Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VN C...

Tài liệu NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VN CHI NHÁNH 7 TP HCM

.PDF
92
239
141

Mô tả:

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VN CHI NHÁNH 7 TP HCM
-1- LỜI MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Năm 2009, ngành tài chính là một trong những ngành chịu tác động lớn của suy thoái kinh tế toàn cầu, trong đó có các ngân hàng. Vì vậy, việc đối phó với các rủi ro trong hoạt động kinh doanh đang được nhiều ngân hàng ưu tiên hàng đầu.[8] Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội. Việc các ngân hàng liên tục mở rộng mạng lưới, giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm mới cũng như việc áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi một chiến lược quản trị rủi ro hoạt động đồng bộ nhằm quản lý và giảm thiểu thiệt hại trong quá trình hoạt động. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ đại lý…Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng… Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đang diễn ra ở mức đáng quan tâm. Xuất phát từ thực tiễn đó đã làm cơ sở cho em chọn đề tài: “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VN CHI NHÁNH 7 TP HCM” với hi vọng sẽ đóng góp được một phần hữu ích cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và của đơn vị thực tập nói riêng. 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những đề tài được nghiên cứu khá nhiều trong các kỳ nghiên cứu khoa học trước đây. Ở cấp nghiên cứu khoa học của sinh viên, riêng tại trường Đại Học Ngân Hàng có các đề tài nghiên cứu tiêu biểu như sau: ¾ Đào Hồng Hạnh, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng NN&PT NT Hà Nội” (2005) ¾ Lê Văn Chi, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng CT, Thanh Hóa” (2006), lớp TC 44B. -2¾ Nguyễn Diệp Linh, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Rủi ro tín dụng tại ngân hàng ngoại thương chi nhánh Cần Thơ – thực trạng và giải pháp” (2005) ¾ Bùi Thị Quỳnh Anh, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương VN”, lớp ĐH 21A8. Tại ĐH Lạc Hồng cũng đã có nhiều báo cáo nghiên cứu khoa học của sinh viên về đề tài này, tiêu biểu có: ¾ Nguyễn Phước Linh, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Quản trị rủi ro tín dụng tại NH TMCP Ngoại Thương Chi Nhánh Đồng Nai” ¾ Đông Thị Thanh Phương, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trảng Bom” ¾ Nguyễn Thị Mộng Liên, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý rủi ro trong tín dụng của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn KCN Biên Hòa” ¾ Nguyễn Thị Thanh Thảo, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Ngoại Thương Đồng Nai”. Riêng tại NH TMCP Công Thương VN chi nhánh 7 vẫn chưa có đề tài nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng. Trên thực tế, hầu hết những bài nghiên cứu đều nêu lên được tính cấp thiết của đề tài, làm rõ những lý luận về hoạt động tín dụng cũng như rủi ro tín dụng, phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng tại ngân hàng nghiên thực tập, đề ra những giải pháp hay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Nhưng nếu xét về trong hoàn cảnh kinh tế cụ thể một số giải pháp ấy thường mang tính chung chung, việc áp dụng vào thực tế cho đơn vị thực tập vì thế mà thiếu tính khả thi. Tuy nhiên, mỗi một tác giả với đề tài của mình điều có những phong cách riêng về nội dung, hình thức thể hiện cũng như định hướng đề tài hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào thời điểm nghiên cứu, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu…Vì thế, mặc dù đề tài khá phổ biến, nhưng trong bài viết này, người viết thực hiện đề tài nghiên cứu với định hướng riêng cụ thể như sau: -3Năm 2008 và 2009 là những năm đầy biến động về tình hình kinh tế xã hội Việt Nam mà cụ thể là tình hình lạm phát những tháng đầu năm 2008 và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009. Những biến động về tình hình kinh tế đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động tín dụng tại ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng doanh nghiệp. Người viết khi thực hiện đề tài sẽ chú trọng xem xét, đánh giá ảnh hưởng của sự biến động này đến hoạt động cho vay doanh nghiệp tại NHTMCP Công Thương VN chi nhánh 7, TP HCM, tìm ra những nguyên nhân tác động đến khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp, đồng thời đề ra những giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế những rủi ro xảy ra tại chi nhánh. Mục tiêu của người viết khi xây dựng giải pháp là không tập trung vào việc xây dựng những giải pháp mang tính vĩ mô, những kiến nghị mang tính chất bao quát vì sẽ rất khó cho Ngân hàng nếu muốn ứng dụng vào thực tế. Tác giả chú trọng đến những giải pháp cụ thể, mang tính khả thi cao và phù hợp với chi phí và khả năng của chi nhánh. Có một điều tác giả nhận thấy khi đọc một số báo cáo và luận văn nghiên cứu với đề tài tương tự là: hầu hết các đề tài khi đưa ra phương pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng chỉ đơn thuần dựa trên những phân tích về thực trạng hoạt động của ngân hàng. Trong bài nghiên cứu của mình người viết sẽ tiến hành khảo sát thu thập thông tin thực tế tại chi nhánh từ đó tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng về phía doanh nghiệp và ngân hàng. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ¾ Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại chi nhánh. ¾ Đánh giá thực trạng tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại chi nhánh. ¾ Đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm có công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân… Phạm vi nghiên cứu: + Thời gian: năm 2007- 2008- 2009. + Không gian: Ngân hàng TMCP Công Thương VN chi nhánh 7 TP HCM -45. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện trên cơ sở: - Thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế về hoạt động tín dụng tại ngân hàng TMCP Công Thương VN chi nhánh 7, TP HCM. - Trao đổi kinh nghiệm với cán bộ tín dụng và các cán bộ công tác trong ngân hàng TMCP Công Thương VN chi nhánh 7 nói riêng. - Sử dụng phương pháp điều tra thu thập thông tin thực tế thông qua phát phiếu thu thập thông tin thực tế, nghiên cứu các hồ sơ khách hàng tại chi nhánh và phỏng vấn trực tiếp CBTD. + Địa bàn tiến hành thu thập thông tin: Thành phố Hồ Chí Minh. + Đối tượng: ngân hàng và Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH. + Số phiếu phát ra đi kèm với phỏng vấn trực tiếp: 50 + Thời gian khảo sát: từ ngày 02/2/2010 đến ngày 10/04/2010. + Phương thức khảo sát: tiến hành phỏng vấn trực tiếp kết hợp với phát phiếu thu thập thông tin thực tế; nghiên cứu hồ sơ khách hàng tại chi nhánh.Trên cơ sở lý luận, các số liệu thực tế tổng hợp được, kết quả các mẫu điều tra và những ý kiến, nhận định của cán bộ tín dụng tác giả sử dụng phần mềm Excel kết hợp phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh, tìm hiểu chi tiết, cụ thể những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn từ phía doanh nghiệp và đưa ra một số giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. 6. TÍNH MỚI Ở ĐỀ TÀI Hầu hết những báo cáo nghiên cứu khoa học trước đây chỉ đơn thuần dựa trên nền tảng về thực trạng tại ngân hàng, từ đó đề ra giải pháp hạn chế rủi ro. Riêng tác giả, thông qua khảo sát thực tế tại ngân hàng, tác giả sẽ phân tích sâu hơn từ đó làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. -5¾ Từ phía ngân hàng. ¾ Từ phía doanh nghiệp ¾ Từ nền kinh tế. Dựa trên thực tế ngân hàng và tình hình kinh tế trong thời gian vừa qua đề ra những giải pháp cụ thể có khả năng dự báo, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh. 7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở luận về quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM. Chương 2: Thực trạng tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Công Thương VN Chi nhánh 7, TP HCM. Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Công Thương VN Chi nhánh 7, TP HCM. -6CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. TỔNG QUAN VỂ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1, Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại (Commercial Bank) đã hình thành và tồn tại hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại đã tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất của nó- nền kinh tế thị trường- thì Ngân hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể và các cá nhân…bằng việc nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Như vậy, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, với chức năng chủ yếu làm trung gian tín dụng, trung gian thanh toán giữa các doanh nghiệp, các cá nhân trong nền kinh tế. [1] 1.1.2, Vai trò của Ngân hàng thương mại Đối với nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển như hiện nay tại Việt Nam thì các NHTM ngày càng đóng nhiều vai trò quan trọng, cụ thể như sau: Khắc phục tính bất cân xứng: Ngân hàng thương mại góp phần hạn chế tính không hiệu quả trong giao dịch do thiếu thông tin hay thông tin không chính xác về đối tác. Góp phần làm giảm chi phí giao dịch và rủi ro: chi phí giao dịch về thời gian, chi phí thương lượng, thủ tục hành chính… Với những chi phí trên sẽ gây khó khăn cho những người thừa vốn với quy mô nhỏ và không chuyên nghiệp. Đối với những người thiếu vốn, việc giảm thiểu các chi phí giao dịch sẽ làm giảm chi phí đầu tư và chi phí huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. Kích thích sự luân chuyển vốn đầu tư: do cạnh tranh với nhau trong quá trình hoạt động, các Ngân hàng thương mại đã thay đổi lãi suất, từng bước làm cho lãi suất -7hình thành trên thị trường ngày càng hợp lý hơn trên cơ sở cân bằng cung cầu vốn đầu tư, làm cho nguồn vốn thực tế được tài trợ cho đầu tư tăng lên với mức cao nhất. Góp phần nâng cao phúc lợi xã hội; đối với những người thừa vốn, nhờ có Ngân hàng thương mại mà lượng vốn nhàn rỗi của họ mới có khả năng sinh lời, góp phần làm tăng thu nhập. Đối với các doanh nghiệp cần vốn, Ngân hàng thương mại giúp chuyển dịch chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm thỏa mãn nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp, góp phần duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động và cải thiện đời sống của họ.[3] 1.1.3, Các nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại 1.1.3.1, Nghiệp vụ huy động vốn (Nghiệp vụ tài sản nợ) Ngân hàng thương mại thường sử dụng khối lượng tài chính cao hơn nhiều so với công ty kinh doanh khác, nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại thường bao gồm: vốn tự có, vốn của người ký thác và của các chủ nợ khác. a) Nguồn vốn tự có (vốn của các ngân hàng) Vốn tự có bao gồm: Vốn điều lệ là vốn mà Ngân hàng thương mại phải có để đi vào hoạt động được ghi trong văn bản pháp qui. Tùy theo hình thức sở hữu mà nguồn vốn này được hình thành từ những nguồn khác nhau: Nếu là Ngân hàng thương mại Nhà nước thì vốn điều lệ do Ngân sách cấp 100%. Nếu là Ngân hàng thương mại cổ phần thì nguồn vốn này được hình thành từ phát hành cổ phiếu. Các quỹ dự trữ được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro. Vốn tự có của ngân hàng thường chiến tỷ trọng nhỏ (thường không quá 10% ) trong tổng nguồn vốn hoạt động nhưng rất quan trọng quyết định qui mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, huy động vốn cho vay. Kinh nghiệm gần đây đối với các vụ phá sản ngân hàng cho thấy Ngân hàng nào có vốn tự có càng nhiều càng an toàn vững mạnh hơn. Hơn nữa tỷ lệ vốn tự có là thước đo khách quan về thế mạnh của Ngân hàng và là cơ sở để Ngân hàng thu hút những nguồn vốn khác. -8b) Nguồn vốn huy động Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Vốn tự có của Ngân hàng thường chỉ đủ mua sắm, trang bị trụ sở Ngân hàng, dụng cụ văn phòng… để thực hiện nghiệp vụ cho vay thì nguồn vốn chủ yếu là tiền gửi của khách hàng, do đó nghiệp vụ này là nghiệp vụ trung tâm của nghiệp vụ huy động vốn. Tiền gửi của khách hàng gồm những loại sau: - Tiền gửi không kỳ hạn. - Tiền gửi có kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm. - Hình thức huy động khác của Ngân hàng. c) Nguồn vốn đi vay và các nguồn vốn khác Trong quá trình hoạt động, khi gặp thiếu hụt về khả năng thanh toán, Ngân hàng có thể tận dụng nguốn tín dụng hỗ trợ từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng hoặc hỗ trợ từ Ngân hàng trung ương bằng cách tái chiết khấu. Nếu Ngân hàng có những mối quan hệ quốc tế rộng lớn có thể tranh thủ những khoản vốn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế.[3] 1.1.3.2, Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ tài sản có) Là nghiệp vụ sử dụng các nguồn vốn đã hình thành của Ngân hàng thương mại, gồm những nghiệp vụ sau: a) Nghiệp vụ Ngân quỹ Khách hàng thể hiện uy tín với NH bằng cách thanh toán nợ đến hạn sòng phẳng cho NH, còn NH thể hiện uy tín của mình bằng khả năng thanh toán thường xuyên cho khách hàng có mở tài khoản tại NH. Do đó, nghiệp vụ Ngân quỹ của Ngân hàng nhằm mục đích duy trì khả năng thanh toán của NH, nghiệp vụ bao gồm: + Tiền mặt tại quỹ. + Tiền gửi tại NHNN hoặc các TCTD khác. + Dự trữ bắt buộc gửi tại NHNN. b) Nghiệp vụ Tín dụng -9Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, nghiệp vụ tín dụng là hoạt động sử dụng vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động sử dụng vốn và cũng là nghiệp vụ phức tạp gặp nhiều rủi ro nhất của Ngân hàng. NHTM được cấp tín dụng cho tất cả các thành phần kinh tế trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, từ lĩnh vực tiêu dùng cá nhân đến sản xuất kinh doanh. c) Hoạt động đầu tư Ngân hàng Các Ngân hàng có thể sử dụng vốn tự có của mình để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần các công ty, xí nghiệp, mua trái phiếu Nhà nước. Trong nghiệp vụ đầu tư này Ngân hàng cũng phải tuân theo quy định khống chế về quy mô và khối lượng vốn tham gia. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái và can thiệp trên thị trường tiền tệ nhằm mục đích tăng thêm lợi nhuận. d) Hoạt động kinh doanh hối đoái Là hoạt động mua bán ngoại tệ, chứng từ có giá kinh doanh vàng bạc trong và ngoài nước với các đơn vị có chức năng thông qua nghiệp vụ về kinh doanh ngoại tệ như: Arbirtage, Spot, Forward, Future, Option… nhằm mục đích lợi nhuận, dự trữ hoặc tạo nguồn ngoại tệ phục vụ cho dịch vụ thanh toán quốc tế.[3] 1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM 1.2.1, Khái niệm tín dụng Tín dụng xuất phát từ gốc chữ La Tinh: Credittum– tức là tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải trong tiếng Anh là Credit và theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn. Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc có sự hoàn trả cả vốn và lãi theo thời hạn đã thỏa thuận.[1] (Sơ đồ 1.1): Tín dụng được biểu hiện qua sơ đồ sau: 1 Cho vay vốn Chủ thể cho vay Chủ thể đi vay (Lender) (Borrower) 2 Hoàn trả vốn và lãi - 10 1.2.2, Rủi ro tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của Ngân hàng. Rủi ro trong Ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi một Ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng.[4] 1.2.2.1, Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của NH, biểu hiện trên thực tế qua việc KH không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho NH. Như vậy, có thể nói rằng RRTD có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó NH là chủ nợ, mà khách nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của Ngân hàng.[4] 1.2.2.2, Phân loại rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng rất đa dạng bao gồm: Rủi ro tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro lựa chọn Rủi ro bảo đảm Rủi ro danh mục Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung Sơ đồ 1.2: Phân loại rủi ro tín dụng [4] Theo sơ đồ trên, rủi ro tín dụng được chia thành rủi ro giao dịch (Transaction) và rủi ro danh mục (Portfolio): - Rủi ro giao dịch: nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng, bao bồm: - 11 + Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi Ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay. + Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo. + Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề. - Rủi ro danh mục: nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân thành hai loại: rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk). + Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh doanh, từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn. + Rủi ro tập trung: là trường hợp Ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao. [4] 1.2.3, Những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng 1.2.3.1, Nhân tố khách quan Nguyên nhân khách quan có thể ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, gây ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng là những rủi ro bất khả kháng xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người. Nguyên nhân khách quan có rất nhiều và đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực và có tính chất rất khác nhau, khó có thể dự đoán trước. * Thiên tai, dịch bệnh phá hoại sản xuất kinh doanh Đây là những rủi ro bất khả kháng của ngân hàng và khách hàng khi thực hiện một hợp đồng vay, là những biến cố khách quan không thể lường trước được, nó có tác động trực tiếp và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh - 12 nghiệp… Thiên tai và dịch bệnh không loại trừ ai, nó ảnh hưởng tới khả năng thực hiện phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ vay của người đi vay. Nếu rủi ro xảy ra lớn đòi hỏi phải có thời gian ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh mới có khả năng trả nợ thậm chí khắc phục được.[2] * Hoàn cảnh kinh tế xã hội trong nước và thế giới Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chịu ảnh hưởng tác động trực tiếp của môi trường kinh tế xã hội. Trong một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển. Nhưng trong một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu tư giảm sút, thu nhập của mọi thành viên trong xã hội đều giảm thì khả năng phát triển sản xuất kinh doanh là rất kém, ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh Ngân hàng, tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của Ngân hàng. Trong thời đại có xu thế quốc tế hoá nền kinh tế toàn cầu, cũng như các ngành khác, hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng phải cải tiến và hoà nhập thích ứng với xu thế chung đó. Vấn đề quốc gia đã được hệ thống Ngân hàng đưa vào các sách lược kinh doanh của mình. Khi Ngân hàng đầu tư tín dụng sang một nước khác hoặc đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài hiện đang hoạt động taị Việt Nam, hoặc cho vay bảo lãnh cho vay đối với doanh nghiệp Việt Nam trong mối quan hệ với nước ngoài để tiếp nhận vốn, máy móc thiết bị, công nghệ hay đầu tư cho các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu hàng hoá với thị trường ngoài nước thì Ngân hàng phải quan tâm đến mức độ rủi ro tại từng quốc gia khác nhau. Nếu ở các nước đó có suy thoái kinh tế, có Ngân hàng bị phá sản, có sự biến động giá cả hàng hoá, lãi suất, có biến động về chính trị, về chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan, đầu tư… thì sẽ gây trở ngại cho công việc “làm ăn” của các khách hàng, khiến Ngân hàng bị ảnh hưởng gián tiếp bởi các biến động đó. * Nhân tố môi trường Thế giới kêu gọi cách mạng xanh bảo vệ môi trường và Việt Nam cũng là một trong những thành viên tích cực ủng hộ điều này. Thực tế cho thấy từ vụ Vedan người tiêu dùng Việt Nam ngoảnh mặt với tất cả các sản phẩm của Vedan,… Hoạt động SXKD của Vedan gặp nhiều khó khăn, đình trệ và có khả năng bồi thường một khoản - 13 tiền lớn. Đối với các ngân hàng cho Vedan vay vốn sẽ gặp ít nhiều khó khăn khi thu hồi vốn trong giai đoạn này.Vì vậy có thể nói nhân tố môi trường là nhân tố quan trọng khi xem xét cho vay đối với một doanh nghiệp. * Sự thay đổi chính sách của Nhà nước Trong trường hợp có sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra của các Bộ, ngành trong nền kinh tế. Những thay đổi và điều chỉnh đó là rất cần thiết trong quá trình phát triển của đất nước, nhưng tuỳ nơi, tuỳ lúc sẽ tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả tín dụng của khách hàng đối với ngân hàng. Do tính chất hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có liên quan đến rất nhiều bộ, ngành và lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, mỗi thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước cũng đều có thể tác động tới kết quả hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng - một hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng. * Môi trường pháp lý Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ và đồng bộ, không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hợp đồng kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. [4] 1.2.3.2, Nhân tố chủ quan a) Từ phía khách hàng Đây chính là một trong những nguyên nhân chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Người vay có thể do vô ý hay cố ý không thực hiện trả nợ vay cho Ngân hàng đúng hạn. Nhìn chung nguyên nhân này có thể nắm bắt và đối phó được nếu NH thực hiện tốt việc giám sát, kiểm tra và quản lý khách hàng trước, trong và sau khi phát tiền vay cho KH. Nguyên nhân này có thể được xem xét trên các khía cạnh sau: * Thực trạng hoạt động kinh doanh của người đi vay Hoạt động kinh doanh của người đi vay bao gồm cả các hoạt động có sử dụng và không sử dụng vốn vay Ngân hàng. Do vậy rủi ro trong hoạt động kinh doanh của - 14 người đi vay mà có sử dụng vốn vay Ngân hàng là nguyên nhân trực tiếp gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển khai dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, không xây dựng được chính xác các chỉ tiêu quan trọng như: định mức tiêu thụ sản phẩm, cơ cấu giá thành, chất lượng sản phẩm, nguồn nguyên vật liệu… Như vậy, theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn, Ngân hàng sẽ có thể nhận định được khả năng đảm bảo thanh toán nợ đầy đủ và đúng hạn của khách hàng cho Ngân hàng. * Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, khả năng thanh toán chung giảm sút, yếu kém Năng lực tài chính là chỉ tiêu cơ bản biểu hiện tình hình “sức khoẻ” của một doanh nghiệp. Đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính lành mạnh về khả năng tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ đó xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ cho ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán các khoản chi nhất thời quá lớn như thanh toán nợ thuế, tiền lương của CBCNV, nợ người bán, nợ các ngân hàng khác… Cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp không hợp lý như: tăng quy mô đầu tư TSCĐ quá mức cần thiết gây lãng phí, hay chỉ tập trung vốn đầu tư dài hạn mà không dự phòng hợp lý nguồn vốn lưu động… Tất cả các biểu hiện về tài chính nói trên đều gây nên khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn của khách hàng đối với Ngân hàng, tạo ra các khoản nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. * Do ý muốn chủ quan của người đi vay cố tình không trả nợ cho NH Đây là một trường hợp tồi tệ trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến nợ quá hạn của Ngân hàng. Nó được hiểu như là những một hành động có chủ định của người vay, được tính toán chuẩn bị trước nhằm chiếm đoạt tiền vay của Ngân hàng. Loại nguyên nhân này được xếp vào loại nguyên nhân rủi ro về tư cách đạo đức của người đi vay. Khi thẩm định một dự án vay vốn, có ý kiến cho rằng yếu tố tư cách đạo đức của người đi vay không liên quan đến chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy yếu tố đạo đức lại là nguyên nhân rất quan trọng trong việc trả nợ cho ngân hàng. Người vay có thể có khả năng nhưng cố ý - 15 không trả nợ Ngân hàng, lừa đảo hòng chiếm dụng vốn của Ngân hàng, thậm chí còn sử dụng cho những mục đích trái pháp luật. Những trường hợp như vậy phần lớn Ngân hàng cần phải có sự can thiệp giúp đỡ của pháp luật. b) Từ phía Ngân hàng Ngoài nguyên nhân gây ra nợ quá hạn từ phía người đi vay, nguyên nhân chủ quan bao gồm những thiếu sót, khuyết điểm từ phía Ngân hàng, bao gồm: - Năng lực thẩm định dự án cho vay của Ngân hàng còn yếu nên đã cho vay những dự án không khả thi, nhiều rủi ro, không có khả năng thu hồi vốn, trong khi Ngân hàng không lường trước được những nguồn dự trữ tương ứng để bù đắp rủi ro. Cán bộ tín dụng chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành nghề mà mình tài trợ, trong khi Ngân hàng không có đủ thông tin, các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng, phân tích khả năng thị trường tiêu thụ hiện tại và tương lai, tính toán chu kỳ, vòng đời sản phẩm… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xin vay. - Bên cạnh vấn đề thiếu và yếu năng lực quản lý, đôi khi có một bộ phận cán bộ Ngân hàng kém phẩm chất đạo đức lợi dụng vị trí công tác để trục lợi, tham ô, nhận hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc, đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng nợ quá hạn trong thời gian qua. - Ngân hàng quá chủ quan, tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay mà coi nhẹ việc kiểm tra đôn đốc, giám sát việc thực thi dự án, phòng ngừa rủi ro, đồng thời không nắm rõ tình hình sử dụng tiền vay của khách hàng, do đó không có các biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời khi các khoản vay có dấu hiệu xấu trong quá trình sử dụng dẫn tới khả năng trả nợ của khách hàng không được đảm bảo, xảy ra nợ quá hạn. - Ngân hàng thiếu một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho tứng khách hàng thuộc các ngành nghề, sản phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro. - Hệ thống kiểm soát của Ngân hàng quá yếu kém và lỏng lẻo khiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng vay làm cho nguy cơ tổn - 16 thất tín dụng của Ngân hàng tăng cao phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những khách hàng này. [4] 1.2.4, Hậu quả của rủi ro tín dụng Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM xảy ra khi xuất hiện các biến cố không lường trước được do chủ quan hay khách quan khiến cho người đi vay không thực hiện được cam kết, nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng cho vay. Nếu rủi ro đó nhỏ thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn Quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng. Nhưng nếu rủi ro đó quá lớn vựơt quá khả năng xử lý của NHTM thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khôn lường không những cho chính ngân hàng đó mà còn cho cả các ngân hàng và các doanh nghiệp liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi của người gửi tiền và cuối cùng ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. 1.2.4.1, Đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM Thực tế cho thấy nợ quá hạn tại các Ngân hàng Thương mại là một biểu hiện cụ thể của rủi ro tín dụng gây tác hại rất lớn đối với hoạt động của các NHTM. Hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng và rủi ro về tín dụng cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại rủi ro của ngân hàng. Nợ quá hạn là kết quả tất yếu của một hoạt động tín dụng không lành mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, trực tiếp gây nên rủi ro về ứ đọng vốn và có thể làm mất vốn kinh doanh và mất khả năng thanh toán của NHTM. Đối với bản thân Ngân hàng Thương mại, các khoản nợ quá hạn làm cho ngân hàng không thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn đặt ra trong hợp đồng. Nợ quá hạn làm chậm tốc độ chu chuyển vốn của NH dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, nợ quá hạn còn gây nên hậu quả làm giảm khả năng thanh toán, thậm chí làm mất khả năng thanh toán của NHTM. Như ta đã biết, Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”, vốn cho vay chủ yếu dựa trên nguồn vốn ngân hàng huy động được và lãi suất cho vay phải lớn hơn lãi suất huy động thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới đảm bảo an toàn và có hiệu quả. Các khoản nợ quá hạn một mặt làm kéo dài thời hạn các khoản tín dụng, mặt khác có khả năng dẫn đến làm mất vốn của các NHTM làm cho các ngân hàng thương mại rơi vào tình thế không đảm bảo khả năng hoàn trả vốn cho người gửi tiền. Tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời có thể làm giảm uy tín của ngân hàng một cách nghiêm - 17 trọng, đánh mất lòng tin của người gửi tiền đối với ngân hàng. Những người gửi tiền đồng loạt đòi rút tiền đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Các khoản nợ quá hạn luôn chứa đựng khả năng không thu hồi được vốn (một phần hoặc toàn bộ) và đặt NHTM trước tình trạng mất vốn. [2] 1.2.3.2, Đối với nền kinh tế Lịch sử hoạt động của các ngân hàng trên thế giới đã chứng kiến không ít các trường hợp mà các NHTM lớn bị phá sản đã làm chao đảo nền kinh tế tài chính của đất nước, thậm chí hậu quả của nó còn lan tràn sang cả các quốc gia trong khu vực hay toàn châu lục. Do vậy tình trạng gia tăng các khoản nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng ngân hàng tuỳ theo tính chất và mức độ mà gây tác hại ở các cấp độ khác nhau tới ngân hàng đồng thời tác động xấu đến hoạt động của các doanh nghiệp và tổ chức khác có liên quan với ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Trên giác độ vĩ mô, nợ quá hạn thực sự làm giảm tính tích cực của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế. Ngân hàng thương mại thông qua việc cấp tín dụng cho khách hàng của mình đã thực hiện đầu tư cho sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo thêm những sản phẩm mới cho xã hội, tạo công ăn việc làm, đồng thời tăng thu nhập và tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Hiện tượng nợ quá hạn xảy ra chứng tỏ người vay vốn đã không thực hiện hiệu quả đầu tư như đã dự kiến khi nhận vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại. Ở mức độ trầm trọng, nợ quá hạn không chỉ làm cho một NHTM bị mất vốn, mất khả năng thanh toán, đi đến phá sản ngân hàng mà còn kéo theo sự chao đảo của một loạt các ngân hàng thương mại khác trong hệ thống các ngân hàng. Sự việc đó sẽ gây rối loạn quá trình lưu thông tiền tệ trong nước, giảm giá đồng nội tệ, dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh, gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Tác hại của nợ quá hạn không chỉ đổ lên một quốc gia mà còn kéo theo sự lung lay của một loạt nền kinh tế của các nước có liên quan, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền tài chính thế giới. [2] 1.3. Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại 1.3.1, Khái niệm quản trị rủi ro trong NHTM Quản trị rủi ro là quá trình xác định các rủi ro và tìm cách quản trị, hạn chế các rủi ro đó xảy ra với tổ chức. Một cách tổng quát, đây là quá trình xem xét toàn bộ hoạt - 18 động của tổ chức, xác định các nguy cơ tiềm ẩn và khả năng xảy ra các nguy cơ đó. Từ đó có sự chuẩn bị các hành động thích hợp để các rủi ro đó ở mức thấp nhất. [6] 1.3.2, Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng trong NHTM Quản trị rủi ro tín dụng trong NHTM là quá trình NH tác động đến hoạt động tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.[6] 1.3.3, Mục tiêu của công tác quản trị rủi ro tín dụng Mục tiêu công tác QTRRTD trong NHTM là đảm bảo hoạt động cho vay phát triển, an toàn và hiệu quả cao; hạn chế và kiểm soát được những tổn thất phát sinh từ hoạt động tín dụng; từ đó đem lại lợi nhuận cao nhất cho hoạt động NH. Để tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu của NH (các cổ đông), hoạt động tín dụng ngoài mục tiêu tạo ra giá trị và bảo toàn được giá trị đó, còn phải bảo vệ được thương hiệu NH. Như vậy, mục tiêu của QTRRTD là tối đa hóa tỷ lệ thu nhập đã được điều chỉnh rủi ro của NH bằng việc duy trì mức độ RRTD trong phạm vi chấp nhận được. Do vậy, các NH cần QTRR vốn có, hiện hữu cả danh mục đầu tư cũng như trong từng khoản vay, từng hoạt động kinh doanh riêng lẻ. RRTD cần được xem xét trong mối tương quan với các loại rủi ro khác. [6] 1.3.4, Các công cụ chính để quản trị rủi ro tín dụng gồm có: ™ Chính sách tín dụng. ™ Giới hạn cấp tín dụng. ™ Định giá khoản vay. ™ Xếp hạng tín dụng. ™ Tài sản thế chấp. ™ Đa dạng hóa danh mục đầu tư.[6] 1.3.5, Phương pháp quản trị rủi ro tín dụng - Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, công tác QTRRTD trước hết phải đảm bảo các bước của quản trị nói chung, bao gồm: hoạch định, tổ chức, bố trí, lãnh đạo và kiểm tra. - 19 - Bên cạnh đó, với tính chất đặc thù của RRTD, đứng ở nhiều góc độ khác nhau, phương pháp QTRRTD cũng được nhìn nhận và được thực hiện phối hợp theo nhiều hướng: 1.3.5.1, Quản trị rủi ro tín dụng theo yếu tố tác động Là phương pháp nhằm nhận dạng và quản trị những yếu tố có tác động, gây ảnh hưởng đến RRTD. Bao gồm các nhóm yếu tố sau: - Yếu tố thuộc về ngân hàng: Chính sách tín dụng, mô hình QTRR, chất lượng nguồn nhân lực, công tác thẩm định tín dụng, công tác giám sát-kiểm tra sau, tốc độ tăng trưởng tín dụng, đối tượng KH, thời hạn cho vay, đối tượng cho vay, định giá khoản vay, tài sản thế chấp, đa dạng hóa danh mục, rủi ro đạo đức, chính sách quản trị nguồn nhân lực,… - Yếu tố thị trường: Chu kỳ kinh tế, lạm phát, lãi suất, hối đoái, giá cả và thị trường, rủi ro chính sách,… - Yếu tố thuộc về khách hàng: Tính khả thi, hiệu quả của phương án vay, tài sản đảm bảo, khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời, hệ số đòn bẩy, hiệu quả quản lý vốn, dòng tiền, đạo đức chủ doanh nghiệp, năng lực trình độ quản lý, triển vọng ngành, khả năng cạnh tranh, đa dạng hóa kinh doanh,… - Yếu tố khác: Tính chính xác và sẵn có của thông tin, hành lang pháp lý, vai trò giám sát của NHNN,… Đối với từng loại yếu tố, NH cần lựa chọn biện pháp quản trị thích hợp. Chẳng hạn, đối với các yếu tố thuộc về NH thì chủ động điều chỉnh, các yếu tố thị trường thì phòng ngừa hoặc né tránh, các yếu tố thuộc về KH thì ngăn chặn, các yếu tố thuộc về chính sách thì kiến nghị,… [6] 1.3.5.2, Quản trị theo phân đoạn cấp tín dụng Công tác quản trị tín dụng được thực hiện khác nhau ở từng phân đoạn cấp tín dụng. Bao gồm: - Trước khi giải ngân: Bao gồm từ công tác hoạch định chính sách đến triển khai thực hiện thẩm định và ra quyết định cấp tín dụng. Đây là giai đoạn mang tính quyết định đối với toàn bộ quá trình (mặc dù những phân đoạn sau của quá trình cấp tín dụng cũng không thể xem nhẹ). - 20 - Trong khi giải ngân: Bao gồm công tác thiết lập hồ sơ và kiểm tra trong khi giải ngân. Những công việc trong phân đoạn này mang tính thụ tục và pháp lý cao. - Sau khi giải ngân: Nguyên nhân rủi ro có thể đã tiềm ẩn ngay từ trong hai phân đoạn đầu (trước và trong khi giải ngân), tuy nhiên RRTD chỉ thực sự bộc lộ và phát sinh sau khi giải ngân. Chính vì vậy, công tác kiểm tra giám sát khoản vay và phân loại nợ được chú trọng ở phân đoạn này. [6] 1.3.5.3, Quản trị theo thời điểm phát sinh rủi ro tín dụng - Trước khi rủi ro xảy ra: 9 Nhận định và đánh giá rủi ro. 9 Xác định mức độ chịu rủi ro. 9 Nắm bắt và thực hành các bước dự báo. 9 Loại bỏ nếu rủi ro quá lớn. 9 Tài trợ những rủi ro chấp nhận được bằng cách chọn phương pháp tự tài trợ, bảo hiểm, phân tán rủi ro. - Sau khi rủi ro xảy ra: 9 Quản trị thiệt hại, lên kế hoạch phục hồi. Tóm lại, nhiệm vụ của công tác QTRRTD là dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn, phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng, giải quyết hậu quả rủi ro để hạn chế các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của NH. Đây là quá trình logic chặt chẽ và để hạn chế RRTD, nhà quản trị phải làm tốt từ khâu dự báo, phòng ngừa cho đến khâu giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra. [6] 1.3.6, Đo lường rủi ro tín dụng Trên thực tế có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đo lường rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng bao gồm mô hình định tính và mô hình định lượng. [7]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất