Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao công tác quản trị rủi ro cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triể...

Tài liệu Nâng cao công tác quản trị rủi ro cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh tỉnh phú thọ

.PDF
76
234
148

Mô tả:

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro cho vay 1.1.1.1.Khái niệm rủi ro cho vay: Ngân hàng thương mại (NHTM) là trung gian tài chính đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Theo Luật Các tổ chức tín dụng, Luật số 47/2010/QH12 do nhà nước ban hành: “NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” Tại Việt Nam, hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các NHTM là huy động vốn của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để thực hiện các nghiệp vụ cấp tín dụng như: Cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng... Trong đó, xét về bản chất và quan hệ kinh tế, cho vay là hình thức cấp tín dụng cơ bản và chủ yếu tại các NHTM Việt Nam. Cũng theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, cho vay được hiểu như sau: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Hoạt động cho vay mang lại nguồn thu nhập chính cho các ngân hàng, tuy nhiên đây cũng là hoạt động có mức độ rủi ro cao nhất. Có rất nhiều quan niệm và cách hiểu về rủi ro như: “Rủi ro: điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến” (Từ điển Tiếng Việt, 1995) hay rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, rủi ro có thể xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người. Rủi ro có thể mang lại tổn thất, mất mát, nguy hiểm nhưng cũng có thể mang lại cơ hội… Nhưng nói chung, mọi quan niệm và cách hiểu đều dẫn tới một ý thống nhất: Rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn, sự hiểu biết và dự tính của chủ thể, gây ra (hoặc liên quan đến) một hay nhiều biến cố không mong đợi. Từ khái niệm về hoạt động cho vay và rủi ro, khái niệm rủi ro cho vay (RRCV) cũng được đưa ra với nhiều cách hiểu. Theo định nghĩa của ủy ban Basel, RRCV là “khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thỏa thuận”. Mặt khác, tại Khoản 1, Điều 2 trong quyết định 493/QĐ-NHNN, của Thống đốc ngân hàng Nhà nước, có đề cập: “Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng và tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức cho vay do khách hàng không thực hiện hoặc 1 không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”… Mặc dù có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về RRCV, song các quan niệm này đều hội tụ với nhau về bản chất: RRCV là khả năng (xác suất) xảy ra những tổn thất mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (nợ gốc, nợ lãi). 1.1.1.2. Phân loại rủi ro cho vay: Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, RRCV được phân chia thành các loại sau đây: Sơ đồ 1.1. Các loại rủi ro cho vay RỦI RO CHO VAY Rủi ro danh mục Rủi ro giao dịch Rủi ro lựa chọn Rủi ro bảo đảm Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung (Nguồn: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2011), “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”, NXB Thống Kê). RRCV được phân chia theo hai loại rủi ro chính là: Rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục. Trong đó:  Rủi ro giao dịch: Đây được hiểu là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch được chia thành ba trường hợp rủi ro: rủi ro lựa chọn; rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.  Rủi ro lựa chọn: Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng để quyết định tài trợ tín dụng của ngân hàng. Trong cho vay, ngân hàng cân nhắc để đưa ra quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng.  Rủi ro bảo đảm: Đây là rủi ro liên quan đến các tiêu chuẩn đảm bảo mức độ an toàn của khoản vay như: các điều khoản ghi trong hợp đồng vay, tài sản đảm 2 Thang Long University Library bảo,chủ thể đảm bảo, cách thức làm đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.  Rủi ro nghiệp vụ: Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng và kỹ thuật xử lý các khoản vay của các cán bộ tín dụng (CBTD) có vấn đề.  Rủi ro danh mục: Đây là loại rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là từ những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng. Cụ thể, rủi ro danh mục được chia thành rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Trong đó:  Rủi ro nội tại: Rủi ro này được hiểu là rủi ro xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng có, mang tính chuyên biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động, đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.  Rủi ro tập trung: Rủi ro tập trung xảy ra trong trường hợp ngân hàng tập trung vốn, cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng; doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế. Ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều trong cùng một vùng địa lý nhất định, cùng một loại hình cho vay có độ rủi ro cao. Việc xác định nguyên nhân dẫn đến rủi ro để phân loại rủi ro chính xác là cơ sở để các NHTM đưa ra biện pháp phòng ngừa và xử lý, khắc phục rủi ro một cách hợp lý, kịp thời. 1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho vay Cho vay thường là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong kinh doanh tài chính tiền tệ. RRCV xảy ra dưới nhiều hình thức, với mức độ khác nhau. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến RRCV bao gồm nguyên nhân khách quan bên ngoài ngân hàng và những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng. 1.1.2.1. Nguyên nhân khách quan: Có rất nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến RRCV đối với một NHTM, bao gồm: Nguyên nhân từ phía khách hàng và nguyên nhân khác từ môi trường bên ngoài ngân hàng.  Nguyên nhân từ phía khách hàng: Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro đến từ khách hàng vay vốn chiếm phần lớn. Ngân hàng có thể xác định những nguy cơ rủi ro này trong quá trình tìm hiểu thông tin về người đi vay; nắm bắt rõ tình hình tài chính của khách hàng cả trước, trong và sau khi cho vay; tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay cũng như hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Với đối tượng vay vốn là khách hàng cá nhân 3 hoặc khách hàng doanh nghiệp, nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng có thể khác nhau do đặc tính, mục đích sử dụng của từng khoản vay và nguồn trả nợ khác nhau.  Khách hàng là cá nhân, hộ gia đình: Nguồn trả nợ của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình thường đến từ khoản thu nhập đều đặn và ổn định hoặc từ hoạt động sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ. Bởi vậy, bất kỳ biến cố nào gây ra sự mất ổn định về thu nhập, cuộc sống sinh hoạt hay các biến cố tự nhiên, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ đều có thể dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán khoản nợ ngân hàng. Một số nguyên nhân cơ bản thường gặp phải ở nhóm khách hàng là cá nhân như: Người đi vay bị thất nghiệp hay bị cắt giảm thu nhập dẫn đến không đảm bảo được nguồn trả nợ như dự kiến ban đầu; Người đi vay gặp phải những sự cố bất thường trong cuộc sống như mất khả năng lao động, tai nạn, qua đời…; Người đi vay hoạch định ngân quỹ không chính xác, không cân đối giữa thu nhập và chi tiêu trong cuộc sống, tính toán sai lệch các khoản chi tiêu so với thực tế, dẫn tới không đảm bảo được khoản thu nhập dùng dể trả nợ cho ngân hàng. Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro ở nhóm khách hàng là hộ gia đình như: Với các hộ vay vốn để chăn nuôi, trồng trọt, các biến cố tự nhiên (thiên tai, hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh…) gây mất mùa hoặc sự lây lan bệnh dịch ở động vật có thể khiến họ mất nguồn thu nhập để trả nợ cho ngân hàng; Với các hộ sản xuất, kinh doanh vừa và nhỏ, những rủi ro về giá cả bất ổn định, sự khan hiếm hàng hóa, không tìn được thị trường tiêu thụ… có thể tác động lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của họ và gây ra rủi ro cho các khoản vay của ngân hàng.  Khách hàng là doanh nghiệp: Đối tượng đi vay là doanh nghiệp luôn gắn liền với các khoản cho vay kinh doanh. Nguồn trả nợ của nhóm khách hàng này là lợi nhuận trước thuế, bởi vậy vấn đề họ thường gặp phải đa phần là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, bên cạnh đó còn có những rủi ro phi tài chính khác ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Nguyên nhân từ rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh được thể hiện qua mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của kết quả sản xuất kinh doanh. Rủi ro kinh doanh thường xuất phát từ việc xây dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư không khoa học; dự toán chi phí và xác định mức sản lượng sản xuất không phù hợp; doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích… dẫn đến làm ăn thua lỗ, hàng hóa tồn đọng, không tiêu thụ được. Công việc kinh doanh của một doanh nghiệp luôn nằm trong mối liên hệ kinh tế chặt chẽ với các bên liên quan. Bởi vậy, trong một số trường hợp, mặc dù bản thân doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh được tính toán chi tiết, khoa học và chính xác tối đa nhưng vẫn gặp phải rủi ro trong kinh doanh. 4 Thang Long University Library Nguyên nhân lúc này có thể xuất phát từ các bên liên quan như nhà cung cấp hay người tiêu thụ. Nguyên nhân từ rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính xuất hiện khi doanh nghiệp không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chủ nợ. Nói cách khác, mức độ sử dụng nợ và cơ cấu tài chính sẽ ảnh hưởng đến khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp sử dụng phần lớn vốn vay để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng áp lực trả nợ, theo đó, nguy cơ rủi ro tài chính cũng tăng cao. Đặc biệt, khi lợi nhuận thu được từ kết quả kinh doanh không đủ để hoàn lại các khoản chi cho lãi tiền vay, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới giải thể, phá sản. Nguyên nhân từ rủi ro phi tài chính: Rủi ro phi tài chính đa phần xuất phát từ các vấn đề về con người, cụ thể là các cá thể làm việc trong doanh nghiệp. Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi sự yếu kém, thiếu năng lực điều hành, tầm nhìn hạn chế của người lãnh đạo. Mặt khác, đạo đức kinh doanh của những người đứng đầu có thể khiến doanh nghiệp phát triển ổn định nhưng cũng có thể đẩy doanh nghiệp tới bờ vực phá sản bởi những mánh khóe lừa đảo hay vấn nạn tham ô, tham nhũng. Bên cạnh đó, sự mất đoàn kết nội bộ trong doanh nghiệp cũng có thể khiến hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ, kém phát triển.  Nguyên nhân khác từ môi trường bên ngoài ngân hàng:  Nguyên nhân bất khả kháng: RRCV của ngân hàng đôi khi xuất phát từ những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, động đất hay chiến tranh... Những thay đổi về thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng hoặc vấn đề kỹ thuật của một ngành công nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh. Sự thay đổi này có thể đặt một người đi vay từng kinh doanh có lãi vào thế làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, một cuộc đình công kéo dài hay sự thay đổi nhân sự cũng có tác động nhất định đến khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng.  Môi trường kinh tế: Mọi doanh nghiệp trên thị trường đều chịu ảnh hưởng bởi các biến động trong môi trường kinh tế. Nền kinh tế hưng thịnh hay suy thoái thường mang tính quyết định tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó tác động tới mức lợi nhuận cao hay thấp cũng như khả năng trả nợ của người đi vay. Những biến động tiêu cực như khủng hoảng, suy thoái kinh tế, lạm phát, mất căn bằng cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái biến động bất thường… sẽ gây tác động xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn cũng như gây ra mối lo ngại về RRCV với các ngân hàng. 5  Môi trường pháp lý: Ba yếu tố tạo thành môi trường pháp lý bao gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có liên quan. Ba yếu tố này có quan hệ đan xen, mang tính đồng bộ cao, đồng thời tác động tới hoạt động kinh doanh chứ không riêng rẽ, đơn lẻ. Bởi vậy, khi thiếu đi bất kỳ yếu tố nào trong ba yếu tố trên, các quy định luật pháp sẽ được nhìn dưới một nội dụng khác, hoạt động kinh doanh sẽ bị tác động theo một chiều hướng khác. Thậm chí, điều này có thể gây nên ách tắc hay thua lỗ không đáng có, hoặc tạo kẽ hở cho kẻ gian lợi dụng. Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng. Môi trường cho vay có thể giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro nhưng cũng có thể làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. 1.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan: Đối với hoạt động kinh doanh của một ngân hàng, RRCV có thể xuất phát từ nhiều phía, tuy nhiên, không thể phủ nhận những nguyên nhân nội tại bên trong chính ngân hàng đó. Thông thường, RRCV bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:  Chính sách cho vay không hợp lý: RRCV có thể xảy ra khi ngân hàng chỉ đưa ra những chính sách nhằm tăng lợi nhuận thu được, đặt nặng chỉ tiêu về số lượng hơn chất lượng, thay vì đưa ra những chính sách chú trọng vào vấn đề an toàn của các khoản vay. Ngoài ra, thể lệ cho vay của ngân hàng còn tồn tại những sơ hở, dẫn đến tình trạng khách hàng lợi dụng điểm yếu đó để chiếm đoạt vốn của ngân hàng.  Áp lực cạnh tranh: Dưới áp lực cạnh tranh gay gắt như hiện nay của các NHTM, nhiều ngân hàng dễ mắc phải sai lầm khi nới lỏng những quy chế, nguyên tắc đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của khoản vay để thu hút thêm khách hàng vay vốn. Lượng khách hàng có thể tăng lên đáng kể so với đối thủ cạnh tranh, tuy nhiên ngân hàng cũng tự chuốc lấy nguy cơ rủi ro không nhỏ.  Vấn đề về con người: Các vấn đề về con người bên trong một ngân hàng bao gồm: Trình độ chuyên môn, thái độ làm việc và đạo đức nghề nghiệp của lãnh đạo và đội ngũ nhân viên của ngân hàng. Trình độ chuyên môn thấp dẫn tới những sai xót, nhầm lẫn trong quá trình ra quyết định hay thực hiện nghiệp vụ. Thái độ làm việc hời hợt dễ dẫn tới bỏ sót, xem nhẹ những nguy cơ rủi ro tiềm tàng. Đạo đức nghề nghiệp yếu kém khiến cho người lãnh đạo hay các cán bộ ngân hàng dễ bị cám dỗ bởi lợi ích trước mắt mà làm trái các nguyên tắc, quy định khiến nguy cơ mang lại rủi ro cho ngân hàng tăng cao. 6 Thang Long University Library  Vấn đề về thông tin: Vấn đề thiếu cập nhật thông tin, phân tích và xử lý thông tin khách hàng không đầy đủ có thể dẫn tới việc đánh giá sai năng lực của khách hàng. Từ đó, ngân hàng có thể phạm phải những sai lầm như đưa ra quyết định cho vay không hợp lý, xác định sai giá trị khoản cho vay… Nhìn chung, trong môi trường hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, việc xác định một cách rõ ràng các nguyên nhân có thể dẫn tới RRCV chính là chìa khóa để các ngân hàng tìm ra giải pháp hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả cho vay trong tương lai. 1.1.3. Hậu quả từ rủi ro cho vay Hậu quả từ RRCV chính là tổn thất mà ngân hàng cho vay phải gánh chịu. Tùy thuộc vào mức độ tổn thất, hậu quả từ RRCV của một ngân hàng cụ thể có thể gây tác động xấu tới hệ thống tài chính – ngân hàng của quốc gia đó. 1.1.3.1. Hậu quả đối với ngân hàng gặp rủi ro  RRCV gây ra tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng:  RRCV làm phát sinh chi phí: Khi xảy ra RRCV, các ngân hàng ngay lập tức phải tìm cách khắc phục rủi ro. Bản thân việc CBTD phải thực hiện các biện pháp xử lý RRCV đã làm phát sinh chi phí cho ngân hàng (chi phí liên lạc, đi lại…). Nếu các khoản nợ liên quan đến nhiều bên, ngân hàng cho vay sẽ phải chịu hao tổn cả thời gian lẫn tiền bạc cho việc gặp gỡ, thương lượng giữa các bên, trong quá trình xử lý nợ.  RRCV làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Việc xử lý hậu quả từ các khoản cho vay khi xảy ra rủi ro có thể khiến cho ngân hàng bỏ lỡ các cơ hội đầu tư tốt, mang lại nhiều lợi nhuận. Điều này đồng nghĩa với việc thu nhập tiềm ẩn của ngân hàng bị giảm sút. Mặt khác, thu nhập tiền lãi dự tính từ các khoản cho vay gặp rủi ro có thể mất đi, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khoản lợi nhuận của ngân hàng.  RRCV làm giảm uy tín của ngân hàng: Các khoản cho vay của ngân hàng khi không thể thu hồi được không những gây ra thiệt hại về mặt tài chính mà còn khiến cho uy tín của ngân hàng đó trên thị trường giảm sút. Một ngân hàng liên tục gặp phải tổn thất từ hoạt động cho vay sẽ bị đánh giá là ngân hàng hoạt động kém hiệu quả khiến cho các khách hàng, đối tác mất lòng tin vào uy tín của ngân hàng. Điều này không chỉ khiến ngân hàng mất đi những cơ hội đầu tư, hợp tác mới mà thậm chí còn khiến ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ đánh mất khách hàng cũ. Do liên tục hoạt động kém hiệu quả, các khách hàng cũ lo ngại về khả năng hoàn trả của ngân hàng sẽ xin rút vốn. Ngân hàng mất đi nguồn cung ứng vốn sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản trầm trọng, thậm chí có thể dẫn tới 7 phá sản… Bởi vậy, rủi ro làm giảm uy tín của ngân hàng tuy là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường trước được giá trị.  RRCV làm giảm khả năng thanh khoản của ngân hàng Ngân hàng hoạt động được là nhờ sự luân chuyển vốn diễn ra trơn tru và tuần hoàn. Khi RRCV xảy ra, các khoản đầu tư, cho vay thất thoát hoặc chậm thu hồi khiến cho nguồn thu và nguồn vốn hoạt động của ngân hàng giảm sút. Trong khi đó, ngân hàng vẫn phải đáp ứng nhu cầu rút tiền, chuyển tiền… của khách hàng và trả lãi huy động vốn đều đặn cho các khoản tiền gửi, tiết kiệm. Điều này khiến cho ngân hàng lâm vào tình trạng khả năng thanh khoản yếu kém. 1.1.3.2. Hậu quả liên đới:  Đối với hệ thống ngân hàng: Mỗi ngân hàng hoạt động trên thị trường giống như một mắt xích có sự bắt nối với các ngân hàng khác. Bởi vậy khi mức độ thiệt hại sau rủi ro là quá lớn với một ngân hàng sẽ gây ảnh hưởng đến sự vận hành cỗ máy tài chính ngân hàng của quốc gia. Việc hỗ trợ ngân hàng gặp rủi ro giải quyết hậu quả cũng phần nào làm chậm lại hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khác. Thậm chí, RRCV với một ngân hàng cụ thể, nếu không được giải quyết kịp thời và triệt để có thể sẽ gây ra hiệu ứng domino (hiệu ứng dây truyền) làm sụp đổ hàng loạt các ngân hàng liên đới như đã từng xảy ra ở một số nước trên thế giới.  Đối với quan hệ kinh tế đối ngoại: RRCV kéo dài, không khắc phục được hậu quả dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế quốc gia bởi hoạt động ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời, hệ thống tài chính – ngân hàng yếu kém sẽ làm ảnh hưởng đến vị thế, hình ảnh của quốc gia đó với các nước trên thế giới. 1.1.3.3. Một số biện pháp xử lý hậu quả từ rủi ro cho vay: Khi xuất hiện các dấu hiệu nguy hiểm, phản ánh một khoản cho vay có vấn đề, biện pháp đầu tiên mà các nhân viên tín dụng phải thực hiện là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề bằng các quá trình thích hợp. Trước hết, phải thẩm tra lại và thu thập thêm thông tin về khách hàng đó. Sau đó, tùy thuộc vào sự nghiêm trọng của tình hình, ngân hàng có thể có những cách xử lý khác nhau. Nhìn chung, việc xử lý có thể được phân thành hai nhóm chính: Các biện pháp khai thác và các biện pháp thanh lý.  Biện pháp khai thác: 8 Thang Long University Library Đối với những trường hợp hậu quả từ RRCV không quá nghiêm trọng, ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp thuộc loại này nhằm điều chỉnh tình huống và bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Có thể kết hợp một hoặc một số biện pháp sau đây để giúp người vay thoát khỏi tình trạng xấu và khôi phục sức mạnh của họ:  Tư vấn cho khách hàng nhằm khôi phục tình hình tài chính: Các cán bộ ngân hàng có thể đưa ra lời khuyên về nhiều chủ đề như việc bán hàng, thu đòi các khoản nợ, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất… tùy thuộc vào trường hợp và tình huống cụ thể mà khách hàng đang gặp phải. Trong những trường hợp cần thiết, ngân hàng có thể mời các chuyên gia tư vấn tài chính để cho họ lời khuyên. Tăng thêm vốn: Ngân hàng có thể đề nghị chủ doanh nghiệp tăng thêm vốn tự có hoặc khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các biện pháp tăng vốn hợp pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp (giảm hệ số nợ). Giảm bớt kế hoạch mở rộng: Nếu những căng thẳng về mặt tài chính của khách hàng là do việc mở rộng quá mức hoạt động sản xuất kinh doanh so với quy mô vốn tự có của mình, ngân hàng có thể đưa ra lời khuyên loại bỏ hoặc tạm dừng những kế hoạch này cho đến khi tình hình tài chính của khách hàng được khôi phục. Khuyến khích khách hàng thu hồi các khoản phải thu: Với các doanh nghiệp đang trong tình trạng bị chiếm dụng vốn (khách hàng của doanh nghiệp mua chịu hoặc nợ tiền hàng…), hay tỷ lệ khoản phải thu trên tổng tài sản của khách hàng lớn, ngân hàng cần khuyến khích, thúc đẩy khách hàng thực hiện các biện pháp để thu đòi các khoản phải thu, các khoản vốn bị chiếm dụng. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể cải thiện khả năng thanh khoản của mình.  Gia hạn nợ: Gia hạn nợ là việc thương lượng giữa khách hàng và ngân hàng về việc xin lùi thời hạn trả nợ của khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định.Về mặt tài chính, gia hạn nợ giúp cho người đi vay tránh được những sự kiện tụng, giảm bớt chi phí cho hoạt động pháp lý. Mặt khác, gia hạn nợ giúp người vay duy trì uy tín trong hoạt động kinh doanh của họ. Việc áp dụng biện pháp này có thể giúp ngân hàng thu hồi đầy đủ khoản vay sau này. Khi khách hàng có những cơ hội tốt để khôi phục lại các hoạt động kinh doanh, họ sẽ có điều kiện để trả nợ. Việc gia hạn trả nợ phải có sự thỏa thuận tự nguyện giữa người vay và ngân hàng cho vay. Khi đã có sự thỏa thuận tự nguyện, hai bên phải thống nhất, đưa ra được một kế hoạch trả nợ chi tiết. Các chủ nợ thường tiến hành hội nghị chủ nợ để thương lượng và đạt đến sự thỏa thuận với người vay, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để người vay có thời gian chuẩn bị tích lũy các khoản tiền để trả nợ. 9 Ở Việt Nam, các NHTM còn thực hiện việc giãn nợ, khoanh nợ, xóa nợ theo chỉ đạo, chủ trương của Chính phủ trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.  Biện pháp thanh lý: Trong trường hợp ngân hàng nhận thấy việc áp dụng các biện pháp khai thác không mang lại kết quả, ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp cứng rắn hơn để xử lý một khoản cho vay đã trở thành nợ khó đòi, nhằm tự bảo vệ quyền lợi của mình.  Tiến hành xử lý các tài sản đảm bảo: Đối với các khoản cho vay có đảm bảo, ngân hàng có quyền sử dụng các đảm bảo tín dụng đó nhằm thỏa mãn yêu cầu thu đòi đầy đủ khoản vay trong trường hợp người đi vay không thực hiện việc trả nợ theo đúng quy định. Trường hợp cho vay có bảo đảm bằng sự bảo lãnh của một bên thứ ba: Ngân hàng sử dụng bảo đảm bằng cách đưa ra yêu cầu đối với người bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho người vay. Trường hợp cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Ngân hàng phát mại các tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Khi xác định khách hàng không có khả năng trả nợ, vấn đề quan trọng và cấp thiết nhất mà ngân hàng phải giải quyết là nắm giữ những tài sản bảo đảm cho khoản vay, đặc biệt là với những tài sản ngân hàng không trực tiếp quản lý.Trong nhiều trường hợp, ngân hàng không kịp thời thực hiện công tác này dẫn đến khách hàng đã có những hành động làm suy giảm giá trị tài sản hoặc bán tài sản trước khi ngân hàng nắm giữ được.  Yêu cầu cơ quan pháp luật can thiệp: Trong trường hợp ngân hàng không thể thu hồi hoặc không thu lại đủ khoản tiền vay đã cấp từ việc sử dụng các biện pháp thanh lý, hoặc đối với những khoản vay không có bảo đảm, ngân hàng có thể đề nghị tòa án phán quyết cho phép ngân hàng quyền thu thêm từ các tài sản khác của người vay. Thêm vào đó, ngân hàng có thể yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp, sử dụng quyền cao nhất của một chủ nợ không được người vay thực hiện thanh toán theo đúng thỏa thuận. Mặt khác, đối với những khách hàng có hành vi trái pháp luật, vi phạm các điều khoản trong hợp đồng vay vốn với ngân hàng như bỏ trốn, tẩu tán tài sản bảo đảm… ngân hàng có thể yêu cầu sự can thiệp của lực lượng cảnh sát, công an kinh tế. (Nguồn: PGS.TS Mai Văn Bạn (2011), “Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Đại học Thăng Long, NXB Tài Chính, tr.341-344) Tóm lại, qua tìm hiểu về khái niệm và phân loại RRCV, nguyên nhân dẫn đến RRCV và hậu quả từ RRCV, có thể thấy RRCV là vấn đề luôn tồn tại trong kinh doanh ngân hàng. Chính bởi vậy, đây luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các 10 Thang Long University Library NHTM. Việc hiểu biết và nắm bắt rõ về RRCV và các vấn đề liên quan sẽ giúp cho các nhà quản trị ngân hàng đề ra đường lối đúng đắn và phù hợp cho công tác quản trị RRCV. 1.2. Công tác quản trị rủi ro cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Khái niệm và vai trò của công tác quản trị rủi ro cho vay Trong quản trị NHTM, quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng mà các cấp quản lý, lãnh đạo phải đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng là dùng uy tín để thu hút nguồn vốn, dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ sự rủi ro. Trong khi đó, RRCV là rủi ro thường gây tổn thất lớn nhất, dễ dẫn tới nguy cơ phá sản một NHTM. Bởi vậy, có thể nói, quản trị RRCV là trung tâm của mọi hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng. Quản trị RRCV trong ngân hàng được hiểu như một quá trình bao gồm nhiều hoạt động của nhà quản trị như: Nhận dạng, đo lường, giám sát và tài trợ rủi ro nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở mức rủi ro có thể chấp nhận được. Kiểm soát RRCV ở mức chấp nhận được là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu nợ quá hạn, nợ xấu trong cho vay. Nhờ đó, thu nhập từ hoạt động cho vay của ngân hàng tăng lên, chi phí bù đắp rủi ro được giảm thiểu, hoạt động cho vay đạt được hiệu quả cả trong ngắn hạn và dài hạn. 1.2.2. Quy trình thực hiện công tác quản trị rủi ro cho vay Quy trình thực hiện công tác quản trị RRCV bao gồm bốn nội dung: Nhận dạng RRCV; Đo lường RRCV; Giám sát RRCV và tài trợ RRCV. Bốn nội dung này là các bước tuần tự và bổ trợ cho nhau. Sơ đồ 1.2. Nội dung công tác quản trị rủi ro cho vay Nhận dạng rủi ro Tài trợ rủi ro Đo lƣờng rủi ro Giám sát rủi ro 11 1.2.2.1. Nhận dạng rủi ro cho vay: Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro có thể ngân hàng gặp phải và nguồn gốc của các rủi ro. Xác định khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng và mô tả dựa trên các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Thực hiện nhận dạng rủi ro ban đầu thông qua các dấu hiệu xuất phát từ cả hai phía: khách hàng và ngân hàng. Tuy nhiên không có một mô hình nhất định về các biến cố thường xuyên để có thể công bố về các rủi ro tín dụng (RRTD). Một hoặc nhiều dấu hiệu sau sẽ ám chỉ khoản cho vay đáng nghi vấn: Dấu hiệu từ phía ngân hàng cho vay:  Các hồ sơ tín dụng của ngân hàng không đầy đủ, thiếu xót, không đồng bộ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng;  Ngân hàng mắc sai lầm khi phân loại khách hàng không đúng với mức độ rủi ro của họ, đánh giá quá cao năng lực của khách hàng;  Chính sách cho vay phụ thuộc vào những sự kiện có thể xảy ra trong tương lai. Hoặc ngân hàng cấp tín dụng trên cơ sở không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng như lời hứa duy trì số dư tiền gửi lớn hay các lợi ích mà khách hàng mang lại nếu được cấp tín dụng;  Tỷ lệ cấp tín dụng cho khách hàng ngoài địa bàn hoạt động của ngân hàng cao, cấp tín dụng với khối lượng lớn cho khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của ngân hàng, hay cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ. Bên cạnh đó, một số dấu hiệu khác từ phía ngân hàng như tỷ lệ cho vay nội bộ cao; không nhạy cảm với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế… cũng là những dấu hiệu của RRCV. Dấu hiệu từ phía khách hàng vay vốn: Dấu hiệu rủi ro từ phía khách hàng bao gồm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng và các dấu hiệu khác tùy thuộc vào đối tượng vay vốn là doanh nghiệp hay cá nhân.  Dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng: Một khách hàng vay vốn với mục đích không chính đáng hoặc không có khả năng hoàn trả khoản vay sẽ có những biểu hiện như: Thất lạc hồ sơ, không thể xuất trình đầy đủ giấy tờ khi ngân hàng yêu cầu (đặc biệt là các báo cáo tài chính); Chấp nhận nguồn vốn vay với giá cao, với mọi điều kiện; Có dấu hiệu sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn để đầu tư cho dài hạn; Trì hoãn hoặc 12 Thang Long University Library gây trở ngại cho quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất của ngân hàng mà không có sự giải thích minh bạch và thuyết phục; Khách hàng trả nợ không đúng kỳ hạn hoặc thất thường, thường xuyên sửa đổi thời hạn, xin gia hạn hay thực hiện việc đảo nợ. Khách hàng dựa vào nguồn thu bất thường để trả nợ. Một dấu hiệu đáng lưu ý khác là khi số dư tài khoản tiền gửi thanh toán sụt giảm bất thường.  Các dấu hiệu khác:  Đối với khách hàng là doanh nghiệp một số biểu hiện sau về phương pháp quản lý, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh là dấu hiệu của rủi ro: Có chênh lệch lớn giữa doanh thu và dòng tiền thanh toán so với dự kiến khi xin vay vốn; Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản; Có dấu hiệu xuất hiện việc phát hiện quá trình kiểm soát, thẩm định dự án sai dẫn đến đầu tư không hiệu quả; Do áp lực nội bộ dẫn đến việc tung ra thị trường sản phẩm mới khi chưa hội tụ đủ các yếu tố chính muồi hoặc đặt ra hạn mức doanh số kinh doanh không hợp lý; Khách hàng gặp khó khăn trong việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới do các nhân tố khách quan ảnh hưởng; Xuất hiện ngày càng nhầu các chi phí bất hợp lý như: chi phí tiếp khách, quảng cáo, chi phí thiết bị văn phòng, phương tiện đi lại…; Bên cạnh đó, một số dấu hiệu về nhân sự như xuất hiện bất đồng mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý và sự thay đổi thường xuyên của ban lãnh đạo cũng là dấu hiệu của rủi ro.  Đối với khách hàng là các cá nhân, dấu hiệu rủi ro xuất hiện khi xảy ra những biến cố trong đời sống, sự nghiệp của khách hàng như: khách hàng bị bệnh kéo dài, qua đời, ly hôn, thất nghiệp, thuyên chuyển công tác… (Nguồn: PGS.TS Mai Văn Bạn (2011), “Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại”,Đại học Thăng Long, NXB Tài Chính, tr.338-341) Nhận dạng rủi ro là bước đầu tiên cần thực hiện trong công tác quản trị rủi ro, mang tính quyết định đối với hiệu quản lý rủi ro của ngân hàng thương mại.Bởi khi xác định rõ vấn đề xuất phát từ đâu, ngân hàng sẽ tránh được những rủi ro không dáng có trong hoạt động tín dụng. 13 1.2.2.2. Đo lường rủi ro cho vay Đo lường RRCV là quá trình tính toán tần suất xuất hiện rủi ro, tiến độ và mức độ nghiêm trọng của rủi ro. Ngân hàng cần có các phương pháp nhằm xác định ý muốn trả nợ của khách hàng, phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Đo lường RRCV thông qua việc phân tích tín dụng là việc ngân hàng thu thập các thông tin có ý nghĩa đối với việc đánh giá khách hàng, chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được, sưu tầm và lưu lại thông tin để sử dụng trong tương lai. Ngoài phương pháp này, ngân hàng có thể sử dụng các mô hình điểm tín dụng. Các mô hình này thường sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay để tính toán xác xuất RRCV hoặc phân loại khách hàng trên cơ sở mức độ rủi ro đã được xác định. Nhờ phương pháp này, các ngân hàng có thể xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến RRCV; So sánh mức độ quan trọng giữa các nhân tố; Cải thiện việc định giá rủi ro; Có căn cứ chính xác hơn trong việc lựa chọn, sàng lọc các đơn xin vay và tính toán chính xác hơn mức dự phòng cần thiết cho các khoản vay. Để sử dụng các mô hình điểm tín dụng, các ngân hàng phải xác định các chỉ tiêu phản ánh các đặc điểm tài chính kinh doanh có liên quan đến RRCV cho từng đối tượng vay cụ thể. Với khách hàng là cá nhân vay tiêu dùng, ngân hàng có thể lực chọn các chỉ tiêu như thu nhập, tài sản, lứa tuổi, nghề nghiệp và địa điểm. Với các khách hàng là doanh nghiệp, ngân hàng có thể áp dụng mô hình điểm tín dụng với các chỉ tiêu như tỷ lệ Nợ/Vốn tự có, tỷ lệ Lợi nhuận/Tổng tài sản, Lợi nhuận/Vốn tự có, Doanh thu/Tổng tài sản… (Nguồn: PGS.TS Mai Văn Bạn (2011), “Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại”, Đại học Thăng Long, NXB Tài Chính, tr.333-335) 1.2.2.3. Giám sát rủi ro cho vay Giám sát RRCV là việc thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện các biện pháp gồm: các biện pháp kỹ thuật, sử dụng công cụ chiến lược, chương trình…nhằm hạn chế rủi ro, hạn chế tổn thất xảy ra trong hoạt động tín dụng nói chung và cho vay nói riêng. Các ngân hàng phải giám sát thường xuyên hành vi của người vay; mục đích sử dụng tiền vay; quá trình hoạt động kinh doanh; quá trình trả nợ và giám sát các tài sản bảo đảm tín dụng, tránh tình trạng khách hàng vi phạm các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng. Bên cạnh đó, việc theo dõi nợ của khách hàng cần được tiến hành một cách thống nhất và có hệ thống theo nội dung đã được quy định trong chế độ, thể lệ cho vay. Các khoản vay có vấn đề, khi phát hiện rủi ro cần được báo cáo kịp thời với cấp trên để có biện pháp xử lý thỏa đáng. 14 Thang Long University Library Mặt khác, việt giám sát RRCV không chỉ là công việc của CBTD đối với quá trình vay vốn của khách hàng, mà còn là trách nhiệm của người quản lý trong việc giám sát năng lực, trình độ chuyên môn, thái độ làm việc cũng như đạo đức nghề nghiệp của những cán bộ trực tếp làm việc với khách hàng. 1.2.2.4. Tài trợ rủi ro cho vay: Tài trợ RRCV là việc ngân hàng dùng các nguồn tài chính trong và ngoài ngân hàng để bù đắp tổn thất từ các khoản cho vay khi rủi ro xảy ra. Nợ rủi ro sau khi được xử lý sẽ được thu hồi hoặc được chuyển qua theo dõi ngoại bảng. Các nguồn tài trợ RRCV bao gồm:  Nguồn tự tài trợ do ngân hàng tự khắc phục  Trích từ các quỹ dự phòng rủi ro (dự phòng chung và dự phòng cụ thể)  Trích thẳng trực tiếp vào chi phí hoặc lợi nhuận của ngân hàng.  Nguồn tài trợ từ bên ngoài ngân hàng:  Phương án thu hồi nợ xấu;  Từ thanh lý doanh nghiệp;  Từ bán nợ.  Từ nguồn đền bù của nhà kinh doanh rủi ro, bảo hiểm để bù đắp tổn thất… 1.2.3. Mô hình quản trị rủi ro mà ngân hàng đang áp dụng Mô hình quản trị RRCV là hệ thống các mô hình bao gồm: mô hình tổ chức quản lý rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro. Mô hình quản trị RRCV phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình cho vay. Với mục đích: Thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong quy trình thực hiện nghiệp vụ cho vay; Xây dựng các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro; Triển khai các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh; Tìm ra các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra. Hiện nay, các NHTM ở Việt Nam phần lớn áp dụng hai mô hình quản trị rủi ro là:  Mô hình quản trị rủi ro tập trung Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa ba chức năng: quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa ba chức năng này nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.  Mô hình quản trị rủi ro phân tán 15 Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ ba chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay. 1.2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá công tác quản trị rủi ro cho vay Một số chỉ tiêu sau thường được sử dụng để đánh giá RRCV: 1.2.3.1. Chỉ tiêu Hệ số thu nợ ( % ) Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong việc thu nợ của ngân hàng. Nó phản ánh trong một thời điểm nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt. Công thức tính Hệ số thu nợ: Doanh số thu nợ Hệ số thu nợ (%) = Doanh số cho vay x 100% 1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn, nợ xấu:  Số dư nợ quá hạn, nợ xấu: Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN của ngân hàng Nhà nước ban hành: “Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn” và “Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Số dư nợ quá hạn, nợ xấu phản ánh tình hình nợ quá hạn, nợ xấu của ngân hàng tại một thời điểm nhất định nào đó.  Tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu: Tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ phản ánh chất lượng tín dụng của các ngân hàng, đặc biệt là tỷ lệ nợ xấu. Tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu được tính toán theo công thức sau:  Tỷ lệ nợ quá hạn: Tổng nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn (%) = Tổng dư nợ x 100% Tỷ lệ nợ quá hạn cho biết với 1 đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ quá hạn. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn < 5% được coi là bình thường Tỷ lệ nợ quá hạn từ 5% đến 10% được coi là không bình thường Tỷ lệ nợ quá hạn từ 10% đến 15% được coi là cao 16 Thang Long University Library Tỷ lệ nợ quá hạn trên 15% đến 20% được coi là quá cao, báo động đỏ, nguy cơ khủng hoảng rất lớn. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước, chỉ số này dưới mức 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng là bình thường.  Tỷ lệ nợ xấu: Tổng nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu (%) = Tổng dư nợ x 100% Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng các khoản cho vay của một ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cho biết cứ 1 đồng dư nợ của ngân hàng có bao nhiêu đồng nợ xấu. Cũng như tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu càng nhỏ thì hoạt động tín dụng của ngân hàng càng tốt. Theo quy định 493/2005/QĐ –NHNN, tỷ lệ nợ xấu không được vượt quá 5%. Nếu tại một thời điểm nhất định nào đó tỷ lệ nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn trên tổng dư nợ có nghĩa là chất lượng các khoản cho vay tại ngân hàng không tốt, nguy cơ rủi ro tín cho vay cao và ngược lại.  Quy định về phân loại nợ: Theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam về việc “Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng”, tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ như sau:  Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn; Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều này.  Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu); Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.  Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; 17 Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này; Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.  Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.  Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. 1.2.3.3. Chỉ tiêu trích lập dự phòng và bù đắp rủi ro “Dự phòng rủi ro” là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và Dự phòng chung. (Văn bản hợp nhất số 22/VBHN-NHNN). Tùy theo mức độ rủi ro mà tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng rủi ro từ 0 đến 100% giá trị khoản vay. Chỉ tiêu Tỷ lệ dự phòng RRTD phản ánh khả năng bù đắp thiệt hại trên tổng rủi ro có thể xảy ra của ngân hàng, tỷ lệ này càng cao thì mức độ an toàn của ngân hàng càng lớn. Mọi ngân hàng đều phải trích lập dự phòng theo quy định của ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc: Khoản vay càng rủi ro thì số tiền trích lập dự phòng RRTD càng lớn. Công thức tính chỉ tiêu này như sau: 18 Thang Long University Library Dự phòng RRTD trích lập Tỷ lệ dự phòng RRTD (%) = Dư nợ cho kỳ báo cáo x 100% Chỉ tiêu Hệ số khả năng bù đắp RRTD phản ánh khả năng bù đắp khoản nợ có rủi ro cao mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi. Công thức tính như sau: Dự phòng RRTD trích lập Hệ số khả năng bù đắp RRTD = Nợ quá hạn khó đòi (Nguồn: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2011), “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”, NXB Thống kê, tr.405-406 ) 1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến công tác quản trị rủi ro cho vay Sự vận hành của một NHTM có thể diễn ra trơn tru hay không, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố nội tại và các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài. Công tác quản trị RRCV cũng không nằm ngoài sự tác động đó. 1.3.1. Các nhân tố nội tại của ngân hàng:  Chính sách cho vay: Các chính sách cho vay của ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ rủi ro của một khoản vay. Ngân hàng xây dựng chính sách cho vay rõ ràng, chặt chẽ, phù hợp với từng đối tượng vay vốn và mục đích sử dụng vốn vay sẽ giúp cho cán bộ ngân hàng dễ dàng dà soát, so sánh các điều kiện thực tế của khách hàng với các tiêu chuẩn cho vay. Từ đó làm căn cứ để lãnh đạo ngân hàng đưa ra quyết định chính xác với từng khoản vay. Ngược lại, nếu chính sách cho vay lỏng lẻo, nhiều sơ hở sẽ khiến cho CBTD gặp khó khăn trong việc đánh giá khách hàng và khoản vay, dẫn đến những quyết định sai lầm gây ra RRCV cho ngân hàng. Thậm chí, khách hàng có thể lợi dụng những điểm sơ hở trong chính sách để chiếm dụng vốn vay của ngân hàng, gây hậu quả khó lường.  Hệ thống quy trình cho vay: Hệ thống quy trình cho vay có thể giúp ngân hàng giảm thiểu RRCV, ngược lại, cũng có thể khiến ngân hàng gánh chịu những rủi ro nặng nề. Với một hệ thống quy trình cho vay được xây dựng khoa học, chi tiết, tuần tự theo từng bước, các CBTD sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức khi tiếp nhận, đánh giá một khoản vay. Hoạt động cho vay nhờ đó mà diễn ra nhanh chóng và hiệu quả.  Kiểm soát nội bộ: Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là công tác đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện và xử lý kịp thời khi xảy ra rủi ro. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ giúp ngân hàng giảm thiểu đáng kể nguy cơ RRCV đồng thời nhanh chóng tìm ra những sai lầm, sơ hở có thể dẫn đến rủi ro và kịp thời khắc phục. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đảm bảo tính công khai, minh bạch trong 19 hoạt động tín dụng nói chung và cho vay nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng khoản vay, hạn chế RRCV.  Năng lực của ngân hàng cũng là một trong những yếu tố cần xét đến khi ra quyết định cho vay. Quy mô của khoản vay phải phù hợp với năng lực của ngân hàng (năng lực pháp luật, năng lực tài chính, năng lực trình độ…). Khi ngân hàng tự ý cho vay các khoản vượt quá phạm vi năng lực, quyền hạn của mình, ngân hàng đó không những đang làm trái với các quy định pháp luật mà còn tự đặt mình vào hoàn cảnh rủi ro quá lớn. Bởi vậy, ngân hàng phải đảm bảo các khoản cho vay nằm trong phạm vi kiểm soát của mình.  Chuẩn mực quản trị rủi ro mà ngân hàng đang áp dụng: là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro nói chung và quản trị RRCV nói riêng của ngân hàng. Chuẩn mực này bao gồm tất cả từ hệ thống quy trình nghiệp vụ, phương thức, cách thức phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro… Bởi vậy, áp dụng một chuẩn mực quản trị rủi ro phù hợp, đúng đắn với thực tế ngân hàng giúp cho công tác quản trị rủi ro của ngân hàng diễn ra hiệu quả, giảm thiểu tối đa nguy cơ rủi ro và hậu quả khi xảy ra rủi ro.  Năng lực trình độ, đạo đức của các cấp quản lý, lãnh đạo ngân hàng:Ban lãnh đạo ngân hàng là những người đảm nhiệm công tác quản trị nói chung và quản trị RRCV nói riêng của ngân hàng. Bởi vậy, ban lãnh đạo phải là những người có chuyên môn, trình độ cao, có tầm nhìn và nhạy bén trong việc phân tích rủi ro – lợi ích của các khoản vay. Đồng thời, người lãnh đạo linh hoạt, có khả năng ứng phó với những biến cố bất ngờ sẽ góp phần giúp cho ngân hàng trụ vững khi có rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, người lãnh đạo mẫu mực, có đạo đức nghề nghiệp sẽ luôn có ý thức trách nhiệm cao với công việc của mình.  Trình độ chuyên môn, đạo đức của các cán bộ ngân hàng: Các cán bộ ngân hàng là những người trực tiếp thực hiện các chỉ thị, đường lối mà cấp lãnh đạo đề ra. Đường lối đúng đắn, chỉ thị chính xác, kịp thời nhưng khâu thực hiện yếu kém cũng sẽ dẫn đến thất bại trong công việc. Bởi vậy, cán bộ ngân hàng, đặc biệt là các CBTD trực tiếp thực hiên các khâu trong hoạt động cho vay cần phải nắm vững chuyên môn, có thái độ nghiêm túc với công việc và có đạo đức nghề nghiệp vững vàng.  Hệ thống thông tin khách hàng:Việc lưu trữ các thông tin về khách hàng cũ và các khách hàng đang giao dịch giúp cho ngân hàng nắm bắt nhanh chóng và đánh giá chính xác hơn năng lực pháp lý, năng lực tài chính, cũng như thái độ thực hiện nghĩa vụ người đi vay của khách hàng. Từ đó, ngân hàng có cơ sở đưa ra các quyết định đúng đắn. Điều này giúp ích rất nhiều cho công tác quản trị rủi ro nói chung và quản trị RRCV nói riêng của ngân hàng. 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan