Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG...

Tài liệu NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI

.PDF
112
283
91

Mô tả:

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM _______________________ TRẦN THỊ KIM NGA NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC HÀ NỘI, NĂM 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM _______________________ TRẦN THỊ KIM NGA NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc phổ thông Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI HUYỀN NGA HÀ NỘI, NĂM 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả thực nghiệm nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Nếu có điều gì trái với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2013 Tác giả luận văn Trần Thị Kim Nga LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo, các cán bộ của học viện âm nhạc Quốc gia và học viện âm nhạc Huế đã giúp đỡ và trang bị cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Bùi Huyền Nga – Người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các đồng nghiệp và sinh viên trường Đại học Đồng Nai đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Thành công này của tôi, cũng nhờ có sự động viên, khuyến khích tạo mọi điều kiện của những người thân yêu và bạn bè đã luôn bên tôi để tôi hoàn thành tốt công việc. Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn đồng nghiệp. Tác giả luận văn Trần Thị Kim Nga DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANDG : Âm nhạc dân gian CĐ : Cao đẳng CĐSP : Cao đẳng sư phạm CNTT : Công nghệ thông tin ĐH : Đại học ĐHSP : Đại học sư phạm GV : Giảng viên KHXH : Khoa học xã hội NCKH : Nghiên cứu khoa học NXB : Nhà xuất bản PPDH : Phương pháp dạy học QHBN : Quan họ Bắc Ninh SV : Sinh viên TCSP : Trung cấp sư phạm UBND : Uỷ ban nhân dân Mục lục Phần mở đầu 1 Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca ở 6 trường Đại học Đồng Nai 1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 6 1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai 22 * Tiểu kết chương 1 39 Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn 41 dân ca ở trường Đại học Đồng Nai 2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình 41 2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca 47 2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác 53 2.4. Giải pháp thực tập sư phạm 56 2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác 67 * Tiểu kết chương 2 74 Kết luận 75 Tài liệu tham khảo 77 Phụ lục 79 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, vì vậy Việt Nam có một kho tàng dân ca rất phong phú và đa dạng. Mỗi vùng miền đều có những thể loại dân ca với những làn điệu mang âm hưởng khác nhau. Những thể loại, những làn điệu này luôn gắn liền với cuộc sống của người dân lao động xưa. Vì thế, qua những bài dân ca, người nghe có thể cảm nhận được những tâm tư tình cảm, những hoạt động lao động của người dân ở mỗi vùng miền. Dân ca Việt Nam là một kho tàng lớn, để nắm bắt được cái hồn và thể hiện được nó đòi hỏi cần có một quá trình, và Hát là con đường tiếp cận dễ nhất. Có thể nói, chỉ cần nắm bắt được cái hồn và tính chất vùng miền, đặc trưng của bài dân ca thì ai cũng có thể hát được. Nhưng với cuộc sống hiện nay dân ca đang dần bị lãng quên, thay vào đó là những “làn gió mới” của âm nhạc nước ngoài như thể loại Rock, Jazz, hay những ca khúc nhạc ngoại lời Việt. Đây là những thể loại nhạc mà trong thời đại mở cửa này phù hợp với tâm lý của tuổi trẻ. Bởi vậy, lớp trẻ ngày nay thường say mê các ca khúc nước ngoài hơn là dân ca. Dân ca được xem là lỗi thời, không hợp mốt và nếu họ có hát thì các bài dân ca đó được cách điệu với phong cách biểu diễn hiện đại, sống động, náo nhiệt khác với truyền thống. Dân ca là một di sản văn hóa lớn mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Vậy, phải làm sao để lớp trẻ yêu môn dân ca và thông qua môn dân ca để hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Nói cách khác làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn và phát huy dân ca Việt Nam trong đời sống đương đại. Và, với thực trạng như vậy thì cách làm hiệu quả nhất hiện nay là đưa dân ca vào giảng dạy trong nhà trường. Trường Đại học Đồng Nai với bề dày 35 năm truyền thống đã và đang góp phần vào việc đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trong toàn tỉnh. Đối với việc đào tạo hệ sư phạm, mục tiêu đưa ra là cung cấp một 2 đội ngũ giáo viên tương lai có đầy đủ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp về các cơ sở giáo dục từ mầm non, tiểu học cho đến trung học cơ sở. Đây là công việc rất khó khăn cho những người làm công tác giáo dục tại trường. Đặc biệt là chuyên nghành Hát của các em sinh viên sư phạm âm nhạc cần phải được quan tâm. Là giảng viên giảng dạy âm nhạc của trường, chúng tôi hiểu rất rõ được những điều kiện cần và đủ của các sinh viên, hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục âm nhạc nói chung và giảng dạy hát nói riêng. Đặc biệt vốn kiến thức, kỹ năng thực hành và thể hiện bài hát dân ca của các em sinh viên còn rất hạn chế, chính vì thế mà rất cần thiết cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản, những vốn hiểu biết về dân ca các vùng miền, cần thực hiện được kỹ năng, kỹ xảo hát dân ca; tính chất, tâm hồn của những bài dân ca,… Qua đó các em có thể tìm hiều về văn hóa, phong tục của các địa phương khác nhau. Môn dân ca cũng được đưa vào giảng dạy cho hệ cao đẳng của trường Đại học Đồng Nai. Tuy nhiên, chương trình cũng như phương pháp giảng dạy còn nhiều điều bất cập và hạn chế nên chưa đáp ứng được mục tiêu đào mà môn học hướng tới. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ Cao đẳng tại trường Đại học Đồng Nai” làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Phương pháp và lý luận dạy học phổ thông cho mình. 2. Lịch sử đề tài: Các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục dân ca và âm nhạc dân gian nói chung cho trường học hay tầm quan trọng, sức sống của âm nhạc dân gian trong lịch sử … đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu: Trong cuốn “Sức sống của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam” của PGS Tô Vũ xuất bản năm 1996, tác giả có đề cấp đến vấn đề “Xây dựng khoa 3 thanh nhạc cổ truyền” trong hệ thống đào tạo chuyên nghiệp và đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy cũng như đội ngũ giáo viên. Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền có bài viết “Giáo dục cổ nhạc Việt Nam – những bài học thực tiễn từ giảng đường” (hội khảo khoa học – viện Âm nhạc – năm 2003) đã nêu lên sự “thờ ơ” đối với âm nhạc cổ truyền của công chúng và đặc biệt là giới trẻ. Bài viết nêu rõ vai trò của giáo dục – đào tạo trong việc truyền bá vốn âm nhạc truyền thống cho các em, nhất là tầng lớp thanh niên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Tháng 3 năm 2010, tại Hà Nội Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức hội thảo Tăng cường năng lực cho giảng viên các trường, khoa sư phạm đào tạo giáo viên thể dục, âm nhạc, mỹ thuật cho tất cả các trường cao đẳng sư phạm và đại học sư phạm. Hội thảo đã đưa ra rất nhiều ý kiến, quan điểm về nhu cầu cần thay đổi chương trình, phương pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tế giáo dục hiện nay. Năm 2010, tác giả Lại Thị Phương Thảo đã hoàn thành luận văn cao học văn hóa với tiêu đề: Âm nhạc dân gian trong công tác đào tạo tại trường Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan và chi tiết về diện mạo của việc đưa âm nhạc dân gian vào công tác giảng dạy, đào tạo sinh viên hệ Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương nhằm góp phần nâng cao hiệu quả… Bên cạnh đó, đề tài còn hướng đến giữ gìn, phát triển các giá trị âm nhạc dân gian cổ truyền thông qua việc đào tạo các lớp sinh viên là những thầy cô giáo dạy nhạc tương lai [20, tr7]. Và, nhiều luận văn khác có đề cập đến việc đưa dân ca địa phương vào chương trình môn hát nhạc ở các trường phổ thông trên địa bàn đất nước. 4 Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên có sự liên quan gián tiếp đến đề tài của chúng tôi. Đây sẽ là những gợi ý, tài liệu để chúng tôi có thể tham khảo hướng phát triển luận văn của mình. Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ cao đẳng tại trường Đại học Đồng Nai. Song, các tập dân ca do tác giả Trần Viết Bính sưu tầm, ghi âm gồm: “51 bài dân ca Mạ, Chau Ro, S`Tiêng ở Đồng Nai”, hay, “Dân ca Chau Ro ở Bà Rịa – Vũng Tàu” gồm 32 bài dân ca của tác giả Trần Viết Bính – Võ Lê khảo cứu và sưu tầm… đã khẳng định được giá trị to lớn của âm nhạc dân gian và dân ca của các tộc người bản địa tại khu vực Đồng Nai sẽ là tư liệu quí giá để chúng tôi có thể tham khảo và đưa vào sử dụng trong luận văn. 3. Mục đích nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phân tích thực tế về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, đối tượng học,… kết hợp với những kiến thức đã được học, tôi hy vọng sẽ đưa ra được những giải pháp cụ thể góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ cao đẳng trường Đại Học Đồng Nai trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng: + Thực trạng giảng dạy môn dân ca trong trường Đại học Đồng Nai, những mặt được và chưa được cùng những nguyên nhân. + Vai trò của dân ca trong cuộc sống đương đại và việc truyền dạy môn dân ca trong hệ thống các trường cao đẳng ở nước ta hiện nay. + Yếu tố vùng miền trong việc giảng dạy môn dân ca cho hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc tại trường Đại học Đồng Nai. - Phạm vi: Việc truyền dạy dân ca ở trường Đại học Đồng Nai. 5 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp khảo sát, thâm nhập thực tế. - Phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra, ở một mức độ nhất định có sử dụng phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu và kế thừa những tư liệu của các tác giả đi trước. 6. Đóng góp của đề tài: - Đề tài là công trình nghiên cứu về những vấn đề giảng dạy môn dân ca hệ Cao đẳng trường Đại học Đồng Nai. - Đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vào chất lượng đào tạo, góp phần giữ gìn những giá trị văn hóa cổ truyền. 7. Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có hai chương. - Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai. - Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai. 6 Chương 1 VÀI NÉT VỀ DÂN CA VIỆT NAM VÀ VIỆC GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA Ở ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI 1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 1.1.1. Giới thiệu một số thể loại dân ca Việt Nam tiêu biểu Trong kho tàng âm nhạc dân gian của nước ta, dân ca được xem như một tài sản vô giá và lâu đời nhất. Dân ca nói lên được tập tục sinh hoạt, phong cách, đặc điểm riêng của từng dân tộc bằng những câu ca hết sức mộc mạc, giản dị nhưng lại hết sức mượt mà phong phú. Dân ca là sản phẩm của người dân lao động, là tiếng nói tình cảm, sản phẩm tinh thần, nguồn nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác và có sức sống mãnh liệt. Dân ca gắn liền với con người từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời. Khi vừa chào đời chúng ta được nghe những bài hát ru ngọt ngào từ những người mẹ (hát ru, ru con,…), lớn hơn một chút thì ta được hát cùng bạn bè những bài đồng dao, đến tuổi cập kê thì hát tặng nhau những bài hát giao duyên, khi nhắm mắt xuôi tay thì có những bài hát đưa tiễn. Khi lao động thì có những bài hát lao động (hò giã gạo, hò đua thuyền, hò kéo gỗ,…). Đến các dịp lễ cũng có các bài hát lễ nghi phong tục (như trong hát Xoan có: Hát chúc, giáo trống, giáo pháo,… và bài hát Dậm như: Dâng hương, hoa sắc,…). Ở miền Bắc âm nhạc dân ca giàu chất trữ tình, lãng mạn; miền Trung thì dịu dàng kín đáo, mang nhiều tự sự; miền Nam dí dỏm, tình cảm đậm đà tình làng nghĩa xóm bởi những điệu lý câu hò; còn dân ca của các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, Tây Bắc,… do ảnh hưởng của thiên nhiên nên âm nhạc mộc mạc, chân chất và đầy huyền bí,… Hát dân ca là tìm đến cội nguồn dân tộc để hiểu rõ hơn về đời sống phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa của ông cha ta. 7 Ngày nay các giá trị cao đẹp của kho tàng dân ca, là nguồn sáng tạo để các nhạc sĩ nghiên cứu sử dụng vào các ca khúc góp phần xây dựng nền âm nhạc hiện thực xã hội chủ nghĩa dân tộc và hiện đại. - Hát ru: Là thể loại dùng để ru trẻ ngủ. Lần đầu tiên cảm nhận được hơi ấm là được nghe tiếng ru của người mẹ. Hát ru là tiếng lòng người mẹ, là hạt nhân cơ bản của gia đình. Người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn không phải chỉ bằng dòng sữa ngọt ngào mà còn bằng những sáng tạo của mình đó là tiếng hát ru. Bài hát ru đặt nền móng cho cuộc sống sinh vật và tâm hồn. Lời ru là bản sắc văn hóa dân tộc. “Âm điệu của hát ru khá phong phú. Hát ru của mỗi dân tộc lại có những âm điệu ru mang âm hưởng khác nhau. Những bài hát ru ở Miền Bắc thường có nội dung ngụ ngôn. Hình ảnh những con vật thân thuộc gần với cuộc sống của người nông dân như hình ảnh con cò, con vạc, con tôm, con kiến, con mèo,… được đưa vào bài hát để dỗ trẻ con ngủ. Lời của các bài hát ru này thường ở các loại thơ bốn chữ, lục bát, lục bát biến thể, song thất lục bát, bảy chữ, tám chữ,… Những bài hát ru miền Trung là những bài hát kết hợp giữa hát nói và hát ngâm, sử dụng nhiều loại thơ dân gian và thơ tự do. Những bài hát ru này là tiếng nói tâm tình của các bà mẹ, các chị, các bà nên nội dung mang tính chất tâm tình, trữ tình, đôi khi mang nội dung giáo dục nhân cách, lịch sử, ca ngợi quê hương đất nước, thời sự. Đó là những bài hát với nội dung nhắn gửi tâm sự của người phụ nữ, của người vợ với người chồng, của mẹ với con,… Điệu hát có nhịp điệu dịu dàng đong đưa của nhịp võng. Thường sử dụng thang âm ngũ cung, thể thơ thông thường được dùng làm lời hát ru là thơ lục bát”. [11,tr. 22,94,111] Thật vậy, hát ru không chỉ bày tỏ tình cảm trực tiếp đối với đứa trẻ đang ôm ru trong lòng mà nội dung hát ru còn mang tâm sự của người vợ đối 8 với chồng, của người con đối với cha mẹ ông bà, hay những câu than thân trách phận hoặc giải bày nỗi niềm chua xót với tình duyên lận đận lao đao do lễ giáo phong kiến áp đặt. Lời lẽ hát ru còn để tự nói với mình về lòng chung thủy, về mối tình nghèo, về lòng hiếu thảo, về tính nhân ái, về cách dạy con, về cách đối nhân xử thế, về những bài học rút ra từ cuộc sống,... “Thể loại hát ru hình thành từ rất sớm, được lưu truyền một cách mạnh mẽ, dai dẳng và lâu bền... từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng được phân bổ đều khắp, rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, từ đất tổ Hùng Vương xuống đồng bằng sông Hồng, chạy dọc theo miền duyên hải Trung Bộ, vô đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Hát ru cũng có mặt lâu đời trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, từ Đông Bắc và Tây Bắc Bộ, dài theo dải Trường Sơn, tích tụ trên các buôn làng Tây Nguyên, thẳng vô núi rừng miền Đông Nam Bộ và trong các phum sóc Khmer...”. [26, tr.bìa] Hát ru miền Bắc thường sử dụng dạng 5 âm điệu thức Bắc, sắc thái có khi khỏe khoắn, sáng sủa, tươi vui tình tứ như trong 1 số bài như Hát ru con (Đồng bằng bắc Bộ), Hát ru (Hà Nam), Ru con (Việt Trì), có khi lại dịu dàng duyên dáng, sâu lắng như: Giọng ru (Hát ghẹo Phú Thọ), Hát ru (Phú Thọ)... Hát ru miền Trung đặc biệt là vùng Bình - Trị - Thiên, gọi hát ru là Hát ru con, thường sử dụng trên thơ lục bát, là loại diễn xướng cá nhân đơn lẻ, lời chứa đựng nhiều tâm trạng và thường bộc lộ cảm xúc của người mẹ đang ru con ngủ. Nhịp điệu chậm rãi, sắc thái thiết tha dịu dàng, đều đặn chất chứa nỗi buồn. Ở miền Nam, thể loại hát ru được gọi là Hát đưa em hoặc Hát ầu ơ. Chúng mang sắc thái âm nhạc độc đáo. Nhịp điệu lúc khoan thai, buông lơi rơi đều theo nhịp võng, tao nôi và khi dỗ đứa trẻ khóc thì dồn dập, khẩn 9 trương. Âm điệu Hát đưa em nghe buồn man mác, dịu êm, có khi thảm thiết ai oán, mùi mẫn, có lúc vui tươi yêu đời... Với dân tộc thiểu số hát ru gắn liền với những chiếc địu trên lưng các bà mẹ đi làm nương rẫy. Bởi vậy những bài hát ru của các tộc người thiểu số gắn với công việc lao động thường ngày. Nếu như ở dân tộc Thái, hát ru là những làn điệu Ulúknón thì với dân tộc mường lại đa dạng hơn. Hát ru của người Mường được chia làm hai loại riêng biệt: loại dành riêng để ru ban ngày và loại chỉ để ru ban đêm. Phụ nữ Khmú lại dùng Pí tót để ru con ngủ. Âm hưởng của nó rất độc đáo đó là xen lẫn tiếng sáo là những âm thanh giọng người và trong cung bậc luyến láy trầm bổng của âm nhạc là tiếng dỗ dành êm ái của người mẹ. Có vùng trẻ em Khơ mú lại được ru bằng những nét nhạc thì thào lẫn trong âm sắc rè rè của tiết tấu đao (ví dụ bài Li hem sih - Ru em ngủ). Với dân tộc Khmer, “Hát ru con (Bomke Kôn) vốn phổ biến lâu đời trong dân gian được lưu truyền từ các bà mẹ, ông bà hoặc chị. Loại hát ru này có rất nhiều dị bản với những biến hóa phát triển ít nhiều khác biệt. Nhịp điệu của chúng thường chậm rãi, phù hợp với nhịp võng đong đưa kẽo kẹt hoặc theo nhịp đẩy đưa của hai cánh tay người hát ru đang ôm ghì con vào lồng ngực. Giai điệu hát ru chạy theo đường nét dợn sóng, bắt đầu từ thấp uốn cong lên rồi đổ dần xuống về âm chủ của thang âm điệu thức.” [ 27, tr.68]. Những bài hát ru trong sinh hoạt đã được nhiều thế hệ các bà mẹ trau chuốt với tất cả tấm lòng yêu thương trìu mến đối với đứa con đang được ru. Trải qua bao đời và qua bao nhiêu nghệ sĩ dân gian những bài hát ru được trau chuốt dần dần hình thành những bài dân ca mang tính nghệ thuật cao. Bởi vậy, có những bài hát ru dần dần tách rời khỏi môi trường diễn xướng ban đầu để trở thành những tiết mục trình diễn trong những cuộc sinh hoạt văn hóa nghệ thuật và cả trong một số lễ hội. Ví dụ những điệu hát trong ca trù, hát xoan,… 10 “Xét cho cùng thì hát ru là loại hát trữ tình, chất chứa tình thương của người mẹ đối với con, ước mong sao cho con mau lớn nên người. Và hơn thế nữa, cứ mỗi lần hát ru là mỗi lần người mẹ ôn lại những chuỗi ngày đã qua mà bộc lộ bao nỗi niềm ngọt bùi cay đắng, Hát ru vẫn là những khúc ca vỗ về, nựng nịu, ru ngủ nhằm “thuyết phục” và quyến rũ đối tượng bé bỏng. Có phải vì vậy mà hình tượng âm nhạc của hát ru nghe uyển chuyển và dễ nhớ? Mặc dầu người nghe có thể chưa biết rõ tiếng tộc người này hoặc tiếng tộc người khác, nhưng vẫn cảm nhận một cách trực quan và phân biệt được hát ru với loại hát khác trong dân ca.” [27, tr.69] Một bà lão tên Trần thị Ba, xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt đã nói một câu rất hay từa tựa với lời người cha của nhà thơ lỗi lạc Rasun - Gamzatov rằng “kẻ nào không được nghe tiếng mẹ hát ru thì cũng thể như mồ côi. Và ai lớn lên dù thiếu cha thiếu mẹ nhưng được nghe hát từ trong nôi thì không thể gọi là mồ côi”. “Mặc dầu trong thời đại ngày nay cuộc sống đã có nhiều thay đổi những điệu hát ru trong cuộc đời vẫn là món ăn tinh thần quý giá cho trẻ nhỏ cần được kế thừa và phát triển. Đó là cả tấm lòng trìu mến thiết tha mà trẻ nhỏ cần ở người lớn. Đó cũng là tầm hồn của dân tộc từ ngàn xưa qua tiếng hát của những người bà, người mẹ, những người chị hoặc anh thẩm thấu dần vào tiềm thức của các bé ngay từ thủa còn nằm trên nôi để rồi sau này sẽ cùng với những yếu tố khác nảy nở thành nhân cách và tình yêu quê hương đất nước trong mỗi con người Việt Nam,…” [9, tr.82-83]. - Đồng dao: Là thể loại ca nhạc dùng cho thiếu niên nhi đồng như một hình thức vừa học vừa chơi. Một số trò chơi dùng kèm với nhạc khí. Đây là một hình thức vừa chơi vừa học rất bổ ích. Đồng dao có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục nhân cách trẻ. Trước hết là nội dung lời ca của các bài đồng dao rất đa 11 dạng. Lời ca mang tính giáo dục trẻ ở nhiều khía cạnh khác nhau: Giữ vệ sinh, gần gũi với thiên nhiên, dạy các em cách quan sát các sự vật hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh hoặc hình ảnh của một số loài vật. Con Công hay múa Nó múa làm sao Nó rụt cổ vào Nó xèo cánh ra Nhiều bài đồng dao có tác dụng rèn luyện sự nhanh nhẹn và phản xạ chính xác cho các em. Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa chết trương Ba vương ngũ đế Bắt dế đi tìm Ù à ù ập Đóng sập cửa lại [18,tr.168] Đồng dao đã mở rộng cánh cửa tâm hồn của trẻ nhỏ giúp các em dễ dàng tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bằng ngôn ngữ mang phong cách trẻ thơ, đồng dao cung cấp cho các em nhiều kiến thức về tự nhiên, về cuộc sống. Lại có những bài dạy cho các em sử dụng gia vị cho thích hợp với từng loại thực phẩm. Con gà cục tác lá chanh Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi Con chó khóc đứng khóc ngồi Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng. [Đồng dao, 23, 693] 12 Đồng dao còn là những bài luyện phát âm cho trẻ. Những câu nói ngắn gọn với âm điệu phức tạp, đồng dao không những giúp trẻ em rèn luyện phát âm tròn vành rõ chữ mà còn làm cho tiếng nói của trẻ thêm giàu nhạc điệu. Tháng năm nắng lắm Ốc bám cọc cầu ao Nồi đồng nấu ốc Nồi đất nấu ếch. Đồng dao là những bài học thực hành âm nhạc thậm chí “dù ở dạng đơn giản nhất, nghĩa là khi nó chưa phải là những bài hát thực sự mà chỉ là những câu thơ được đọc cách điệu theo thanh điệu của lời thơ và một vài kiểu tiết tấu nào đó, cũng là những bài học đầu tiên rèn luyện mĩ cảm âm nhạc và năng lực diễn xướng cho các em” [9, tr.85] Tính giản dị, khúc chiết gọn gàng dễ nhớ dễ thuộc và yếu tố nội trội là tính tiết tấu. Đó là những đặc trưng phổ biến của các bài đồng dao. Đồng dao không chỉ có mặt ở người Kinh mà còn có mặt ở các tộc người thiểu số khác như ở vùng Hà Giang thì có “Tình củm cắp tình cay”. Ngoài lời ca và nhạc điệu phần trò chơi gắn với các bài đồng dao có tác dụng quan trọng trong việc tập luyện và chuẩn bị những năng lực cần thiết cho các em để sau này có thể vững vàng bước vào đời. Qua những bài hát trò chơi này các em làm quen và rèn luyện những phản xạ nhanh chính xác, khả năng giữ thăng bằng, sự phối hợp tập thể, sự nhanh nhẹn, khéo léo, sức khỏe. Các em có thể tự làm đồ chơi cho mình như thế sẽ phát triển được tính sáng tạo, không những thế còn rèn luyện được sự khéo léo, tỉ mỉ và lòng kiên trì. Tập sử dụng những trò chơi này vừa là những bài học đầu tiên về sử dụng nhạc khí đồng thời là những bài học chuẩn bị cho các em gia nhập các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. “Quả thật các bài hát kèm theo trò chơi này không những là bài học đầu tiên về ca nhạc mà còn là những bài học vỡ lòng về thế 13 giới tự nhiên và cuộc sống xã hội vẫn còn lạ lẫm với tuổi thơ. Đó cũng là những bài tập giúp các em rèn luyện một số khă năng và tập quán cần thiết cho cuộc sống trong tương lai. Vì vậy, các bài đồng dao không chỉ thuần túy là những trò vui giải trí cho các em mà còn là những hình thức chơi mà học tổng hợp rất bổ ích và cần thiết cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng chẳng những ở các thời đại xa xưa mà ở cả thời đại ngày nay” [9, tr. 88-89]. - Hát giao duyên: Là thể loại hát đối đáp giữa nam và nữ. Đây là thể loại khá phong phú phổ biến khắp các dân tộc. Người Việt thì có Ví, Đúm, Cò lả, hát ghẹo Phú Thọ, Quan họ Bắc Ninh, người Tày thì có hát Phong slư, hát Cọi ở Hà Giang, hát giao duyên Sli, Lượn của người Tày, Nùng các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, người Dao có hát Páo dung, người Mường có hát Đúm, người Thái có hát Khắp Tua… Ở người Hmông có những bài hát tình yêu (Gầu Phlềnh) và những hình thức trao đổi tình cảm trong những ngày hội đầu xuân Gầu tào, Sải sán bằng lối hát tương tự như người Chăm, Việt, Mường… Và đặc biệt là bằng tiếng đàn môi, kèn lá mô phỏng tiếng người nhờ đó “đối tượng” nghe hiểu được chàng trai hay cô gái muốn nói điều gì. Mỗi loại có rất nhiều làn điều khác nhau, dùng để đối đáp thăm hỏi trao đổi tình cảm, ước hẹn… trong những ngày hội, ngày tết, đám cưới, chợ phiên… đặc biệt là đồng bào Nùng có lối hát đối đáp hai bè giữa từng đôi nam với đôi nữ. Hát đối đáp của đồng bào Mường phong phú về thể loại: thường, rang, bộ mẹng, bỉ, túm... Nhạc cụ đi kèm với các làn điệu ấy cũng rất đa dạng. Các chàng trai dân tộc Lự có Pí Lự, có khen (khèn) hoặc các cặp Pí Me Lụ làm nhạc cụ cho những cuộc hát đối đáp nam nữ. Các chàng trai Khmú lại dùng Pí tót nhỏ xinh để “hát” giao duyên với các cô gái. Còn ở người Tày hát giao duyên của mỗi vùng lại có cách thể hiện và trình diễn khác nhau như: Cọi, Lượn Nàng ới ở Bắc Cạn, hát lếu ở Hà Giang, điệu phong Slư ở Cao Bằng… Nét đặc trưng của dân ca giao 14 duyên Tày, Nùng là âm nhạc mộc mạc nhưng không đơn điệu, lời hát bay lượn, mềm mại du dương, lời hát đối đáp có sự pha trộn tiếng hán việt. Ở người Việt thể loại này thể hiện ở nhiều loại hình khác nhau như hát Ghẹo, hát Đúm, Cò lả, ví, Trống quân, Quan họ …. - Dân ca lễ nghi phong tục: Ngay từ thời nguyên thủy, những sinh hoạt lễ nghi tín ngưỡng đã xuất hiện và đôi khi phục vụ cho sản xuất. Dân ca lễ nghi phong tục là dân ca dùng trong nghi lễ cúng bái gồm các nghi lễ cộng đồng và nghi lễ gia đình. Nghi lễ cộng đồng có hát cửa đình, hát văn,… Hát văn là lối hát thờ gắn với tục lên đồng và một phức hợp tín ngưỡng của người Việt, trong đó nổi bật nhất là tín ngưỡng Tứ phủ. Hát Văn do các cung văn thể hiện ở các đền, phủ hoặc trong chùa (nhung chỉ hát trước Điện thờ hệ thống thần linh của phức hợp tín ngưỡng này ở trong khuôn viên chùa). Nhiều làn điệu bài bản có sắc thái tình cảm đa dạng, song Cờn Dọc Xá là những điệu hát riêng độc đáo của hát văn. Nét nổi bật nhất của thể loại này là tính tiết tấu. Ca trù (hát ả Đào): Đây là lối hát thờ của người Việt dùng ở đình đền, vì vậy nó nằm trong thể loại hát cửa đình. Các cuộc hát cổ xưa có nhiều nhạc khí về sau chúng dần được tinh giảm chỉ còn một trống chầu do quan viên cầm chầu dùng để thưởng phạt và hai nhạc khí đệm đặc trưng chỉ có trong hát ả đào: Đàn đáy và phách bàn với bộ dù ba lá dùng trong lối hát chơi. Hát xoan (khúc đình môn): Chỉ có ở Vĩnh Phú, là thể loại diễn xướng tổng hợp sôi nổi gồm cả hát – múa và trò diễn. Nó có một hệ bài bản phong phú được trình diễn theo lề lối quy định với ba chặng chính có đặc trưng khác nhau. Tiết mục đặc sắc nhất của hát xoan là một trò diễn vui và sôi nổi: Đánh cá. Tuy nhiên đó là một nghi thức có liên quan đến tín ngưỡng dùng để kết thúc lễ hội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan