Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh sơn ...

Tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh sơn la hiện nay

.PDF
63
294
133

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY Thuộc nhóm ngành khoa học: CNDVBC&CNDVLS Sơn La, tháng 05 năm 2017 TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY Thuộc nhóm ngành khoa học: CNDVBC&CNDVLS Sinh viên thực hiện: Vàng Thị Thuyết Giới tính: Nữ Dân tộc: Thái Khoàng Thị Anh Giới tính: Nữ Dân tộc: Thái Quàng Thị Hạnh Giới tính: Nữ Dân tộc: Thái Lớp: K55 ĐHGD Chính trị B Khoa: Lý luận Chính trị Năm thứ 3/Số năm đào tạo: 4 Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Vàng Thị Thuyết Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thanh Thủy Sơn La, tháng 05 năm 2017 LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thàn đề tài nghiên cứu khoa học này, nhóm nghiên cứu đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, chúng tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới: Th.S. Nguyễn Thanh Thủy - giảng viên trực tiếp hướng dẫn, cô đã hết lòng giúp đỡ, động viên nhóm nghiên cứu trong những lúc khó khăn và hướng dẫn chúng tôi rất chu đáo trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài. Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô giáo trong khoa Lý luận chính trị, Phòng nghiên cứu khoa học trường Đại học Tây Bắc. Xin cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường đã nhiệt tình giúp đỡ tạo điều kiện về mặt thời gian và công việc để nhóm nghiên cứu có thể hoàn thành đề tài theo đúng tiến độ. Sơn La, tháng 05 năm 2017 Sinh viên thực hiện Vàng Thị Thuyết Khoàng Thị Anh Quàng Thị Hạnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ..................................................................................3 3.1. Mục đích của đề tài ....................................................................................................3 3.2. Nhiệm vụ của đề tài ...................................................................................................3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................3 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................................3 6. Những đóng góp mới của đề tài ...................................................................................3 7. Kết cấu của đề tài ..........................................................................................................4 Chƣơng 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI .......................................................................5 1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguồn nhân lực ....................................................................5 1.1.1. Quan niệm Mác – xít về con người ..........................................................................5 1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.....................8 1.1.3. Đặc điểm của nguồn nhân lực ..............................................................................12 1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ..................................14 1.2.1. Nguồn nhân lực là điều kiện nền tảng, bắt buộc và không thể thiếu của các hoạt động kinh tế, xã hội .........................................................................................................14 1.2.2. Nguồn nhân lực là động lực của các hoạt động kinh tế, xã hội ...........................16 1.2.3. Nguồn nhân lực là mục tiêu của các hoạt động kinh tế, xã hội ...........................16 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY ..............................................18 2.1. Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La ........................................................................................18 2.1.1. Điều kiện tự nhiên.................................................................................................18 2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội .....................................................................................19 2.1.3. Về văn hóa - xã hội ...............................................................................................21 2.1.4. Đặc điểm nguồn nhân lực tỉnh Sơn La hiện nay. .................................................25 2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay ...............................29 2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân trong phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn la hiện nay ...................................................................................................................................29 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân trong phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay..38 2.3. Một số giải pháp tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La thời gian tới ........43 KẾT LUẬN ....................................................................................................................55 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................56 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1 : Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính và phân theo thành thị, nông thôn ........................................................................................................26 Bảng 1.2 : Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc phân theo loại hình kinh tế .......27 Bảng 1.3 Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc phân theo thành thị, nông thôn...........27 Bảng 2.1: Số lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình doanh nghiệp ...................................................................................................................30 Bảng 2.2.: Số trường học, lớp học mầm non..................................................................32 Bảng 2.3.: Số giáo viên và học sinh mầm non ...............................................................32 Bảng 2.4.: Số trường học, lớp học phổ thông ................................................................33 Bảng 2.5.: Số giáo viên phổ thông .................................................................................33 Bảng 2.6: Số học sinh phổ thông ....................................................................................33 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng. Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với những mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta.Với tính cách đó con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, trong thời đại mới con người phải hội tụ đủ đức, trí, thể, mỹ.Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện, đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hóa và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế trên thế giới. Sơn La là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc thiểu số, kinh tế chưa phát triển, là một tỉnh nghèo nên vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy còn nhiều khó khăn song đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La luôn đoàn kết, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để Sơn La sớm đạt tới trình độ phát triển chung của các địa phương trong cả nước. Vấn đề đặt ra hiện nay với tỉnh Sơn La là làm thế nào khơi dậy và phát huy sức mạnh nguồn nhân lực con người như thế nào để tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong nền sản xuất hiện đại không chỉ đơn thuần là có sức khỏe, có kinh nghiệm, mà hơn thế nữa phải có năng lực, có trình độ, phải không ngừng học hỏi, không ngừng sáng tạo và phải nhanh nhạy nắm bắt những thành tựu mới của nhân loại. Xuất phát từ lý do trên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La hiện nay. 1 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về con người và nguồn lực con người dưới những góc độ khác nhau, có thể kể đến: Đoàn Văn Khải (2005), Nguồn nhân lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội: tác giả cuốn sách này đã trình bày một số vấn đề chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên thế giới và Việt Nam; vai trò của nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực trạng nguồn lực con người ở Việt Nam và những vấn đề đạt ra trước công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Phạm Minh Hạc chủ biên (1996), “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ”, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội: cuốn sách đề cập một cách tương đối có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phân tích sự qua lại giữa các nguồn lực: nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý,... trong đó yếu tố quyết định chính là nguồn lực con người. Viện thông tin khoa học xã hội (1995), Con người và nguồn lực con người trong quá trình phát triển, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Bàn về khái niệm, điều kiện và tính tất yếu cần phát huy nguồn lực con người. Nguyễn Như Diện (2003), Con người và nguồn lực con người trong phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bàn về quan điểm con người, điều kiện, nguyên nhân và tính cấp thiết nâng cao nguồn lực con người. Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đề tài khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người là phát huy tổng hợp các yếu tố trí, đức, thể, mỹ, kỹ. Trần Thị Thủy (2002), Nhân tố con người và những giải pháp phát huy nhân tố con người, Luận án tiến sĩ triết học, Học viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, bàn về khái niệm, điều kiện, tính tất yếu và giải pháp phát huy nhân tố con người. 2 Tuy nhên, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về “Nâng cao nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội tỉnh Sơn la hiện nay”.Do vậy, trong đề này, tác giả kế thừa những thành quả đã đạt được của những công trình đã nêu trên, nhằm tổng kết đánh giá đúng thực trạng phát triển nguồn nhân lực của tỉnh; làm rõ những vấn đề đạt ra; từ đó đề xuất một số giải pháp có tính định hướng nhằm tiếp tục phát triển, phát huy và khai thác nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài Tập trung làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả và nâng cao, phát huy chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay. - Phân tích đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay : thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu hạn, chế đó. - Đưa ra một số giải pháp có tính định hướng cho việc tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở Sơn La hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Đề tài sử dụng chủ yếu các phương pháp sau : + Phương pháp phân tích . + phương pháp tổng hợp. + Phương pháp xử lý số liệu. + Phương pháp thống kê. + Các phương pháp của CNDVBC và CNDLS 6. Những đóng góp mới của đề tài - Làm rõ thực trạng nâng cao nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay 3 - Đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn tới. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu theo 2 chương, 6 tiết. 4 Chƣơng 1 NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguồn nhân lực 1.1.1. Quan niệm Mác – xít về con người Ngay từ khi triết học ra đời, vấn đề con người đã trở thành trung tâm, là đối tượng tranh luận của nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái triết học khác nhau. Con người là gì? Bản chất và vai trò của con người trong tiến trình lịch sử ra sao? Các nhà triết học đã lý giải trên lập trường thế giới quan và phương pháp luận khác nhau và vì vậy đã hình thành nên những quan niệm khác nhau về con người. Thời cổ đại, do hạn chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, do trình độ sản xuất thấp kém, khoa học chưa phát triển, nên quan niệm về con người của các nhà triết học còn phiến diện, mang tính thần bí, siêu hình... thường tuyệt đối hóa một mặt, một yếu tố vật chất hoặc tinh thần nào đó. Thời kỳ trung cổ ở Phương Tây, do ảnh hưởng nặng nề của thần học, các quan niệm về con người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu như là sự sáng tạo của thượng đế, của đức chúa trời. Thời kỳ phục hưng và khai sáng được coi như là bắt đầu một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người, quan niệm về con người thường gắn với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới nhu cầu giải phóng con người khỏi thần học, khỏi các điều kiện áp bức, nô dịch trong xã hội. Nó khẳng định con người cá nhân – cái tôi như một chủ thể. Tuy nhiên do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phản ánh những khía cạnh hạn hẹp, thiếu tính hệ thống. Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc cũng có những giá trị trong việc xem xét bản chất con người. Phoiơbắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị thượng đế đứng ngoài, sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người. Theo ông không phải Thượng đế sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra Thượng đế theo hình ảnh của mình. Tuy nhiên, con người trong triết học Phoiơbắc chỉ là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Do đó, triết học nhân bản của Phoiơbắc vẫn chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm, đặc biệt khi ông cho bản chất của con người là tình yêu và đề xuất tôn giáo tình yêu. 5 Tóm lại những sai lầm, thiếu sót chủ yếu trong nhận thức triết học về bản chất con người của các hệ thống triết học trước Mác là do xuất phát từ lập trường duy tâm hoặc từ phương pháp siêu hình trong cách xem xét các vấn đề con người. Mác và Ăngghen đã vượt qua tất cả quan niệm trừu tượng về con người và đưa ra một cách tiếp cận mới về con người: Con người hiện thực. “Đó là cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động vật chất của họ sáng tạo ra”[5, 17]. Để đi tới nhận thức con người hiện thực, Mác và Ăngghen đã lấy hoạt động thực tiễn của con người làm điểm xuất phát. Chính từ trong thực tiễn mà con người có quan hệ với tự nhiên (nhận thức, cải tạo tự nhiên), mà các quan hệ xã hội của con người được hình thành. Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi đời sống hiện thực xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình. Từ đó con người làm nên và sáng tạo ra nền văn hóa của nhân loại. Với cách tiếp cận con người hiện thực – con người thực tiễn, triết học Mác – xít quan niệm: Thứ nhất: Con người là một thực thể thống nhất biện chứng giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Xét về nguồn gốc, con người là sản phẩm tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Cho nên, con người không tách rời tự nhiên là một bộ phận của giới tự nhiên. Như F. Ăngghen đã nhận xét: “Bản thân chúng ta – với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên” [6, 218], chính vì vậy, con người có những nhu cầu tự nhiên giống như ở động vật như ăn, uống, sinh sản, tự vệ... Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người và thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Triết học Mác xem xét con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng tất cả cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [3, 29] Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “ con người chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ 6 giới tự nhiên”.[4, 137] Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập các quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng người. Với phương pháp duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “ nhân hóa ” để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện với nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội. Thứ hai: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của các mối quan hệ xã hội trong việc tạo nên bản chất con người. Trong luận cương về Phơiơbắc, C.Mác viết: “... bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”[3, 11]. Với quan niệm đó, Mác chỉ ra rằng: bản chất con người không phải là trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Thứ ba: con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hưu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác 7 khẳng định “xã hội sản xuất ra con người với tư cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” [2, 130] Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Trái với thế giới loài vật chỉ dựa vào những điều kiện có sẵn trong tự nhiên. Con người thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Như vậy, triết học Mác – xít không dừng lại ở điều khẳng định rằng, con người là sản phẩm của lịch sử, mà còn tiến lên khẳng định vị thế của con người là chủ thể của lịch sử. Con người đóng vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử thông qua các hoạt động cải tạo thế giới bằng hoạt đó, con người sáng tạo ra lịch sử xã hội và sáng tạo ra chính mình. 1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thứ nhất, khái niệm về nguồn nhân lực Một quốc gia muốn phát triển thì phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như : tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người,... trong các nguồn lực đó, nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì? Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, đối với các nước đang phát triển, giải quyết vấn đề này đang là yêu cầu được đặt 8 ra hết sức bức xúc, vì nó vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến lược xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. “Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực”, là khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau. Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” . Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong môi trường sống của họ. Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai. Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa. Theo TS Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng 9 triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn. Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển. Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá. Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội. Khái niệm “nguồn nhân lực” (Human Resoures) được hiểu như khái niệm “nguồn lực con người”. Khi được sử dụng như một công cụ điều hành, thực thi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động - hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là lực lượng lao động. Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, có thể định nghĩa: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức 10 tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng, miền hay quốc gia thì nguồn nhân lực là tài nguyên cơ bản nhất. Thứ hai, khái niệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đối với cá nhân người lao động thì: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” là gia tăng giá trị con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kĩ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới cao hơn đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với tổ chức, doanh nghiệp: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” chỉ việc thực hiện một số hoạt động nào đó dẫn đến sự thay đổi về chất lượng nguồn nhân lực tăng lên so với chất lượng nguồn nhân lực hiện có. Đó là sự tăng cường sức mạnh, kĩ năng hoạt động sáng tạo của năng lực thể chất, năng lực tinh thần của lực lượng lao động lên trình độ nhất định để lực lượng này có thể hoàn thành được nhiệm vụ đặt ra trong những giai đoạn phát triển của một quốc gia, một tổ chức, doanh nghiệp. Thể lực: là yêu cầu đầu tiên đối với người lao động, đây là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện thiết yếu để chuyền tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, hàm lượng tri thức trong sản phẩm lao động chiếm tỷ trọng lớn thì yêu cầu về sức khỏe tâm thần càng cao bởi nó là cơ sở của năng lực tư duy, sáng tạo. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là thể lực của người lao động Việt Nam tuy có tăng so với trước nhưng vẫn còn khá thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Người lao động Việt Nam có tầm vóc nhỏ bé, sức khỏe yếu vì thế gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình lao động đặc biệt là khi xuất khẩu lao động. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là thực sự cần thiết để cải thiện tình trạng này. Trí lực: Người lao động phải có năng lực thu thập xử lí thông tin, khả năng sáng tạo, áp dụng những thành tựu khoa học, biến những tri thức thành kĩ năng lao động nghề nghiệp thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn nghề nghiệp, trong xu thế toàn cầu hóa, người lao động cần phải biết chủ động tham gia hội nhập quốc tế,… Có một thực tế hiện nay là một bộ phận lao động Việt Nam có bằng cấp cao nhưng không làm được việc hoặc làm việc không hiệu quả, bằng cấp Việt Nam không có giá trị khi mang ra nước ngoài, do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân 11 lực để chất lượng nguồn nhân lực tương xứng với bằng cấp là việc làm cần thiết. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra nguồn nhân lực đủ mạnh về tri thức chuyên môn, tay nghề, kĩ năng sẽ tạo ra năng suất, hiệu quả lao động cao hơn, đem lại nhiều giá trị hơn cho doanh nghiệp và xã hội. Tâm lực: thể hiện qua tác phong, thái độ, ý thức làm việc,… Một tồn tại lâu nay của lao động Việt Nam là ý thức, tác phong làm việc chưa cao, còn tình trạng nhiều lao động chưa có tác phong công nghiệp, giờ “cao su”, vi phạm kỉ luật lao động, không có ý thức bảo vệ tài sản chung, tham ô, tham nhũng, trốn việc, làm việc riêng trong thời gian lao động,… Điều này gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp, khiến các doanh nghiệp nước ngoài e ngại khi có ý định đầu tư vào Việt Nam. Do vậy, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nguồn nhân lực Việt Nam không chỉ mạnh về trí lực, thể lực mà còn đảm bảo tâm lực. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là hoạt động cần thiết đối với mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Để làm được việc đó, tổ chức doanh nghiệp cần tập trung nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và đào tạo lại; nâng cao thể lực thông qua chăm sóc sức khỏe, an toàn vệ sinh lao động; nâng cao tinh thần, trách nhiệm trong công việc thông qua các kích thích vật chất và tinh thần, tạo điều kiện về môi trường làm việc để người lao động phát huy hết khả năng, đem hết sức mình nhằm hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. 1.1.3. Đặc điểm của nguồn nhân lực Qua nghiên cứu khái niệm nguồn lực con người, chúng ta có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản của nguồn lực con người như sau : Thứ nhất, “nguồn nhân lực ” được biểu hiện ra là lực lượng lao động, là nguồn lao động ( đội ngũ hiện có và sẽ có ). Bên cạnh đó, khi đề cập đến nguồn lực con người còn nói đến quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số của một địa phương, một số quốc gia trong một thời kỳ nhất định; tức là phản ánh cơ cấu dân cư và phân bố , sắp xếp nguồn lao động trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế khác nhau, giữa các vùng miền của đất nước. Thứ hai, “Nguồn nhân lực” phản ánh chất lượng dân số của lực lượng lao động, biểu hiện ra ở hiện tại và còn đang tiềm tàng. Tuy nhiên, chất lượng của nguồn lực con người luôn có mối quan hệ biện chứng với số lượng. Khi nguồn lực con người có chất lượng cao nhưng số lượng hạn chế, cơ cấu không phù hợp sẽ rất khó khăn cho sự phát 12 triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, dân số đông, tăng nhanh nhưng trình độ thấp thì rất khó khăn cho việc sử dụng có hiệu quả, và còn tạo sức ép lớn do sự nảy sinh các vấn đề xã hội. Thứ ba, “nguồn nhân lực” được coi là nguồn lực nội tại và cơ bản nhất, đặc biệt nhất trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế và xã hội. Nếu các nguồn lực khác khi sử dụng, khai thác không những không được tái tạo mà ngày càng cạn kiệt, thì nguồn lực con người, mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại có tiềm năng vô tận càng khai thác, sử dụng càng tạo ra giá trị cao hơn. Nó có khả năng tái tạo, phục hồi và tự đổi mới. Nguồn sức mạnh to lớn đó ngoài việc biểu hiện ở khía cạnh thể lực còn thể hiện ra ở trí lực, niềm tin, ý chí . Điều quan trọng hơn là ở sự gắn kết biện chứng giữa hai yếu tố sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và sự cộng hưởng của sự liên kết cộng đồng xã hội, được biểu lộ ra ở hiện tại và trong tương lai. Thứ tư, “nguồn nhân lực” còn bao hàm cả sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại lẫn nhau giữa nó với các nguồn lực khác và môi trường xung quanh. Hay có thể thấy nó biểu hiện thông qua ba mối quan hệ chính: Quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với chính mình. Thứ năm, “nguồn nhân lực” còn chỉ ra rằng: con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Sức mạnh của nguồn lực con người thể hiện ở sức mạnh thể lực, trí lực, niềm tin, ý chí... Ở sự thống nhất biện chứng giữa các sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng, không chỉ trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm năng. Là một nguồn lực, cũng như các nguồn lực khác ( tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ...) con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Song, so với các dạng nguồn lực khác, nguồn lực con người là một dạng nguồn lực đặc biệt, có nó các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội. Tính đặc biệt thể hiện: Đây là một dạng nguồn lực có sức mạnh tự thân. Sức mạnh tự thân có được là nhờ sự kết hợp giữa các yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan của mỗi người để tạo nên sức mạnh của cộng đồng. Quá trình sử dụng nguồn lực không bao giờ cạn kiệt vì nó có khả năng tự phục hồi, khả năng tự tái sinh. Đây cũng là dạng nguồn lực có ý thức, có khả năng trí tuệ, do đó những giá trị mà nó đem lại vô cùng to lớn nếu 13 biết phát huy hợp lý. Mặt khác, đây cũng là dạng nguồn lực mở, sự dồi dào hay cạn kiệt về nguồn lực phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan, khả năng phát huy và sử dụng của các tổ chức hay cá nhân đối với nguồn lực. Qua đây có thể thấy rằng, nguồn lực con người có cấu trúc đặc biệt. Nó được xem xét đến với tư cách vừa là khách thể đồng thời cũng là chủ thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi nói con người là chủ thể, trước hết bằng trí tuệ, khả năng tư duy của chính mình, con người có khả năng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác phục vụ cho nhu cầu và mục đích của mình. Hơn nữa, con người còn làm cho các nguồn lực ngày càng phong phú và đa dạng. Đứng trên phương diện là khách thể, con người trở thành đối tượng khai thác, sử dụng sức lao động cả về thể lực và trí lực nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì thế, con người vừa là chủ thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. 1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội Con người không chỉ là chủ thể của tự nhiên mà còn là chủ thể cải biến tích cực của tự nhiên và xã hội. Đồng thời, con người là điểm khởi đầu và kết thúc của mọi quá trình lịch sử. Nguồn lực con người đóng vai trò là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là lực lượng sản xuất quyết định nhất của xã hội. 1.2.1. Nguồn nhân lực là điều kiện nền tảng, bắt buộc và không thể thiếu của các hoạt động kinh tế, xã hội Kinh tế gia nổi tiếng William Petty đã từng khẳng định rằng, lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất. C.Mác cho rằng, con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Thân Nhân Trung. Nhà tương lai Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức, theo ông ta “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”. [60.131]. Theo đó, ngày nay trong bối cảnh khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do vậy, nguồn nhân lực có chất lượng là nguồn nhân lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Như mọi hoạt động sáng tạo khác, lao động trí tuệ với tư cách là một yếu tố cấu thành của nguồn lực con người muốn được phát huy cũng cần có môi trường xã hội thích hợp. Cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội thích hợp. Cả môi trường tự 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan