Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu k...

Tài liệu Nâng cao chất lượng huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu kỹ thuật

.PDF
199
989
132

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống giáo dục của Quân đội được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, mà trực tiếp là Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng. Hệ thống giáo dục trong các nhà trường Quân đội đã được tổ chức và quản lý chặt chẽ, công tác đào tạo trong các nhà trường quân sự luôn được chú trọng, không ngừng đổi mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, đổi mới giáo dục và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”. Đặc biệt là sự đổi mới về chủ trương đường lối, việc xây dựng mục tiêu, mô hình, chương trình giáo dục đào tạo. Hệ thống nhà trường trong Quân đội đã đào tạo bồi dưỡng được một số lớn cán bộ, nhân viên kỹ thuật các loại, đáp ứng được một phần quan trọng yêu cầu về số lượng và từng bước được nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên, về chất lượng còn nhiều mặt chưa được như mong muốn, đặc biệt về khả năng thực hành của số cán bộ này, khi về đơn vị họ còn lúng túng... Có nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề huấn luyện thực hành (HLTH) trong quá trình đào tạo. Các nhà trường, cơ sở đào tạo đã cố gắng khắc phục, nhưng còn nhiều bất cập, bởi vì HLTH đòi hỏi phải có đội ngũ giảng viên, nhân viên kỹ thuật giỏi và đặc biệt là phải có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại. Đó là những thứ quý hiếm, đắt tiền, các cơ sở này chưa thể có ngay... Để nâng cao chất lượng HLTH, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chỉ huy tham mưu kỹ thuật (CHTMKT) trong bối cảnh như đã nêu là rất cấp thiết trong tình hình hiện nay. Cũng đã có các công trình nghiên cứu về công tác đào tạo nói chung và một số công trình nghiên cứu về HLTH nói riêng, nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về nâng cao chất lượng HLTH cho loại hình đào tạo cán bộ CHTMKT. Vì vậy, nghiên cứu “Nâng cao chất lượng huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu kỹ thuật ” là vấn đề cấp 2 thiết và không trùng với các công trình đã công bố trước đây. 2. Mục tiêu của luận án Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đào tạo cán bộ CHTMKT, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng HLTH, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ CHTMKT. 3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Công tác huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ CHTMKT cấp CT-CD cho quân đội trong tình hình mới. 4. Phạm vi nghiên cứu Nâng cao chất lượng HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT liên quan đến nhiều vấn đề, luận án tập trung chủ yếu vào vấn đề giảng viên tham gia quá trình HLTH, nội dung HLTH trong chương trình đào tạo, phương pháp HLTH, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT (dài hạn) và đào tạo cao học Chỉ huy, quản lý kỹ thuật tại Học viện KTQS và một số cơ sở khác có đào tạo loại hình tương tự. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, vận dụng các phương pháp: lịch sử, lô gich, hệ thống cấu trúc, toán học và phương pháp chuyên gia. 6. Đóng góp mới của luận án Trên cơ sở làm rõ yêu cầu chất lượng cán bộ CHTMKT trong bối cảnh ngày nay và chất lượng HLTH trong đào tạo đội ngũ cán bộ này, đề xuất một số giải pháp cơ bản có thể áp dụng vào thực tiễn HLTH. Trọng tâm của những đóng góp mới đó là, Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng nâng cao năng lực thực hành cho cán bộ CHTMKT; Nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, giảng viên HLTH; Lựa chọn phương pháp dạy - học thích hợp với nội dung chương trình trong đào tạo cán bộ CHTMKT; Đổi mới phương pháp bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ huấn luyện thực hành; Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong HLTH. Những đóng góp mới này là một trong những yếu tố thiết thực nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ cán bộ CHTMKT. 3 7. Kết cấu của luận án Gồm: Mở đầu, 4 chương, kết luận, kiến nghị và các phụ lục. Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Để hiểu rõ hơn về đề tài luận án, chương 1 trình bày tổng quan một số vấn đề có liên quan, qua đó rút ra những nội dung cần giải quyết. Chương 2: Cơ sở khoa học nâng cao chất lượng HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT Luận án nghiên cứu và quán triệt một số quan điểm của Đảng, Nhà nước và của Quân đội có liên quan đến đào tạo cán bộ CHTMKT; làm rõ những yếu tố chi phối đến chất lượng HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT và thực trạng HLTH hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp trong chương 3 nhằm nâng cao chất lượng HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ CHTMKT Trên cơ sở khoa học đã trình bày ở chương 2, luận án đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT, đó là: Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng nâng cao năng lực thực hành cho cán bộ CHTMKT; Nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, giảng viên HLTH; Lựa chọn phương pháp dạy - học thích hợp với nội dung chương trình trong đào tạo cán bộ CHTMKT; Đổi mới phương pháp bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ huấn luyện thực hành; Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong HLTH. Chương 4: Kiểm tra kết quả nghiên cứu và bàn luận Luận án sử dụng phương pháp chuyên gia nhằm thẩm định cơ sở khoa học, tính hợp lý của những nội dung chính đề xuất trong luận án; đồng thời vận dụng một phần kết quả nghiên cứu để triển khai thực hiện xây dựng phần mềm mô phỏng 3D phục vụ cho HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Để hiểu rõ hơn về đề tài luận án, chương 1 trình bày tổng quan một số vấn đề có liên quan, qua đó rút ra những nội dung cần giải quyết, bao gồm: 1.1. CÁN BỘ CHỈ HUY THAM MƯU KỸ THUẬT 1.1.1. Khái quát chung về cán bộ kỹ thuật quân sự Cán bộ kỹ thuật quân sự là một bộ phận cán bộ trong thành phần của cán bộ quân đội được giao các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật – vật tư kỹ thuật trong công tác bảo đảm kỹ thuật quân sự hoặc nghiên cứu giảng dạy, sản xuất trong ngành kỹ thuật quân sự. Theo chuyên ngành kỹ thuật quân sự có cán bộ: Quân khí, Xe máy, Tăng - Thiết giáp, Thông tin, Tên lửa, Pháo binh, Công binh, Hải quân, Không quân, Phòng không, Tác chiến điện tử... Trong tương lai, có thể còn có thêm một số chuyên ngành kỹ thuật công nghệ cao... [13], [20], [39]. Theo lĩnh vực công tác, có: Cán bộ chỉ huy tham mưu kỹ thuật, cán bộ làm công tác chỉ huy, quản lý, chỉ đạo các hoạt động công tác kỹ thuật từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên đối với các chức danh như Điều lệ công tác kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã quy định; Cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự: cán bộ kỹ thuật làm công tác nghiên cứu, quản lý ở các trung tâm, viện nghiên cứu; Cán bộ giảng dạy khoa học kỹ thuật quân sự, cán bộ kỹ thuật làm công tác giảng dạy và quản lý đào tạo tại các học viện, nhà trường đào tạo cán bộ kỹ thuật và các học viện, nhà trường khác...; Cán bộ làm công tác khai thác và sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật làm công tác sử dụng, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, niêm cất, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật, vật tư kỹ thuật ở các nhà máy, các xưởng, các cơ sở đo lường và chất lượng; các kho, các trạm bảo dưỡng, sửa chữa; cán 5 bộ kỹ thuật cấp tiểu đoàn, đại đội, trung đội; trợ lý kỹ thuật cấp sư đoàn, trung đoàn và tương đương... Theo định nghĩa trên: - Cán bộ CHTMKT, một bộ phận cán bộ kỹ thuật, là những người trực tiếp chỉ huy, làm công tác tham mưu - kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác kỹ thuật trong các phân đội, cơ sở và cơ quan kỹ thuật các cấp; - Theo cấp, có: cán bộ CHTMKT cấp chiến thuật, chiến dịch, chiến lược; - Theo trình độ học vấn, có: cán bộ CHTMKT có trình độ đại học, sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) về kỹ thuật, tổ chức chỉ huy kỹ thuật và dưới đại học (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng kỹ thuật); - Theo chức vụ, có: trợ lý kỹ thuật, chủ nhiệm kỹ thuật các cấp, chỉ huy các cơ sở BĐKT, trưởng các chuyên ngành kỹ thuật trong cơ quan kỹ thuật các cấp; - Theo ngành kỹ thuật, có: cán bộ CHTMKT ngành quân khí, xe máy, thông tin, công binh... theo quy định trong Điều lệ Công tác kỹ thuật QĐNDVN. 1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ CHTMKT Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, quan tâm đến hai vấn đề: vị trí và vai trò của các nhóm cán bộ CHTMKT ở các cơ quan kỹ thuật và cơ sở kỹ thuật. Các vị trí chức danh cán bộ CHTMKT ở CQKT các cấp Xuất phát từ thực tế tổ chức biên chế ngành kỹ thuật, căn cứ vào Điều lệ công tác kỹ thuật QĐNDVN, cán bộ CHTMKT ở CQKT các cấp được bố trí vào các vị trí chỉ huy hoặc làm tham mưu kỹ thuật, như Chủ nhiệm kỹ thuật, trưởng các chuyên ngành, thủ trưởng các cơ quan, cơ sở kỹ thuật, trợ lí cơ quan kỹ thuật các cấp... Vai trò của cán bộ chỉ huy tham mưu ở cơ quan kỹ thuật các cấp được quy định trong Điều lệ Quản lý bộ đội [15] và Điều lệ Công tác kỹ thuật QĐNDVN [14]. Các vị trí nhóm cán bộ CHTMKT ở CSKT các cấp Theo tổ chức, biên chế cơ sở kỹ thuật trong QĐNDVN hiện nay, cán bộ CHTM ở CSKT các cấp được bố trí theo chức danh. 6 Vai trò của nhóm cán bộ này được quy định trong Điều lệ Quản lý bộ đội [15] và Điều lệ Công tác kỹ thuật QĐNDVN [14]. Cán bộ chỉ huy các phân đội kỹ thuật Ngoài các chức danh chỉ huy cơ quan, cơ sở kỹ thuật như đã đề cập, trong thực tế cán bộ kỹ thuật ở một chuyên ngành kỹ thuật còn được bố trí chỉ huy các phân đội binh chủng như: tiểu đoàn trưởng, các dTT, dCB, dHH, dTTG, dRD, dTL, dPCX, dPB, dKT/fKQ... Số lượng cán bộ chỉ huy các phân đội kỹ thuật không nhiều, song cũng cần chú ý trong quá trình đào tạo cán bộ CHTMKT. Vai trò của cán bộ chỉ huy các CSKT, phân đội kỹ thuật thực hiện các nhiệm vụ như đã quy định trong Điều lệnh Quản lý bộ đội [15] và Điều lệ Công tác kỹ thuật QĐNDVN [14]. Theo quy định Điều lệ Công tác kỹ thuật QĐNDVN và các điều lệ Công tác kỹ thuật chuyên ngành, cũng như từ thực tế công tác kỹ thuật có thể nhận thấy cán bộ CHTMKT: - Là người làm tham mưu cho người chỉ huy về CTKT do mình phụ trách; - Là người chỉ huy các cơ quan, cơ sở kỹ thuật thuộc quyền; - Là người chỉ đạo và tổ chức thực hiện nội dung CTKT. Công tác kỹ thuật là một mặt của công tác quân sự, đồng thời cũng là nhiệm vụ bảo đảm quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Đội ngũ cán bộ nhân viên kỹ thuật là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động CTKT, trong đó cán bộ CHTMKT chiếm phần lớn trong đội ngũ cán bộ nhân viên kỹ thuật. Do đó, đào tạo đội ngũ cán bộ CHTMKT có trình độ chuyên môn giỏi, bản lĩnh chỉ huy, khả năng thực hành tốt là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong hoạt động của mình cán bộ CHTMKT phải có khả năng nắm bắt ý định, quyết tâm của người chỉ huy, tham mưu cho người chỉ huy công tác chỉ huy kỹ thuật ở đơn vị; hiệp đồng với các cơ quan kỹ thuật cấp trên, cấp dưới, với lực lượng kỹ thuật địa phương và cán bộ CHTMKT còn phải có tác phong của một sĩ quan chỉ huy, có như vậy mới bảo đảm cho công tác CHTMKT hoạt động đồng bộ với công tác tham mưu tác chiến, chính trị, hậu cần. 7 1.1.3. Một số yêu cầu đối với cán bộ CHTMKT Cán bộ CHTMKT có thể công tác ở một đơn vị binh chủng hợp thành (BCHT), quân chủng, binh chủng hay ở tổng cục. Qua nghiên cứu các vị trí và vai trò của cán bộ CHTMKT các cấp và đặc điểm tiến hành CTKT ở các đơn vị, có thể rút ra một số yêu cầu đối với cán bộ CHTMKT như sau: - Nếu công tác ở các đơn vị BCHT phải nắm được nghệ thuật tác chiến, công tác tham mưu kỹ thuật tác chiến BCHT, để thực hiện đúng ý định của người chỉ huy đơn vị. - Nếu công tác ở các đơn vị quân, binh chủng phải hiểu được nghệ thuật tác chiến, công tác tham mưu kỹ thuật tác chiến của quân chủng, binh chủng, để thực hiện đúng ý định của người chỉ huy đơn vị. Thực tế hiện nay, khi đào tạo ở bậc đại học, người học chỉ được trang bị kiến thức quân sự chuyên ngành đủ để thực hiện tốt chức trách trợ lý kỹ thuật ở cấp phân đội. Vì vậy, khi phát triển lên cương vị cao hơn (chủ nhiệm kỹ thuật các cấp) cần phải bồi dưỡng kiến thức quân sự chuyên ngành ở mức cao hơn, ít nhất cũng tương ứng với cương vị phải đảm nhiệm tiếp theo. - Xét về chuyên ngành kỹ thuật, cán bộ CHTMKT có thể hoạt động ở một trong hai khu vực chủ yếu: * Chủ trì hoặc tham gia chỉ huy, quản lý một chuyên ngành kỹ thuật nào đó. Ví dụ: chủ nhiệm (trưởng) chuyên ngành, trợ lý chuyên ngành, chỉ huy cơ sở bảo đảm kỹ thuật (BĐKT), phân đội kỹ thuật chuyên ngành (quân khí, xe máy, thông tin, công binh, rađa, tên lửa...). Trong mỗi chuyên ngành, cán bộ CHTMKT phải có hiểu biết sâu sắc về khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật để vừa chỉ huy cơ quan, đơn vị thực hiện tốt các nội dung CTKT, vừa là chuyên gia kỹ thuật trong xử lý các tình huống kỹ thuật xảy ra trong thực tế. Vì vậy, chuyên ngành kỹ thuật mà cán bộ CHTMKT hoạt động chính thường gắn với chuyên ngành mà họ được đào tạo ở bậc đại học. * Chủ trì hoặc tham gia chỉ huy, quản lý tổng hợp nhiều ngành. Ví dụ: chủ nhiệm kỹ thuật, cơ sở BĐKT tổng hợp, hoặc trưởng phòng (trợ lý) Tham mưu kế hoạch, huấn luyện kỹ thuật... Trong trường hợp này, cán bộ CHTMKT phải hiểu biết về trang bị và CTKT các chuyên ngành mà mình 8 phụ trách. Để hoạt động tốt trong lĩnh vực này cán bộ CHTMKT cần phải được trang bị thêm kiến thức chuyên môn ngoài chuyên ngành được đào tạo ở bậc đại học. Khả năng thực hành của người cán bộ CHTMKT là mức độ hoàn thành các công việc cụ thể theo chức trách của mình. Đó là chỉ huy, quản lý đơn vị, tổ chức điều hành các hoạt động kỹ thuật theo mệnh lệnh, kế hoạch của người chỉ huy hoặc cơ quan kỹ thuật cấp trên. Đó là thu thập xử lý thông tin về tình hình kỹ thuật của đơn vị, tham mưu cho chỉ huy đơn vị tổ chức xây dựng, quản lý và thực hiện CTKT. Như vậy, khả năng thực hành CHTMKT phụ thuộc vào những năng lực cụ thể về chỉ huy, tổ chức quản lý, điều hành và vận dụng năng lực chuyên môn kỹ thuật trong các nhiệm vụ cụ thể. Năng lực chỉ huy tham mưu là năng lực lãnh đạo và quản lý của cá nhân đối với một tập thể. Để có năng lực lãnh đạo, quản lý, cá nhân phải có kiến thức tương đối tổng hợp về tâm lý, xã hội; hiểu biết các quy luật trong hành vi cá nhân, các quy luật trong hoạt động quản lý nguồn nhân lực, các đặc tính hoạt động chỉ huy, tham mưu... Trên cơ sở chức trách, nhiệm vụ của cán bộ CHTMKT các cấp và đặc điểm công tác của từng ngành kỹ thuật, từng đơn vị quân binh chủng như đã phân tích ở trên, việc tổ chức đào tạo phải nhằm đạt được các yêu cầu nêu ra ở mục 2.2.1.2. Những yêu cầu thực tế đó đối với cán bộ CHTMKT các cấp là những vấn đề cơ bản, toàn diện mà quá trình đào tạo phải đưa người học hướng tới. Nó là cơ sở quan trọng để xây dựng mô hình, quy trình, chương trình, phương pháp đào tạo cán bộ CHTMKT các cấp, nhằm đạt được mục tiêu đào tạo đã xác định. 1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHỈ HUY THAM MƯU KỸ THUẬT 1.2.1. Sự hình thành quá trình đào tạo cán bộ CHTMKT Cùng với sự phát triển của Quân đội, của vũ khí trang bị kỹ thuật, hệ thống tổ chức kỹ thuật được xây dựng, phát triển hợp lý từ cấp Bộ xuống đến các đơn vị. Sự phát triển của cơ quan, cơ sở kỹ thuật đã tạo được sức mạnh, 9 có đủ các điều kiện cần thiết bảo đảm trang bị, BĐKT cho quân đội chiến đấu đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Để chỉ huy, điều hành, chỉ đạo hệ thống ngành kỹ thuật quân đội hoạt động và trực tiếp chỉ huy khai thác VKTBKT có hiệu quả, cần phải có đội ngũ cán bộ CHTMKT đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Hơn sáu mươi năm qua, cùng với sự phát triển và trưởng thành của đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, ngành kỹ thuật và đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự (KTQS) được hình thành và không ngừng phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Tháng 9 năm 1974, Tổng cục Kỹ thuật được thành lập, ngành kỹ thuật Quân đội trở thành một hệ thống tổ chức độc lập. Đến năm 1979, trong các đơn vị quân đội bắt đầu thực hiện cấp phó về trang bị (chỉ huy kỹ thuật)... Do đó, đòi hỏi phải có ngay đội ngũ cán bộ kỹ thuật biết chỉ huy, làm tham mưu và quản lý hệ thống tổ chức đó. Xuất phát từ thực tế trên, nhu cầu đào tạo cán bộ CHTMKT càng trở nên cấp bách. Nhưng việc đào tạo cũng như quản lý, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ CHTMKT trước đây chưa được nhìn nhận đúng tầm của nó. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ này chưa cân đối với việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác chuyên môn kỹ thuật. Chưa có quy hoạch và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng một cách cụ thể gắn liền với quy hoạch cán bộ chủ trì CHTMKT các cấp để đào tạo nguồn kế tiếp một cách vững chắc. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ CHTMKT hầu hết là người làm kỹ thuật chuyển sang, chưa được trang bị những kiến thức cần thiết về chỉ huy quản lý; có thể nói là chưa được đào tạo bồi dưỡng về CHTMKT chứ chưa nói đến đào tạo đúng cương vị, vì vậy đã dẫn tới tình trạng phổ biến là làm rồi mới được học, chứ không phải học rồi mới làm. Từ những năm 1980 về trước, quân đội ta chưa có trường lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về CHTMKT. Để chuẩn bị đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan CHTMKT trong nước, từ những năm 1979, Bộ Quốc phòng (BQP) đã cử cán bộ đi đào tạo về CHTMKT ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu, theo các chương trình 2 năm, 6 tháng và 3 tháng. Số cán bộ được cử đi học cũng rất ít 10 và không thường xuyên (năm nhiều nhất gửi đi đào tạo được 5 người), chủ yếu là cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên [61]. Mặt khác, định hướng công tác cán bộ cũng chưa xác định loại cán bộ này với đầy đủ nội dung của nó. Song song với việc cử cán bộ đi đào tạo sĩ quan CHTMKT ở nước ngoài, năm 1980, BQP cho phép Đại học Kỹ thuật quân sự (nay là HVKTQS) thành lập “Ban chuyên đề Chỉ huy Kỹ thuật” trực thuộc Ban Giám hiệu (tiền thân của khoa CHTMKT) có chức năng chủ yếu là nghiên cứu nội dung chương trình và xây dựng kế hoạch huấn luyện các lớp bồi dưỡng chỉ huy phó phụ trách trang bị kỹ thuật cấp trung đoàn, sư đoàn và nghiên cứu đề án đào tạo chỉ huy phó trang bị kỹ thuật tại Trường Đại học Kỹ thuật quân sự. Để giúp cho việc đào tạo cán bộ CHTMKT, trong những năm đầu thập kỷ 80, BQP cho phép Đại học Kỹ thuật quân sự mời chuyên gia Liên Xô (cũ) sang xây dựng chương trình, viết tài liệu giúp ta tổ chức giảng dạy môn học về “ Bảo đảm kỹ thuật” trong đào tạo kỹ sư quân sự và tổ chức các lớp bổ túc, bồi dưỡng ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng về CHTMKT. 1.2.2. Quá trình phát triển đào tạo cán bộ CHTMKT Những năm đầu thập kỷ 80, chúng ta đã tổ chức được các lớp bổ túc, bồi dưỡng với các chương trình thời gian khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng... với số lượng gần 200 cán bộ chủ chốt đảm nhiệm các vị trí quan trọng ở các đơn vị trung, sư đoàn và các phòng chức năng, cục kỹ thuật thuộc hệ thống ngành kỹ thuật quân đội. Đứng trước nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ CHTMKT, tháng 5 năm 1984, BQP cho phép Học viện KTQS thành lập “ Khoa bồi dưỡng cấp phó chỉ huy kỹ thuật” (sau đổi là Khoa CHTMKT), có chức năng chủ trì đào tạo và bồi dưỡng cán bộ CHTMKT cho toàn quân. Có thể nói, sự ra đời của Khoa CHTMKT tại Học viện KTQS đã đánh dấu một bước ngoặt về tổ chức đào tạo cán bộ CHTMKT, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn lực về chỉ huy, quản lý kỹ thuật trong giai đoạn lúc đó và về sau này. Sau khi thành lập Khoa CHTMKT, chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng được chuyển thành chương trình đào tạo ngắn hạn Chỉ huy kỹ thuật 6 tháng và tổ chức đào tạo với số lượng học viên ngày càng 11 tăng. Đến tháng 9 năm 1986 khai giảng khóa đầu tiên đào tạo hệ 2 năm cán bộ CHTMKT cấp chiến thuật-chiến dịch do Khoa CHTMKT - Học viện KTQS chủ trì đào tạo. Sau thành công của những khóa đầu đào tạo cán bộ CHTMKT cấp chiến thuật-chiến dịch, do nhu cầu thực tế đòi hỏi, việc đào tạo cán bộ CHTMKT cần phải tiếp tục hoàn thiện với chất lượng ngày càng cao và toàn diện hơn. Những cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về Tổ chức chỉ huy kỹ thuật ở các học viện, nhà trường quân đội, cơ quan quản lý cấp chiến lược... cần đào tạo theo một chương trình khác. Xuất phát từ thực tế trên, năm học 1993 - 1994, BQP chỉ đạo Học viện KTQS xây dựng chương trình và đào tạo thí điểm cao học Chỉ huy Quản lý kỹ thuật. Sau hơn 5 năm (1994-1998) đào tạo thí điểm cao học Chỉ huy Quản lý kỹ thuật, Bộ GD-ĐT đã cho phép Học viện KTQS đào tạo cao học Tổ chức chỉ huy kỹ thuật với mã số: 60.86.72. Như vậy, từ năm học 1999 - 2000, trong quân đội thực hiện đào tạo đồng thời hai loại hình đào tạo cán bộ CHTMKT theo chức danh và theo học vấn: - Đào tạo cán bộ CHTMKT cấp chiến thuật-chiến dịch, với thời gian đào tạo 2 năm; - Đào tạo cao học Tổ chức chỉ huy kỹ thuật, với thời gian đào tạo 2 năm. Đối với quá trình đào tạo theo chức danh Quá trình đào tạo cán bộ CHTMKT cấp chiến thuật-chiến dịch, với thời gian đào tạo 2 năm được thực hiện cho đến năm 2006. Bước vào năm học 2006 - 2007, BQP tổ chức xây dựng lại quy trình, chương trình đào tạo sĩ quan theo “Đề án 63”. Theo “Đề án 63”, cán bộ CHTMKT được đào tạo qua 3 vòng (sau khi tốt nghiệp đại học kỹ thuật): - Vòng 1: đào tạo cán bộ CHTMKT cấp trung đoàn - 1 năm tại Học viện KTQS; - Vòng 2: đào tạo cán bộ CHTMKT cấp sư đoàn - 0,5 năm, tại Học viện KTQS; - Vòng 3: đào tạo cán bộ CHTMKT cấp chiến dịch, chiến lược - 1năm, tại Học viện Quốc phòng. Việc triển khai đào tạo cán bộ CHTMKT theo “Đề án 63” được 2 khóa (khóa 10 và khoá 11), đến năm học 2010 - 2011, BQP lại quyết định đào tạo 12 cán bộ CHTMKT theo 1 vòng cho cả hai cấp trung đoàn và sư đoàn trong thời gian 2 năm [62]. Sau mỗi thời kỳ, chương trình đào tạo được xem xét, phân tích và hoàn thiện ở mức độ cao hơn. Do đó, có thể nói, chương trình sau khắc phục được một số hạn chế của chương trình trước. Vì vậy, đối với chương trình đào tạo theo chức danh (Đề án 63), đề nghị phải được xem xét mặt trội của nó so với các chương trình khác và những khó khăn gặp phải khi triển khai thực hiện. Đối với quá trình đào tạo theo học vấn Sau 5 năm đào tạo cao học thí điểm, bắt đầu vào năm học 1999 - 2000, khóa đào tạo cao học Tổ chức chỉ huy kỹ thuật được khai giảng. Trước yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cao cho quân đội (trong đó có cán bộ CHTMKT), năm 2004, Bộ GD-ĐT cho phép Học viện KTQS đào tạo tiến sĩ chuyên ngành: Tổ chức, chỉ huy kỹ thuật (mã số: 62.86.72.01). Sau 8 khóa tổ chức đào tạo, hiện có trên 30 nghiên cứu sinh chuyên ngành Tổ chức, chỉ huy kỹ thuật, trong đó có 09 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ cấp nhà nước. Quá trình và một số kết quả đào tạo cán bộ CHTMKT theo chức danh và theo học vấn của quân đội tại Học viện KTQS trong những năm qua được thể hiện trong bảng 1.1. Qua tiến trình và kết quả đào tạo cán bộ CHTMKT (Bảng 1.1) có thể thấy: quá trình đào tạo cán bộ CHTMKT, gắn liền với việc xây dựng và phát triển của quân đội; phát triển dần và tự hoàn thiện theo quy luật nhận thức; trải qua nhiều giai đoạn đi từ thấp đến cao, từ riêng lẻ đến toàn diện... Cùng với sự phát triển của Quân đội, của vũ khí trang bị kỹ thuật, hệ thống tổ chức kỹ thuật được xây dựng, phát triển hợp lý từ cấp Bộ xuống đến các đơn vị. Sự phát triển của cơ quan, cơ sở kỹ thuật đã tạo được sức mạnh, có đủ các điều kiện cần thiết bảo đảm trang bị, BĐKT cho quân đội chiến đấu đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhiệm vụ đào tạo cán bộ CHTMKT là xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của Quân đội và mô hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ CHTMKT. Nhu cầu đó được đặt ra gắn liền với việc xây dựng và phát triển của quân đội từ khi có ngành kỹ thuật. 13 Để đáp ứng kịp thời nguồn cán bộ CHTMKT cung cấp cho toàn quân chúng ta phải tiến hành đào tạo từ thấp đến cao qua các hình thức (chuyển loại, bổ túc, bồi dưỡng, đào tạo cơ bản). Các chương trình đào tạo CHTMKT đã chú ý nội dung huấn luyện thực hành (HLTH) nhằm nâng cao bản lĩnh tổ chức chỉ huy kỹ thuật trong phạm vi chức trách của mình. Từ đó xây dựng lực lượng cán bộ CHTMKT đủ về số lượng, tốt về chất lượng. Do yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội ta xây dựng và phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, trong thời kỳ đầu, lực lượng cán bộ CHTMKT được đào tạo bồi dưỡng chính là cán bộ CHTMKT cho lục quân. Do yêu cầu và nhiệm vụ của Quân đội, đến nay tại các cơ sở đào tạo đã tiến hành đã đào tạo cán bộ CHTMKT hầu hết cho các chuyên ngành quân, binh chủng... Bảng 1.1: Kết quả đào tạo cán bộ CHTMKT của Học viện KTQS (1980-2012) TT Loại hình đào tạo Thời gian đào tạo Khoảng thời gian đào tạo Nơi đào tạo Ghi chú (năm) I 1 Đào tạo theo chức danh CHTMKT 0,5 1980 - 2011 Học viện KTQS 27 khóa 0,5 1980 - 2011 ; 21 khóa 2 Chủ nhiệm kho 3 CHTMKT cấp trung đoàn 2 1986 - 1994 ; 7 khoá 4 CHQLKT cấp CT-CD 2 1999 - 2007 ; 7 khoá 5 CHQLKT cấp CT-CD 1 2006 - 2008 ; 2 khóa 6 CHQLKT cấp trung đoàn 1 2008 - 2010 ; 2 khóa 7 CHTMKT cấp CT-CD 2 2010 - 2011 ; II Đào tạo theo học vấn 1 ThS CHQLKT 2 1993 - 2000 ; 2 ThS TCCHKT 2 1999 - 2009 ; 3 ThS CHQLKT 2 2008 - 2010 ; 4 Tiến sĩ TCCHKT 3 2004 - 2012 ; Thí điểm 8 khóa 14 Ngoài ra, có thể xem xét và đối chiếu với một số chương trình đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu các quân chủng mang tính chất kỹ thuật, để hiểu được về HLTH trong các chương trình đó (xem Phụ lục 2.1). 1.3. HUẤN LUYỆN THỰC HÀNH TRONG ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHỈ HUY THAM MƯU KỸ THUẬT Qua nghiên cứu, luận án làm rõ đặc điểm và sự khác biệt của HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT thông qua nội dung và cách tổ chức thực hiện so với chương trình đào tạo các đối tượng khác. Sự nghiên cứu này giúp cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT thiết thực và phù hợp. 1.3.1. Khái quát về huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ CHTMKT Huấn luyện thực hành trong đào tạo cán bộ là tổng thể các biện pháp giảng dạy và hướng dẫn tập áp dụng lý thuyết vào thực tế cho người học. Huấn luyện thực hành gồm hai quá trình: hướng dẫn lý thuyết, làm cho học viên nắm vững được cách thức áp dụng lý thuyết đã học vào thực tế và hướng dẫn tập áp dụng, chỉ dẫn cho học viên thứ tự nội dung, cách thức áp dụng lý thuyết vào thực tế. Như vậy, HLTH là một biện pháp thực hiện nguyên lý “học đi đôi với hành” không chỉ đối với đào tạo cán bộ CHTMKT, mà cho mọi đối tượng đào tạo khác. Để HLTH được, trước hết người học nắm vững lý thuyết các môn học. Qua nghiên cứu cho thấy, nội dung HLTH phụ thuộc chủ yếu vào mục tiêu đào tạo. Trong đào tạo cán bộ CHTMKT, phần HLTH có thể bố trí riêng (độc lập), đó là những nội dung mang tính tổng hợp, như diễn tập, triển khai phân đội kỹ thuật, tổ chức cứu kéo - sửa chữa dã ngoại… hoặc nằm trong các môn học, dưới dạng các tập bài (tập đóng các vai giải quyết vấn đề xuất hiện trong thực tế). Tuỳ theo mục tiêu đào tạo để quy định nội dung HLTH. Do đó, mỗi chương trình đào tạo có nội dung HLTH riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu nâng cao chất lượng HLTH trong chương trình đào tạo cán bộ CHTMKT, cần phải nghiên cứu về mục tiêu đào tạo; nội dung HLTH của từng chương trình… 15 Nói cách khác: HLTH là hệ thống tổng hợp các biện pháp dạy và tập, luyện thực hành. Qua đó người học phải vận dụng những kiến thức tiếp thu được trong quá trình đào tạo để giải quyết các yêu cầu lý thuyết và thực tế huấn luyện đã đặt ra. Huấn luyện thực hành là một mặt của chương trình đào tạo ở các nhà trường trong và ngoài quân đội. Trong lĩnh vực quân sự, HLTH là một dạng bắt buộc được tiến hành trong hệ thống nhà trường quân đội. Trong chương trình đào tạo, ngoài chương trình giảng dạy lý thuyết trên lớp, các học viện, nhà trường còn có thể tổ chức HLTH cho các đối tượng học viên theo từng chuyên ngành thông qua các môn học thực tập, hình thức thực tập. Trong phần lớn các môn học chuyên ngành thuộc chương trình đào tạo cán bộ CHTMKT đều có nội dung thực hành, dưới dạng bài tập và tập bài. Mặt khác, HLTH có thể bố trí thành học phần (môn học) độc lập, như thực tập chức trách, thực hành triển khai phân đội kỹ thuật (cứu kéo, sửa chữa…), diễn tập CHTMKT... Nội dung HLTH dù nằm trong các môn học hoặc độc lập, giảng viên có vai trò rất quan trọng. Giảng viên các môn học không chỉ nắm chắc phần lý thuyết, mà phải là người chỉ huy kiểu mẫu, biết hướng dẫn cho học viên vận dụng các kiến thức đã học được vào giải quyết các vấn đề thực tế thông qua các bài tập, tập bài, thực tập và diễn tập. Như vậy, để thực hiện HLTH, trước hết phải có chương trình (tiến trình), đội ngũ giảng viên có trình độ nghiệp vụ huấn luyện thực hành, kinh nghiệm CTKT, biết đề xuất những “tình huống”, có khả năng kết luận những phương án hợp lý học viên đưa ra… và phương tiện HLTH. Phương tiện HLTH là những tài liệu tham khảo, dụng cụ thao tác của giảng viên, của học viên trong thực hành (bút mực, thước kẻ, bản đồ, máy tính, máy chiếu, các vũ khí trang bị kỹ thuật…) và các cơ sở vật chất (sa bàn, kho, xưởng, phân đội sửa chữa cơ động, thao trường…). Nói chung, cơ sở vật chất phục vụ cho HLTH phải tiên tiến hơn hoặc bằng những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của quân đội. Đây là một yêu cầu cao, vượt quá khả năng thực tế. Có thể khắc phục tình trạng thiếu những phương tiện quý hiếm bằng cách dùng những phương tiện ảo để huấn luyện như (sử dụng phim huấn luyện, chương trình mô phỏng…). Trong HLTH có HLTH trên cơ sở vật kỹ thuật thật và trên cơ sở sử dụng các trang thiết bị ảo. 16 1.3.2. Huấn luyện thực hành trong chương trình đào tạo cán bộ CHTMKT Qua nghiên cứu cho thấy, HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT ngoài việc nâng cao và mở rộng khả năng chuyên môn kỹ thuật, phần quan trọng nhất là để nâng cao bản lĩnh chỉ huy, kỹ năng công tác tham mưu kỹ thuật và khả năng chỉ đạo thực hiện CTKT. Đây chính là sự khác biệt giữa HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT với HLTH của các chương trình đào tạo khác. 1.3.2.1. Sự khác biệt của HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT Như trên đã trình bày, mỗi chương trình đào tạo có mục tiêu riêng, cho nên phương pháp HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT có những đặc thù riêng so với nội dung và phương pháp HLTH của các chương trình đào tạo khác. Ý nghĩa và sự khác biệt của HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT thể hiện ở các mặt sau: * Tạo ra bản lĩnh kiên định, có khả năng đưa ra những giải pháp hữu hiệu kịp thời về mặt chỉ huy, chỉ đạo CTKT trong các tình huống khó khăn. Trong đào tạo cán bộ CHTMKT, phải tìm mọi cách để tạo cho người học hình thành bản lĩnh, một thói quen với những tình huống kỹ thuật phức tạp, khó khăn thường xảy ra trong công tác và trong chiến đấu; giúp cho họ biết cách đưa ra những phương án hữu ích kịp thời làm xoay chuyển chiều hướng bất lợi thành có lợi. Điều này chỉ có được, trong quá trình HLTH phải tạo ra được nhiều tình huống khác nhau, đặt ra nhiều vấn đề để người tập (học) phải tự giải quyết (trên cơ sở lý luận đã được trang bị). Các tình huống này phải sát thực tế, phải tính đến các yếu tố phát triển các loại vũ khí trang bị kỹ thuật công nghệ cao, nghệ thuật tác chiến trong chiến tranh tương lai... Ở đây, vai trò của người thày, người huấn luyện thực hành có tính quyết định. Chính họ mới là người viết ra cái “kịch bản” khác nhau, hướng dẫn cho người tập sáng tạo các hành động “diễn”. Qua quá trình tập (hoặc diễn), học viên CHTMKT được làm quen với môi trường hoạt động kỹ thuật, những tình huống (bất ngờ) xảy ra; được trực tiếp tham gia giải quyết những vấn đề “thực tế” đặt ra..., dần dần tích luỹ được kinh nghiệm, hình thành bản lĩnh vững chắc cho mình. 17 * Biết cách thu thập và xử lý thông tin liên quan đến công tác kỹ thuật kịp thời, chính xác. Công tác kỹ thuật, đặc biệt là tổ chức BĐKT tác chiến có liên quan đến nhiều lĩnh vực, người cán bộ CHTMKT phải có được những thông tin cần thiết về những lĩnh vực đó. Để có thông tin cần thiết phải biết cách thu thập. Chức năng của người làm công tác tham mưu kỹ thuật không chỉ dừng lại ở việc có thông tin, điều có ý nghĩa quan trọng là ở khâu xử lý các thông tin kịp thời, chính xác. Như vậy, trong HLTH phải làm cho người học biết cách thu thập, xử lý thông tin vào thời điểm thích hợp và chọn lọc những vấn đề quan trọng nhất, cách giải quyết... Nhất là những thông tin cần cung cấp cho cơ quan tham mưu tác chiến, cho người chỉ huy xây dựng quyết tâm, xây dựng kế hoạch BĐKT tác chiến... Đây là một yêu cầu khi tổ chức HLTH trong chương trình đào tạo cán bộ CHTMKT cần phải hướng tới, tạo cho người học có những khả năng, biết nắm bắt, khai thác các nguồn thông tin và làm quen với việc xử lý các thông tin đó. Trong các bài tập hoặc diễn tập cần phải tạo ra các “nhu cầu” thông tin, “nguồn” thông tin khác nhau buộc người học phải tự tìm kiếm, lựa chọn và sử dụng các thông tin vào những hoạt động làm tham mưu, chỉ đạo và trực tiếp triển khai CTKT. Chỉ có được làm quen và tập duyệt nhiều lần dưới sự hướng dẫn của các giảng viên có kinh nghiệm mới dần dần tạo nên trong những người học các khả năng này. * Có khả năng tập hợp, tổ chức lực lượng thực hiện công tác kỹ thuật trên cơ sở biết dựa vào sức mạnh tổng hợp. Việc triển khai CTKT, đặc biệt là việc tổ chức BĐKT tác chiến có quan hệ đến nhiều lực lượng, cơ sở vật chất khác nhau. Nguyên bản thân lực lượng kỹ thuật, dù có đông đến bao nhiêu cũng không giải quyết nổi. Người chỉ huy và các cán bộ giúp việc phải biết cách tập hợp lực lượng và tổ chức các lực lượng ấy thành những bộ phận đủ khả năng thực hiện những nhiệm vụ được giao. Lực lượng ở đây bao gồm: lực lượng của chính đơn vị mình, lực lượng của cấp trên tăng cường hoặc chi viện và đặc biệt là lực lượng của khu vực phòng thủ các địa phương... Để tạo ra những khả năng đó cho người học, cần phải giúp cho họ làm quen cách nhận biết các lực lượng có liên quan (trong 18 thế trận chiến tranh nhân dân), cách tổ chức và sử dụng những lực lượng đó vào những khâu công việc nào trong CTKT hoặc BĐKT tác chiến. Như vậy, trong HLTH phải có hàng loạt các đầu bài tập khác nhau, trong đó cung cấp đầy đủ các thông tin và đặt ra các yêu cầu về việc tổ chức, sử dụng lực lượng kỹ thuật như thế nào trong quá trình thực hiện CTKT. Sau mỗi tập bài phải được đánh giá, rút kinh nghiệm. * Nâng cao kỹ năng, kỹ xảo công tác tham mưu kỹ thuật. Một trong những chức phận của người cán bộ CHTMKT là nhiệm vụ của họ, thao tác tham mưu về kỹ thuật. Trước hết, họ phải thành thạo về trình tự công tác; tiếp theo đó là biết sử dụng có hiệu quả các công cụ công tác tham mưu kỹ thuật (như sa bàn, bản đồ giấy, bản đồ số, máy tính, máy đo trinh sát...). Để nó trở thành kỹ năng, kỹ xảo đối với người học, từng người phải được luyện tập, thực hành. Sự thành thạo về công tác tham mưu kỹ thuật ở mức trở thành kỹ năng, kỹ xảo là một yêu cầu chất lượng của HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT trong giai đoạn hiện nay. * Biết triển khai các phân đội kỹ thuật có những trang bị BĐKT mức độ hiện đại khác nhau. Qua một số cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới, xu hướng chung bên phát động chiến tranh vào các nước khác thường sử dụng vũ khí công nghệ cao với tỷ lệ ngày càng cao và cho phép khẳng định, chiến tranh tương lai mà kẻ địch gây ra ở nước ta sẽ là cuộc chiến tranh vũ khí công nghệ cao. Khi đó, có thể dự đoán lực lượng kỹ thuật của ta được trang bị nhiều thiết bị BĐKT có trình độ công nghệ tiên tiến (tương ứng với mức độ hiện đại của vũ khí trang bị kỹ thuật trong quân đội). Vì vậy, trong chương trình HLTH cho học viên CHTMKT phải đi trước một bước, trang bị cho người học những hiểu biết về vũ khí công nghệ cao (tính năng chiến kỹ thuật và cách phòng tránh) và được tiếp xúc với những phân đội kỹ thuật (xưởng, trạm, tổ, đội kỹ thuật...) có những trang thiết bị BĐKT trình độ công nghệ khác nhau. Bằng các phương pháp huấn luyện khác nhau, tạo ra nhiều cơ hội để người học được trực tiếp triển khai và thu hồi các phân đội kỹ thuật trong các loại hình tác chiến. Những học viên này khi ra trường thường được phân công đảm nhiệm 19 công việc trực tiếp hoặc gián tiếp điều hành các phân đội kỹ thuật nêu trên. Đây là một việc khó, vì hiện trạng các phân đội kỹ thuật (thật) không có khả năng đáp ứng yêu cầu này, có thể phải sử dụng phân đội kỹ thuật “ảo” để thay thế huấn luyện. Sự khác biệt HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT trên đây là một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, chi phối tới nội dung, hình thức, phương pháp HLTH trong đào tạo cán bộ CHTMKT, là cơ sở cho việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng HLTH ở Chương 3. 1.3.2.2. Một số mặt đã và đang triển khai trong đào tạo cán bộ CHTMKT Hiện nay, trong các trường quân đội nói chung và Học viện KTQS nói riêng, công tác HLTH về chuyên ngành ngày càng được quan tâm, đặc biệt là HLTH trên các thiết bị mô phỏng đang được ứng dụng rộng rãi. Các học viện, nhà trường, nhất là tại Học viện KTQS, đã chú ý đổi mới quy trình, chương trình, nội dung đào tạo, không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện, nhất là năng lực hoạt động thực tiễn; hoàn thiện mục tiêu, hình thức, phương pháp đào tạo theo hướng tối ưu hóa; khắc phục sự chồng chéo về nội dung; bảo đảm ngày càng sát hơn yêu cầu sử dụng cán bộ ở các đơn vị. Học viện KTQS chú trọng phương pháp dạy học tích cực, tổ chức thực hiện đưa học viên về các nhóm chuyên sâu, khuyến khích sử dụng phòng đọc, phòng internet dành riêng, bổ sung tài liệu tham khảo, tăng các bài thí nghiệm trong chương trình đào tạo; tổ chức rút kinh nghiệm việc thí điểm đổi mới phương pháp dạy - học để áp dụng trong toàn Học viện... bước đầu đã có kết quả tích cực. Chất lượng HLTH ngày càng được nâng cao trên cơ sở tăng nội dung, thời gian thực hành trong chương trình đào tạo, khuyến khích, động viên nghiên cứu chế tạo sản phẩm trong quá trình học tập, làm đồ án, luận văn tốt nghiệp. Với đào tạo chuyên môn ở các học viện, việc thực hành trên hệ thống thiết bị mô phỏng thường được dùng để đào tạo thực hành chuyên ngành ở trình độ chuyên môn sâu. Các nghiên cứu tại Trường Đại học Tổng hợp Illinois (Mỹ) cho thấy, trong việc truyền đạt các bài giảng, sử dụng thiết bị mô phỏng đạt hiệu quả cao hơn khoảng 70% so với một giảng viên giảng bài thông 20 thường [51]. Chính vì vậy, chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc sử dụng các thiết bị mô phỏng hiện đại trong đào tạo cán bộ kỹ thuật nói chung và đào tạo cán bộ CHTMKT nói riêng. Một trong những lĩnh vực được Bộ Quốc phòng đã và đang đẩy mạnh việc nghiên cứu đổi mới là: nghiên cứu chế tạo các phương tiện huấn luyện để nâng cao chất lượng huấn luyện, ứng dụng công nghệ thông tin trong tác chiến, mô phỏng phục vụ huấn luyện, trong diễn tập chỉ huy tham mưu, chỉ huy quản lý khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), trong tính toán điều khiển vũ khí trang bị kỹ thuật, trong quản lý điều hành ở các nhà máy, cơ sở sản xuất quốc phòng. Chúng ta đã mua sắm và nghiên cứu chế tạo được một số loại thiết bị mô phỏng, từ những loại đơn giản là cơ khí thuần túy đến loại hoạt động theo nguyên lý cơ - điện tử, cơ - quang - điện đến những loại trang bị mô phỏng hiện đại ứng dụng công nghệ thông tin vào điều khiển, ra tình huống và xử lý tình huống sát thực tế chiến đấu, cho phép giảng viên can thiệp vào quá trình huấn luyện và kiểm tra kết quả luyện tập chính xác thông qua hệ thống tín hiệu phản hồi [33], [101]. Ví dụ: Hệ thống mô phỏng đào tạo phi công, hệ thống mô phỏng huấn luyện tên lửa S300 PMUI của Quân chủng Phòng không - Không quân; hệ thống mô phỏng huấn luyện hàng hải của Học viện Hải quân... Mặc dù còn khó khăn về kinh phí, song phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, trong những năm qua, ngoài việc khai thác tốt các thiết bị mô phỏng hiện đại được nước ngoài viện trợ hoặc đi kèm với các hệ vũ khí mới (như của Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - Không quân...), chúng ta cũng đã tự thiết kế, chế tạo được một số thiết bị mô phỏng phần nào đáp ứng nhu cầu huấn luyện cho bộ đội. Bộ khí tài luyện bắn tên lửa chống tăng B-72 dùng để huấn luyện bộ đội luyện tập thuần thục các thao tác điều khiển tên lửa vào mục tiêu trong quá trình bắn trước khi bắn tên lửa thật. Đây là thiết bị huấn luyện hiện đại được viện trợ, song qua sử dụng thực tế, bộ khí tài chưa mô phỏng địa hình, âm thanh sát thực tế, bài tập đơn điệu. Để luyện bắn hiệu quả, Trung tâm Công nghệ mô phỏng Học viện KTQS đã nghiên cứu chế tạo hệ thống mô
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan