoài đã điều
chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thị trường, điều này gây ra nhiều khó khăn hơn
cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện các đơn hàng của mình.
Độ ổn định trong các chính sách và các qui định cụ thể không cao, làm
cho doanh nghiệp khó ứng phó kịp thời với những thay đổi.
Việc thực thi chính sách và qui định chung của nhà nước có sự không
đồng nhất giữa các địa phương, có trường hợp chính sách của nhà nước trung
ương thông thoáng nhưng chính quyền địa phương lại điều chỉnh, gây khó
khăn cho doanh nghiệp, tạo nên sự không bình đẳng trong môi trường hoạt
động của các doanh nghiệp ở địa phương so với các doanh nghiệp ở các thành
phố lớn và trung tâm công nghiệp.
1.5.3. Phân loại gia công hàng hoá
1.5.3.1 Xét về quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành
dưới các hình thức sau đây:
a. Hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm:
Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia
công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia
19
công. Trong trường hợp này, trong thời gian chế tạo, quyền sở hữu về nguyên
liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.
b. Hình thức mua đứt bán đoạn:
Dựa trên hợp đồng mua bán dài hạn với nước ngoài. Bên đặt gia công bán
đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất chế tạo, sẽ
mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên vật liệu
chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.
c. Hình thức kết hợp:
Trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên vật liệu chính, còn
bên nhận gia công cung cấp những nguyên phụ liệu.
Quan hệ giữa người đặt gia công và người thực hiện gia công đặt trên cơ sở
hợp đồng gia công.
d. Hình thức gia công theo mẫu
Đây là hình thức gia công mà bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu,
chỉ định nơi cung cấp nguyên liệu, chỉ định màu sắc, qui cách theo mẫu mà
bên đặt gia công đã cung cấp, phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật như trong hợp
đồng đã qui định.
1.5.3.2 Xét về mặt giá cả gia công, người ta có thể chia việc gia công thành
hai hình thức
a. Hợp đồng thực chi thực thanh ( cost plus contract ) trong đó bên nhận gia
công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình
cộng với tiền thù lao gia công.
b. Hợp đồng khoán, trong đó người ta xác định một giá định mức (target price
) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi
phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa, hai bên vẫn thanh toán
với nhau theo gia định mức đó.
20
1.5.3.3 Xét về số bên tham gia quan hệ gia công, ta có hai loại quan hệ gia
công sau đây:
a. Gia công hai bên , trong đó chỉ có bên đặt gia công và bên nhận gia công
b. Gia công nhiều bên, còn gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên nhận là
một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia
công của đơn vị sau, còn bên đặt gia công vẫn chỉ là một.
1.5.4. Khái quát chung về hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu
1.5.4.1 Khái niệm hiệu quả gia công xuất khẩu:
Doanh nghiệp dệt may là một hệ thống, hệ thống đó bao gồm các yếu
tố của quá trình sản xuất như lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,…
bao gồm mối quan hệ giữa các bộ phận, phòng ban, phân xưởng, quan hệ giữa
con người với con người trong quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp
dệt may là một hệ thống mở có quan hệ trao đổi vật chất với môi trường xung
quanh như quan hệ với các nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, cơ
quan quản lý cấp trên, cơ quan hành chính, luật pháp,…Cũng như bất kỳ hệ
thống mở nào, doanh nghiệp dệt may cũng có đầu ra và đầu vào của nó. Đầu
vào như lao động, nguyên vật liệu, tài sản cố định, nguồn vốn sản xuất,…
Đầu ra bao gồm giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, lợi nhuận,… Ngoài chỉ tiêu
phản ánh đầu vào, đầu ra còn có chỉ tiêu phản ánh đặc trưng kinh tế, kỹ thuật
được tính bằng cách so sánh giữa chỉ tiêu phản ánh đầu ra và đầu vào của
doanh nghiệp. Chính chỉ tiêu phản ánh đặc trưng kinh tế kỹ thuật là hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp dệt may.
Hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu về nguyên tắc cũng được đánh
giá như hiệu quả sử dụng tài sản nói chung vì doanh nghiệp sử dụng tài sản
để chi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do tính chất riêng
biệt của hoạt động này nên nó cũng mang tính đặc thù nhất định, chịu nhiều
ảnh hưởng trực tiếp từ: sự biến động của tỉ giá hối đoái sẽ làm cho doanh
- Xem thêm -