Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mục tiêu phát triển xuất nhập của việt nam thời kỳ 2011 - 2020...

Tài liệu Mục tiêu phát triển xuất nhập của việt nam thời kỳ 2011 - 2020

.PDF
44
97
68

Mô tả:

BỘ CÔNG THƯƠNG DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU – VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”. BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020 CN. Vương Đức Toản Viện Nghiên cứu thương mại Bộ Công Thương Hà Nội, 11 - 2010 LỜI MỞ ĐẦU Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (dự thảo - sửa đổi, bổ sung 2001) đã xác định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Kết hợp chặt giữa ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển “năng lượng sạch”, “sản phẩm sạch” và “tiêu dùng sạch”. Thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu. Bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia. Mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng đất nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Đại hội Đảng lần thứ XI sẽ quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020, dự thảo lần cuối là chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo định hướng XHCN. Trong đó, đã xác định mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 – 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần năm 2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 300 – 3.200 USD. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng GTSX công nghiệp. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng ít nhất đạt 35%. Giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 – 3%/năm; thực hành tiết kiệm sử dụng mọi nguồn lực. Tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%. Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng (Dự thảo) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm đầu của thời kỳ chiến lược (2011 2015), đề ra các mục tiêu phấn đấu chủ yếu : Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2011 – 2015: 7,5 – 8%/năm; năm 2015 GDP bình quân đầu người 2.100 USD, gấp 1,7 lần năm 2010, năng suất lao động gấpo 1,5 lần năm 2010; kim 1 ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu; tốc độ tăng dân số dưới 1%. Phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 0- 2020 phải góp phần quan trọng th các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được xác định trong (dự thảo) các văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu trên. Đồng thời, việc xác định các mục tiêu phát triển xnka phải phù hợp với bối cảnh quốc tế và trong nước thời kỳ tới, phù hợp với năng lực phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy, việc nghiên cứu chuyên đề khoa học nàynhằm cung cấp cơ sở khoa học cho viẹc xác định các mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020 là rất cần thiết. Nội dung chuyên đề được trình bày trong 3 phần: I.- Triển vọng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ đến năm 2020 II.- Các mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ đến năm 2020 III.- Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020. Dưới đây là nội dung chuyên đề. 2 I.- TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẾN NĂM 2020 1. Bối cảnh thế giới và khu vực trong 5 – 10 năm tới tác động đến xuất nhập khẩu của Việt Nam. - Quốc tế hoá mọi mặt của đời sống quốc tế sẽ tiếp tục tiến triển nhưng sẽ có những điều chỉnh về hướng và lĩnh vực qui mô hoạt động kinh tế toàn cầu bị giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, sẽ phục hồi. Lộ trình thúc đẩy tự do hoá thương mại có thể bị chậm lại một cách tương đối. Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy, các rào cản thương mại mới ngày càng tinh vi; nhưng ít có khả năng đảo ngược được qui trình tự do hoá thương mại. - Trên thế giới, bên cạnh xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác cùng có lợi tiếp tục chiếm ưu thế là là tiền đề để phát triển xuất nhập khẩu của quốc gia thì nguy cơ xảy ra chiến tranh năng lượng, chạy đua hạt nhân, các xung đột sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, tranh giành về tài nguyên, khủng bố quốc tế… có thể gia tăng. Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường trở thành thách thức ngày càng lớn. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển về qui mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy toái kinh tế toàn cầu vừa qua, các nước đang đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng gắn chặt phát triển kinh tế tri thức với phát triển “kinh tế xanh”, chú trọng chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, thương mại dịch vụ sẽ được chú trọng phát triển hơn thương mại hàng hóa. Song song với toàn cầu hoá chủ nghĩa khu vực sẽ phát triển mạnh h ơn nhiều khả năng trào lưu các nước đẩy mạnh liên kết khu vực v à song phương, đặc biệt l à b ùng nổ các thoả thuận tự do hoá thương mại song phương CBFFTA. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi nhanh với sự xuất hiện của các liên kết mới, độ rủi ro và bất định của nền kinh tế thế giới còn rất lớn. Cấu hình của nền kinh tế và thương mại thế giới đang khác trước, sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu đang làm cho quan hệ trao đổi thương mại quốc tế ngày càng khác với truyền thống. - Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh rất nhanh, thế lực ảnh hưởng ngày càng lớn, đang sử dụng công cụ tiền tệ để gia tăng áp lực đối với các nền kinh tế khác… 3 sẽ tác động mạnh đến kinh tế và thương mại toàn cầu. Tình hình đó sẽ làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với Việt Nam về kinh tế, thương mại, chủ quyền ở Biển Đông, an ninh quốc gia, an toàn sức khỏe… - Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn, hội nhập khu vực sâu hơn. Các nước ASEAN đang nỗ lực thúc đẩy liên kết nội khối để hoàn thành xây dựng cộng đồng kinh tế (ACE) vào năm 2015, tiến tới xây dựng Cộng đồng chung theo Hiến chương ASEAN. Mặt khác, ASEAN đang nỗ lực đóng vai trò chủ động tăng cường liên kết khu vực Đông Á mở rộng. Đang định hình cấu trúc liên kết mới tại khu vực, với vai trò trung tâm của ASEAN. Cục diện liên kết quốc tế mới tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang hình thành, với phạm vi và hình thức đa dạng: TPP, FTA Đông Á, FTA Đông Á mở rộng, AEFTA… phản ánh động thái và mức độ tranh giành ảnh hưởng, tranh giành thị trường của các nước lớn tại khu vực này sẽ ngày càng quyết liệt trong thời kỳ tới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối với nước ta trong phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới. - Kinh tế thế giới sau kỳ suy thoái hiện nay1, sẽ phục hồi và bước vào kỳ tăng trưởng mới sau năm 2012, có thể sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong các năm 2016 – 2017 để chuyển sang kỳ suy thoái mới vào những năm tiếp theo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới bình quân năm của giai đoạn 2011 – 2015 rất có thể sẽ thấp hơn giai đoạn 2016 – 2020. Theo đa số các dự báo, kinh tế thế giới sẽ phục hồi từ sau năm 2010 và sẽ cần 4 – 5 năm để đạt được tốc độ tăng trưởng 3 – 4%/năm. Các nền kinh tế mới nổi, các nền kinh tế ASEAN và Châu Á nói chung sẽ phục hồi nhanh hơn, bước vào thời kỳ tăng trưởng sớm hơn các khu vực khác. Nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ có thể phục hồi rõ nét từ năm 2012 để bước vào thời kỳ tăng trưởng mới, nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng mức trung bình của thế giới. Các nền kinh tế EU và Nhật Bản sẽ phục hồi rất chậm, tốc độ tăng trưởng GDP trong kỳ tăng trưởng sẽ thấp hơn rất nhiều khu vực khác. Khu vực động lực của tăng trưởng kinh tế thế giới thời kỳ đến năm 2020 sẽ là các nền kinh tế mới nổi Châu Á và ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ. 1 Do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008, tụt đáy trong anwm 2009 (tăng trưởng -5,3%), vượt đáy trong năm 2010 (theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc về tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010 thì tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 chỉ 2,4%. Theo IMF thì tỉ lệ tăng trưởng dưới 2,5% thì được định nghĩa là suy thoái kinh tế thế giới. 4 - Thị trường hàng hóa thế giới đang có dấu hiệu tăng giá trở lại, rất có thể sẽ hình thành mặt bằng giá mới trong các năm 2012 – 2014. Giá cả hàng hóa thế giới co nhiều khả năng sẽ tăng bình quân 2-3%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020. Xu hướng phát triển “năng lượng sạch” và “tiêu dùng sạch” tiếp tục gia tăng, sẽ tác động mạnh đến thương mại thế giới. - Tăng trưởng thương mại thế giới sẽ tiếp tục có quan hệ đồng biến với tốc độ phục hồi và gắn liền với kỳ tăng trưởng của kinh tế thế giới, có thể sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các năm 2015 – 2017. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực động lực chính của tăng trưởng thương mại toàn cầu thời kỳ tới 2020.. Vai trò động lực của Trung Quốc trong tăng trưởng thương mại toàn cầu có thể sẽ giảm xuống tương đối trong thời kỳ tới, do nước này sẽ phải giảm nhịp độ xuất khẩu để tăng nhịp độ nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và đang điều chính Chiến lược thị trường hướng mạnh vào khai thác thị trường Trung Quốc mở rộng (bao gồm cả Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao). Hoa Kỳ đang nỗ lực tăng cường xuất khẩu hàng hóa để đạt mục tiêu kỳ vọng đến năm 2015 tăng kim ngạch xuất khẩu gấp 2 lần năm 2010, đồng thời phải giảm nhịp độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa để giải quyết sự thâm hụt của cán cân vãng lai, sẽ là nhân tố quan trọng tác động mạnh đến thương mại toàn cầu. Các nước Đông Bắc Á và LB Nga tiếp tục thực hiện chính sách hướng Nam mạnh mẽ, sẽ tác động mạnh đến dòng hàng hóa trao đổi giữa khu vực này với ASEAN. EU sẽ chú trọng tăng cường xuất khẩu dịch vụ, tăng cường trao đổi thương mại với các nước ASEAN và Ấn Độ, là nhân tố quan trọng tác động đến cán cân thanh toán vãng lai của các nước này. Trung Quốc tiếp tục là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến thương mại khu vực, nhất là khu vực ASEAN. Từ thành công trong cuộc điều chỉnh Chiến lược thị trường lần thứ ba từ Tây sang Đông (sau khi Trung Quốc gia nhập WTO) nhằm thu hút nguồn tài nguyên phong phú của các nước Phương Đông cho tăng trưởng “nóng” và đảm bảo an ninh năng lượng2, hiện nay Trung Quốc đang thực hiện cuộc điều chỉnh Chiến lược thị trường lần thứ tư, với trọng tâm là hướng vào kích cầu tiêu dùng trong nước, phát triển thị trường trong nước. Sau 30 năm cải cách và mở cửa (1978 – 2009), tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chủ yếu do 2 Tỉ trọng của thị trường Châu Á trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc đã tăng từ 55,5% trong năm 2001 lên 63,3% trong năm 2006 và 57,5% trong năm 2009; tỉ trọng của thị trường Châu Phi tăng từ 2% lên 3,9% và 7,1% trong thời gian tương ứng. 5 hai động lực chính là đầu tư và xuất siêu; trong thời kỳ tới, tăng trưởng c ủa Trung Quốc sẽ chủ yếu dựa vào khoa học công nghệ và tiêu dùng. 2. Vị thế những thách thức đối với Việt Nam trong phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới năm 2020 1. Tình hình chính trị - xã hội mang tính ổn định cao, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang ngày càng được nâng lên cùng với tiến trình hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới Diện mạo của đất nước đang có nhiều thay đổi, thế là lực của đất nước đang ngày càng vững mạnh thêm; độc lập dân tộc, chủ quyền và quyền lợi quốc gia trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế được đảm bảo. Việt Nam đang hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng trong Liên Hợp Quốc, trong ASEAN và các tổ chức quốc tế khác, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã ký kết, tham gia gần 12 nghìn điều ước quốc tế song phương và đa phương, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với trên 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương , 54 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 52 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 800 công ty từ trên 70 nước và vùng lãnh thổ; tranh thủ ODA của trên 45 nước và tổ chức tài chính quốc tế, của trên 350 tổ chức phi Chính phủ… Hiện Việt Nam đang đảm nhận chức trách chủ tịch ASEAN và chủ tích HĐBALHQ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011 – đang dự thảo) đã đề ra mục tiêu: “từ nay đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN”. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu này là tiếp tục: “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; trong quá trình đó, phải giải quyết tốt “mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế…” 2. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm đang phát triển có thu nhập trung bình nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp trên cả 6 cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, tiếp tục là điểm bất lợi trong tham gia FTA thời kỳ tới Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1200 USD. Hệ số co dãn giảm nghèo đang tiếp tục có xu hướng giảm xuống (từ 0,28 trong các năm 2000 – 2004 xuống 0,14 trong các năm 2007-2008 và khoảng 0,12 năm 2010). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (dự thảo) đã đề ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3000 – 3200 USD, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP, giá rị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong GDP, giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% giá trị sản xuất công nghiệp, chỉ số phát triển con người (HID) đạt nhóm trung bình cao của thế giới, lao động qua đào tạo chiếm 70% tổng số lao động, thu nhập thực tế của dân cư gấp 3,5 lần so với năm 2010, với tốc độ tăng dân số cố định 1,1%. 3. Qui mô và vị trí, vai trò của nền kinh tế Việt Nam trong kinh tế toàn cầu đang ngày càng nâng lên, nhưng khả năng giành lợi thế cạnh tranh theo qui mô kinh tế khi mở rộng xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới vẫn còn nhiều hạn chế Đến năm 2010, GDP của Việt Nam đã đạt khoảng 108 tỉ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân 7-8%/năm, đến năm 2020, GDP của nền kinh tế sẽ đạt khoảng 225 – 230 tỉ USD, nâng tỉ lệ đóng góp của Việt Nam trong GDP toàn cầu từ mức 0,25% trong giai đoạn 1996 – 2000 và 0,32% trong thời kỳ 2001 – 2010 lên khoảng 0,38 – 0,40% vào năm 2020. Điều đó phản ánh qui mô và đóng góp của Việt Nam vào qui mô kinh tế toàn cầu có xu hướng ngày càng tăng. Mặt khác, Việt Nam có vị trí ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu khi thứ hạng về tăng trưởng GDP của ta trong Bảng xếp hạng tăng trưởng GDP toàn cầu có xu hướng ngày càng cao (theo WB và UNIDO, trong bảng xếp hạng các nền kinh tế thế giới, trong thời kỳ 1986-2006, Việt Nam đã thay đổi được 17 bậc, từ vị trí thứ 95 lên vị trí thứ 78). Việt Nam có vai trò đóng góp ngày càng tăng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (tỉ 7 trọng giá trị tăng toàn ngành công nghiệp (MVA) của Việt Nam trong tổng MVA của toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã tăng từ 0,4% năm 1995 lên 0,7% năm 2005 và ước khoảng 0,9% năm 2010). Tuy thu nhập của người dân Việt Nam từ tăng trưởng công nghiệp còn khá thấp so với mức trung bình của các nước đang phát triển nhưng đang dần được nâng lên. Năm 2006, chỉ số MVA/ đầu người của Việt Nam đã đạt 113 USD, bằng 24,7% mức trung bình của các nước đang phát triển (456 USD), dự ước, đến năm 2020, chỉ số MVA/ đầu người của Việt Nam sẽ đạt khoảng 135 USD (công nghiệp chiếm khoảng 55% GDP, dân số khoảng gần 97 triệu người). Việt Nam có vị thế ngày càng cao trong việc cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho thị trường thế giới, đóng góp ngày càng lớn vào đảm bảo an ninh lương thực và an ninh năng lượng toàn cầu. Đến nay, nhóm hàng chế biến XK của ta đã chiếm 0,28% thị phần toàn cầu, các nhóm hàng thô và sơ chế chiếm 0,72% (riêng điều nhân chiếm khoảng 50%, hồ tiêu chiếm 45%, cà phê chiếm 16-18%, cao su thiên nhiên chiếm 8-10%, chè chiếm 5-6%, thuỷ sản chiếm 4-5%, đồ gỗ chiếm 23%). Cùng với việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thị phần của ta trong tổng khối lượng XK lương thực (gạo) toàn cầu có xu hướng ngày càng cao, thời kỳ 2001 – 2010 chiếm khoảng 16-18%, phản ánh mức độ đóng góp của Việt Nam vào việc đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu rất lớn (chỉ sau Thái Lan). An ninh năng lượng được đảm bảo và mức độ đóng góp của Việt Nam vào việc đảm bảo an ninh năng lượng toàn cầu đang ngày một nâng lên (thời kỳ 1996 – 2005 ta chiếm tỉ trọng 0,19% giá trị tổng sản lượng điện toàn cầu, giai đoạn 2006 – 2010 chỉ số này là khoảng 0,30%). Thị phần của hãng hàng không quốc gia Việt Nam trên thị trường vận tải hàng không toàn cầu cũng ngày càng tăng, từ 0,67% năm 2007 lên chiếm khoảng 0,85% năm 2010 và dự báo sẽ chiếm trên 1% sau năm 2015 (đến nay, so với mức bình quân trong khu vực, năng suất lao động bằng 42%, qui mô đội bay bằng 46%, thị phần chiếm 3,6% các nước đang phát triển). Tỉ trọng kim ngạch XK dịch vụ du lịch của ta trong tổng kim ngạch XK dịch vụ du lịch toàn cầu tăng dần từ 0,21% năm 2006 lên 0,27% năm 2010 và dự ước sẽ đạt khoảng 0,60% vào năm 2020. Qui mô thị trường bán lẻ Việt Nam đang tăng nhanh từ khoảng 20 tỉ USD năm 2001 lên 37 tỉ USD năm 2006 và khoảng 49 tỉ USD năm 2009. Dự ước, qui 8 mô thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ đạt khoảng 55 – 56 tỉ USD trong năm 2010 và sẽ đạt trên 110 tỉ USD vào năm 2020 (tăng trưởng khoảng 20%/năm). Qui mô thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhanh do nhiều yếu tố, trước hết là do qui mô dân số (đến nay tổng dân số đạt 87 triệu người, xếp thứ 13 trong 208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, dự thảo chiến lược phát triển KT-XH thời kỳ 2011 – 2020 đề ra mục tiêu tăng dân số bình quân 1,1%/năm, đến năm 2020 qui mô dân số của Việt Nam sẽ ở mức 97 triệu người). Thu nhập của dân cư đang tăng lên và tỉ lệ quĩ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (trên 70% của Việt Nam so với 55,9% của Singapore , 58,2% của Maylayxia, 67,7% của Thái Lan…), tốc độ tiêu dùng tăng cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng dân số (tỉ lệ này thời kỳ 2001 – 2009 là 7,7% so với 1,4%; dự ước thời kỳ 2011 – 2020 là 7,4% so với 1,1%), tốc độ tiêu dùng của dân cư tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP (thời kỳ 2001 – 2009 là 7,7% so với 7,4%, dự ước thời kỳ 2011 – 2020 là 7,4% so với 7,0%)… cũng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thị trường bán lẻ Việt Nam tăng trưởng nhanh. Mức độ hấp dẫn và nhu cầu đầu tư về phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại ở Việt Nam đang đứng hàng đầu thế giới. 4. Mức độ thâm dụng tài nguyên thiên nhiên và tác động đến môi trường sinh thái của kinh tế còn cao, tiếp tục đặt ra những thách thức lớn đối với phát triển xuất khẩu bền vững của Việt Nam trong dài hạn. Tỉ lệ khai thác năng lượng/GNP của Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh từ 4-8% trong giai đoạn 1990-1998 lên 9-12% trong giai đoạn 2000 -2004 và 15-22% trong giai đoạn 2005 - 20103 (chỉ số này của Ấn Độ trong thời kỳ 1990 – 2008 chỉ dao động ở mức 3-4%). Tỉ lệ mức tiết kiệm năng lượng của Việt Nam4 thấp hơn mức tiết kiệm điện trung bình của thế giới, của khu vực (thời kỳ 1990 – 2005 mức tiết kiệm điện bình quân của Việt Nam là -3,4%, của Trung Quốc là +3,3%). Tuy tỉ trọng lượng khí thải công nghiệp của Việt Nam trong tổng lượng khí thải công nghiệp toàn cầu còn rất nhỏ (do qui mô ngành công nghiệp còn nhỏ 3 Khai thác năng lượng bằng sản lượng khai thác thực tế (gồm dầu thô, khí đốt và than) x đơn giá khai thác – Nguồn: WDI 4 Mức tiết kiệm năng lượng là mức chênh lệch giữa tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp so với tốc độ tăng về tiêu thụ điện của toàn ngành công nghiệp 9 bé) nhưng tỉ lệ giữa lượng khí thải so với giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp đang rất cao, phản ánh tác động đến môi trường sinh thái của tăng trưởng công nghiệp đang rất lớn. Tình trạng yếu kém đó chưa thể khắc phục và cải thiện được nhiều trong ngắn và trung hạn, làm hạn chế sự đóng góp của Việt Nam vào mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu. 5. Qui mô, mức độ tham gia trao đổi và phân công lao động quốc tế của nền kinh tế nước ta ngày càng sâu rộng, độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn nhưng mức độ phụ thuộc vào thị trường thế giới ngày càng nhiều, độ co giãn về cung thấp nên rủi ro ngày càng tăng khi mở rộng xuất nhập khẩu trong điều kiện tự do hoá ngày càng cao. Đóng góp của Việt Nam vào tăng trưởng thương mại toàn cầu tuy còn nhỏ nhưng đang có xu hướng tăng lên. Tỉ trọng giá trị thương mại quốc tế của Việt Nam trong tổng giá trị thương mại toàn cầu ngày càng tăng (đến năm 2008 thương mại hàng hóa đã chiếm 0,45%, thương mại dịch vụ chiếm 0,28%, riêng XK hàng hóa chiếm 0,39%, XK dịch vụ chiếm 0,2% trong tổng XK toàn cầu). Tỉ lệ khối lượng tiền tệ chuyển dịch giữa Việt Nam với thế giới không liên quan đến thương mại so với GDP có xu hướng tăng nhanh (năm 2008 đạt 24,8%), qui mô kinh tế tượng trưng ngày càng lớn (năm 2008 bằng 0,25 lần qui mô kinh tế thực so với chỉ số này của toàn cầu là trên 3,5 lần). Độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu vươn ra đầu tư phát triển kinh doanh ngoài biên giới quốc gia (thời kỳ 1989-2008, tổng vốn danh nghĩa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bằng 0,68% GDP, vốn thực hiện bằng 0,19% GDP). Đóng góp của khu vực FDI đối với nền kinh tế quốc dân có xu hướng ngày càng lớn (đến năm 2008, khu vực FDI chiếm 41% vốn đầu tư xã hội, gần 20% GDP, 45% GTSX công nghiệp, 57% tổng kim ngạch XK, 31% tổng kim ngạch nhập khẩu, 20% tổng số doanh nghiệp tham gia XK và 15,5% tổng số doanh nghiệp tham gia nhập khẩu), phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài. Xuất, nhập khẩu hàng hóa có vai trò ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế, tỉ lệ giữa tổng giá trị thương mại quốc tế so với GDP ngày càng tăng (giai đoạn 2008 – 2010 bằng khoảng 155%, riêng XK bằng 75-76%) phản ánh mức độ phụ thuộc và tác động của thị trường thế giới đối với nền kinh tế có xu hướng ngày càng tăng, mức độ rủi ro ngày càng lớn. 10 Tình hình dự trữ quốc tế đang dần được cải thiện (năm 2008 – 2010 dự trữ quốc tế ở mức bằng 20% GDP), nợ nước ngoài vẫn đang trong tầm kiểm soát nhưng tỉ lệ tổng dư nợ nước ngoài so với GDP đang có xu hướng tăng cao (năm 2007 đã là 27%) để lại gánh nặng cho nền kinh tế - xã hội trong dài hạn. Do phần lớn vay nợ nước ngoài là ODA, được đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, mà việc sử dụng nguồn vốn này đang bị thất thoát, tham nhũng… nên sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển dài hạn khác, gây bất bình trong dư luận xã hội. Tình hình cán cân vãng lai chưa có dấu hiệu được cải thiện rõ rệt, tỉ lệ thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai so với GDP vẫn đang ở mức cao (thời kỳ 2000 – 2010 là 10,8%, riêng năm 2008 là 11,8%), khả năng tài trợ của nền kinh tế cho thâm hụt cán cân thương mại ngày càng trở nên mong manh hơn, đe dạo đến cán cân thanh toán tổng thể của nền kinh tế. Tình hình đó phản ánh nền kinh tế vẫn đang có xu hướng tiêu dùng ngày càng nhiều hơn tài sản của nước ngoài. 6. Sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đối với nền kinh tế ngày càng lớn, trong khi mức độ phụ thuộc vào các nguồn lực nước ngoài của nền kinh tế có xu hướng ngày càng cao, có quan hệ đồng biến với một số thách thức kinh tế vĩ mô trong ngắn và trung hạn nhất là đối với cán cân thương mại Việt Nam tự do hoá sâu hơn theo các cam kết hội nhập quốc tế. Các TNCs đang tác động ngày càng tăng đến thị trường trong nước qua kênh FDI. Đặc biệt hệ thống bán lẻ hiện đại (khâu có giá trị gia tăng cao, thị trường bán lẻ Việt Nam có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới) ở các đô thị lớn Việt Nam đang có nguy cơ bị các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài thao túng, chi phối. Trong giai đoạn 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng bán lẻ của khu vực FDI tăng khoảng 46%/năm, thị phần bán lẻ của khu vực này tăng từ 4%/năm 2006 lên chiếm 10% trong năm 2010, các tập đoàn phân phối nước ngoài tuy chỉ chiếm 10% số siêu thị, trung tâm thương mại nhưng đang chiếm khoảng 50% khối lượng hàng hóa lưu thông qua hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam. Các TNCs đang tác động mạnh đến cả thị trường đàu vào và thị trường đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước. Các TNCs cũng tác động và chi phối ngày càng nhiều đến xuất nhập khẩu và tình trạng nhập siêu của Việt Nam. Đối với xuất khẩu, các doanh nghiệp của ta với tiềm lực hạn chế chưa thể cạnh tranh trực diện với các TNCs ở các thị trường XK có sức mua 11 lớn, ổn định (EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản…) nên khoảng 80% hàng XK của ta phải xuất giá FOB, hiệu quả và doanh thu XK thấp so với hàng hóa cùng loại của các nước khác. Với chiến lược “khoá” thị trường thế giới và tăng cướng thương mại nội bộ, các TNCs đang chi phối thị trường toàn cầu, khiến một số mặt hàng XK chủ lực của ta chiếm tới 20-50% thị phần nguồn cung toàn cầu (điều nhân, hồ tiêu, cà phê, gạo…) nhưng chưa có tác động đáng kể nào đến cung – cầu, giá cả trên thị trường thế giới để tăng hiệu quả XK. Đối với nhập khẩu, phần lớn các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (FDI) là các công ty chi nhánh con, cháu, chắt của các TNCs lớn trên thế giới. Do xu hướng của các TNCs là chuyển mạnh đầu tư vào các ngành kỹ thuật cao, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính, bảo hiểm, logistics, dịch vụ phân phối…), nên tác động chuyển dịch có tính “dây chuyền” qua các công ty con, cháu qua con đường FDI chuyển giao các thiết bị công nghệ lạc hậu vào Việt Nam. Điều đó, một mặt làm tăng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ kiện, phụ tùng thay thế vào Việt Nam; mặt khác, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của hàng XK chậm được nâng lên (các doanh nghiệp FDI đang chiếm gần 60% kim ngạch XK) Do các TNCs ngày càng sử dụng các phương pháp kinh doanh quốc tế của đầu tư không có quyền sở hữu cổ phần, như: uỷ thác, gia công, hợp đồng tiêu thụ, chuyển nhượng kỹ thuật, nhượng quyền thương mại… cũng đã phần nào tác động có tính dẫn dắt nhu cầu của thị trường Việt Nam hướng đến tiêu thụ sản phẩm của các TNCs ở các công ty chi nhánh nước ngoài sản xuất thông qua con đường nhập khẩu vào Việt Nam (kể cả dưới hình thức tài trợ cho nhập khẩu). Điều đó làm tăng nhập khẩu hàng ngoại, tăng nhập siêu và gây bất lợi cho cán cân vãng lai của ta. Sự hình thành và phát triển các mạng sản xuất khu vực, mạng sản xuất toàn cầu dưới sự chi phối của các TNCs đang và sẽ tác động mang tính điều chỉnh cơ cấu một số ngành công nghiệp và cán cân thương mại của Việt Nam theo kênh FDI. Các TNCs khi đầu tư vào Việt Nam thì các cơ sở sản xuất của họ ở một số nước trong khu vực (Thái Lan. Maylayxia, Trung Quốc…) là nguồn cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện để thực hiện các công đoạn chế tạo, gia công, lắp ráp tiếp theo tại Việt Nam. Vì thế, khi FDI vài Việt Nam ngày càng tăng thì nhập khẩu các mặt hàng chất dẻo nguyên liệu, linh kiện ô tô, xe máy, máy móc, thiết bị, dụng 12 cụ, phụ tùng, vải sợi, nguyên phụ liệu dệt may và da giày… từ các nước kể trên cũng sẽ tăng theo để làm đầu vào cho các nhà máy sản xuất có vốn FDI tại Việt Nam. Khi nước ta chưa phát triển được các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành sản xuất chính thì nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng này vẫn tăng cao. Đặc biệt, khi thương mại khu vực ngày càng tự do hơn, Việt Nam cắt giảm thuế quan sâu hơn từ sau năm 2010 theo các cam kết FTA…, các dòng chảy thương mại gặp ít rào cản hơn, việc nhập khẩu các mặt hàng nêu trên thuận lợi hơn thì tính bức thiết phải mở thêm các cơ sở công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam của các tập đoàn đa quốc gia cũng giảm xuống. Điều đó sẽ là một nguyên nhân quan trọng của sự tiếp tục chậm trễ trong phát triển công nghiệp hỗ trợ của ta thời kỳ tới. Là chủ thể chính xây dựng và lãnh đạo các chuỗi giá trị toàn cầu, các TNCs sẽ có tác động bất lợi đến việc nâng cấp trình độ sản xuất, gia công và tái cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp ở Việt Nam khi điều kiện thương mại ngày càng tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA. Xu hướng chung là các TNCs tập trung vào các khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu như: nghiên cứu, thiết kế sáng tạo (công nghiệp), tạo ra giống mới và qui trình sản xuất tiên tiến (nông nghiệp), marketing và phân phối (thương mại)… sau đó chuyển giao cho các doanh nghiệp ở các nước có trình độ thấp hơn (theo con đường FDI hoặc chuyển giao kỹ thuật) thực hiện các khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn, như: sản xuất, chế biến, gia công lắp ráp… Theo cách thức đó, các TNCs vừa giữ được vai trò lãnh đạo, chi phối các chuỗi giá trị toàn cầu, vừa tạo ra mạng lưới sản xuất rộng khắp toàn cầu để bòn rút tài nguyên, sức lao động rẻ của các nước có trình độ phát triển thấp. Vì thế, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không nỗ lực tận dụng các điều kiện thuận lợi của các FTA mang lại để tham gia sâu hơn vào các nấc thang cao hơn trong các chuỗ+i giá trị toàn cầu, vào các khâu tạo ra giá rị gia tăng cao hơn nêu trên, thay vì chỉ sản xuất, gia công lắp ráp như hiện nay, thì nguy cơ rơi vào “bẫy chi phí lao động thấp” và đứng ở vịtrí thấp trong bậc thang chuỗi giá trị toàn cầu là khó tránh khỏi, nguy cơ Việt Nam có thể tụt hậu xa hơn khi tham gia ngày càng nhiều các FTA khu vực và song phương. Các cách thức nêu trên sẽ tăng lên cùng với tình trạng nếu nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phụ thuộc năng nề vào bên ngoài về công nghệ sản xuất, về máy móc thiết bị và các nguyên liệu cơ bản. Thực tế cho thấy, mức độ phụ thuộc của 13 nền kinh tế vào bên ngoài về nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ ngày càng lớn, nhất là sau khi gia nhập WTO và thực hiện các FTA đã ký kết (trong cả giai đoạn 2006 – 2008, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này chiếm 70% tổng KNNK và bằng 57% GDP, riêng năm 2006, các chỉ số này là 56,4% KNNK và bằng 48,8% GDP, năm 2008 tăng lên 74,7% và bằng 65,1% GDP). Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài nặng nế nhất trong thời kỳ tới vẫn là nhiên liệu (giảm dần từ 95% trong năm 2010 xuống khoảng 70-80% trong thời kỳ sau năm 2015), công nghệ (khoảng 90%), máy móc thiết bị (70-80%), nguyên phụ liệu một số ngành công nghiệp (sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 70 -80%, sản phẩm dệt may và giày da khoảng 65 – 75%, sản phẩm nhựa 50 – 60%, hoá chất khoảng 80%, sản phẩm thép khoảng 40 – 50%, thức ăn chăn nuôi khoảng 60 -70%, nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh khoảng 70 – 80%). Đây cũng là những ngành sản phẩm bị tác động nhiều nhất khi tự do hoá sâu hơn vào theo các cam kết WTO và cam kết FTA, và cũng rất nhạy cảm với những biến động của tình hình thị trường thế giới. 7. Chất lượng tăng trưởng thấp, công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics chậm phát triển, chi phí đầu vào và đầu ra của nền kinh tế cao làm hạn chế khả năng tận dụng những cơ hội phát hiện mới do hội nhập quốc tế mở ra, tiếp tục là một bất lợi lớn đối với phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam khi tự do hoá ngày càng sâu hơn theo các cam kết hội nhập quốc tế. Chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả kinh tế và nội năng của nền kinh tế chậm được nâng lên sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế trong cạnh tranh với các đối tác trong các FTA mà Việt Nam tham gia thời kỳ tới. Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 1990 – 2010, yếu tố năng suất lao động5 mới chỉ đóng góp khoảng 30% còn yếu tố vốn đóng góp 50% và yếu tố lao động đóng góp khoảng 20% (các chỉ số tương ứng của Ấn Độ là 36%, 40% và 324%). Chỉ số tăng năng suất lao động tổng hợp (TFP) của nền kinh tế vẫn đang có xu hướng giảm xuống (từ 4,31%/năm trong giai đoạn 1991- 1995 xuống 2,56%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000 và còn 1,7% giai đoạn 2001 – 2008). Chỉ số MVA/GO của ngành công nghiệp và VA/doanh thu của thương mại trong nước cũng đang có xu hướng giảm (chỉ số MVA/GO giảm từ 38,4% năm 5 Năng suất lao động: GDP thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc – Nguồn số liệu: EIU 14 2000 xuống 24,8% năm 2008 và 21% năm 2009, chỉ số VA/doanh thu của thương mại trong nước thời kỳ 2001 – 2010 không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24-29%)6 Mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn đang chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư, nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp. Hệ số ICOR tăng nhanh từ mức 4,4 trong giai đoạn 2001 – 2006 lên 5,3 trong năm 2007, 6,55 trong năm 2008 và xấp xỉ 7,0 trong năm 2009, cao hơn gấp hai lần các nước trong khu vực khi ở giai đoạn công nghiệp hoá tương tự như Việt Nam hiện nay7 XK đang là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhưng mô hình tăng trưởng XK của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu thô và các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn ngoại tệ và nhìn chung là hiệu quả thấp. Do kết cấu hạ tầng phát triển thương mại và dịch vụ logistics chưa phát triển nên hàng XK của Việt Nam phần lớn chưa thể xuất trực tiếp sang thị trường Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng sang Hông Kông, Singapore. Chi phí XK cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực (năm 2007, chi phí XK của Việt Nam là 701 USD/container 20ft, mức trung bình của khu vực là 500 USD, của Thái Lan 848 USD, của Trung Quốc là 335 USD, Maylayxia là 481 USD, Hồng Kông là 435 USD…)8. Do dịch vụ vận tải biển chưa phát triển nên các doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam mới chiếm khoảng 22 – 24% thị phần vận tải hàng hóa XK và khoảng 18 – 20% thị phần vận tải hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Dịch vụ bảo hiểm hàng hóa xuất, nhập khẩu và các dịch vụ hỗ trợ khác mới hình thành nên chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển (trong 3 năm 2005 – 2007, Việt Nam phải chi trả 6 tỉ USD cho nước ngoài về chi phí bảo hiểm và vận tải hàng hóa XNK, chiếm 35,7% tổng chi dịch vụ cùng giai đoạn và là yếu tố chính làm thâm hụt cán cân dịch vụ của ta). Cơ cấu XK chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, đến giai đoạn 2008 – 2010, nhóm hàng chế biến XK mới chiếm 6 - MVA/GO: Tỉ lệ giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp so với giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. - VA/Doanh thu của thương mại trong nước: Tỉ lệ giá trị gia tăng so với tổng mức LCHHBLXH. 7 Hệ số ICOR của Hàn Quốc thời kỳ 1961-1980 là 3,0, của Đài Loan cùng thời kỳ là 2,7; của Indonexia, Maylayxia và Thái Lan trong giai đoạn 1981- 1985 lần lượt là: 3,7 , 4,4 và 4,1; của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2006 là 4,0 8 Chi phí XK bao gồm: chi phí giấy tờ, hành chính, bỗ dỡ, lưu kho, vận chuyển đường bộ cho 1 container 20 ft – Nguồn: Doiry Business 2007, WB. 15 58-59% (Trung Quốc năm 2000 đã đạt 92%, Hàn Quốc năm 1986 đã đạt 96%), nhóm hàng thô và sơ chế vẫn chiếm 41 – 42%, nên độ co giãn về cung với thị trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. Trong điều kiện tự do hoá ngày càng cao thì mức độ rủi ro và tổn thương của ta sẽ càng lớn (XK sang ASEAN + 6 trong năm 2009 là một minh chứng). Một số ngành hàng nông thuỷ sản và công nghiệp chế biến tuy đã có sự tham gia và các mạng sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng mô hình tổng quát vẫn là: qui mô lớn, mức độ thấp và hiệu quả thấp. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tuy đang có lợi thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ, phát triển theo định hướng XK, chiếm tới 43% - 45% giá trị tổng sản lượng công nghiệp nhưng chỉ chiếm dưới 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp và đang có xu hướng giảm xuống (năm 2000 là 30%, năm 2007 chỉ còn chiếm 23%, năm 2009 còn khoảng 21%), hoạt động gia công lắp ráp là chủ yếu, phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu nước ngoài và chậm thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. 8. Năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu thời kỳ tới năm 2020 đang có những trở ngại lớn từ nội bộ nền kinh tế hiện nay, tiềm ẩn những thách thức đối với sự phát triển dài hạn xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trước hết, đó là tình trạng, trình độ công nghệ thấp, lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài, mất cân đối cung – cầu và cơ cấu công nghệ ngày càng tăng. Máy móc thiết bị và công nghệ là yếu tố chính tạo ra năng suất lao động và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm, nhưng đang trong điều kiện 90% công nghệ đáp ứng nhu cầu trong nước phải nhập khẩu thì tỉ trọng của nhóm hàng này trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa là đang có xu hướng giảm mạnh (từ 31,4% năm 2000 xuống 14,7% năm 2006, 17% năm 2008 và 2009). Tốc độ đổi mới máy móc thiết bị chưa đạt yêu cầu phát triển (ước đạt dưới 10%), tỉ lệ đầu tư cho R&D trong doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1% - 0,2%, các ngành công nghệ cao và công nghệ mũi nhọn tỉ lệ này cũng chỉ đạt 0,2 – 0,25% (tỉ lệ này của Ấn Độ năm 2002 đã đạt5%, của Hàn Quốc năm 2000 là 10%). Trong cấu trúc nhập khẩu, tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm 15,0 16,0% (chỉ số tương ứng của Trung Quốc là 37 – 39%), công nghệ trung-cao 16 chiếm 21%, còn lại là công nghệ thấp và trung-thấp chiếm 63%. Trong cấu trúc XK, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8% (chỉ số tương ứng của Trung Quốc là 42 – 43%), công nghệ trung-cao chiếm khoảng 4%, công nghệ trung-thấp chiếm 30% và công nghệ thấp 57%9. Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (vốn bình quân của các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế chỉ khoảng 6 tỉ đồng/DN), hiện đang thiếu những doanh nghiệp có thương hiệu mạnh, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hiện đã có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp với trên 44 nghìn doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế, nhưng chỉ có trên 70 tập đoàn kinh tế và tổng công ty, công ty Nhà nước (100% vốn Nhà nước hoặc vốn Nhà nước chiếm cổ phẩn trên 50%) cùng khoảng 200 doanh nghiệp FDI có qui mô lớn, có phạm vi hoạt động rộng ở trong và ngoài nước, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Còn lại, tuyệt đại đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, khả năng cạnh tranh quốc tế còn rất yếu. Phần lớn là các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham gia được vào phân khúc sản xuất, gia công lắp ráp – tức là các khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được vào khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển, tiêu thụ… là những khâu mang lại giá trị gia tăng cao. Tham gia vào các mạng sản xuất , các chuỗi giá trị toàn cầu chưa phải là phương thức chủ yếu để tìm kiếm giá trị gia tăng cao của các doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam để phát triển kinh doanh ngoài biên giới quốc gia mới ở giai đoạn khởi đầu, khả năng tận dụng những cơ hội phát triển mới do toàn cầu hóa, hội nhập mở ra của doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. 9. Lợi thế cạnh tranh “động” của nền kinh tế trong cạnh tranh xuất khẩu toàn cầu thời kỳ tới tiếp tục phải vượt qua những trở ngại về chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ, về môi trường cạnh tranh quốc gia và một số vấn đề an sinh xã hội v.v… 9 Trong giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có bước thụt lùi về công nghệ: giảm nhập khẩu công nghệ trung – cao (6,5% để tăng nhập khẩu công nghệ trung – thấp (+7,4%). Từ năm 1997 đến năm 2003, tỉ lệ XK hàng côn nghệ cao của Việt Nam chỉ nâng được từ 3% lên 6%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực (các chỉ số tương ứng của Indonexia là 10,5% và 14%, của Trung Quốc là 12,8% và 27,6%, của Thái Lan là 31% và 30%, của Hàn Quốc là 27% và 32%, của Singapore là 58% và 57%, của Maylayxia là 49% và 59%. 17 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là một phương hướng cơ bản đã được xác định trong các văn kiện Đại hội IX, X và dự thảo văn kiện Đại hội XI của Đảng. Thế nhưng, đến nay, chất lượng đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực rất thấp, chậm được cải thiện; mất cân đối cung – cầu lao động, cơ cấu lao động theo trình độ kỹ thuật và theo vùng; thiếu lao động có tay nghề, có tính chuyên nghiệp cao. Đến nay, lao động có tay nghề chỉ chiếm khoảng gần 30% tổng số lao động làm việc, trong đó, lực lượng lao động được đào tạo từ trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm gần 6%. Chất lượng đào tạo ở các trường Đại học chưa đạt chuẩn quốc tế, giảng viên các trường Đại học của Việt Nam có rất ít bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế10. Gần 50% sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo. Trong khi đó, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam tăng liên tục và cao hơn hầu hết các nước trong khu vực. Đến giữa năm 2009, của nước có 2,6 triệu người có trình độ đại học (chiếm 4,5% lao động cả nước), trong đó có 18 nghìn tiến sĩ, hơn 6 nghìn phó giáo sư và giáo sư nhưng số bản quyền sáng chế và số chuyên gia kỹ thuật của Việt Nam tăng rất chậm11. Tình trạng kém ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) của số đông người lao động, kể cả giảng viên các trường đại học, các Viện nghiên cứu , các cơ quan hành chính sự nghiệp… chậm được nâng lên, tiếp tục là trở lực lớn đối với phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới. Về mặt thể chế, hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên, nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý, điều tiết nền kinh tế - xã hội trong bối cảnh có nhiều biến động của tình hình trong nước và quốc tế khi nước ta hội nhập quốc tế và tự do hoá ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ nhìn chung còn thấp hơn so với các nước trong khu vực12. 10 Trong năm 2006, với 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkom của Thái Lan đăng được 744 công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế. Trong khi đó, với 3,360 giảng viên của hai trường Đại học Quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình – Nguồn: Chỉ số trích dẫn khoa học mở rộng – Web of Scienoe, Thompson Corp. 11 - Năm 2002, Việt Nam chỉ đăng ký được 2 bản quyền với tổ chức WIPO - Trong thời kỳ 1987 – 1997, tỉ lệ số chuyên gia kỹ thuật/100.000 dân của Việt Nam là 61 người so với 2.318 người của Singapore, 454 người của Trung Quốc; năm 1988 số bằng sáng chế/1triệu dân của Việt Nam 0,1 so với 8,0 của Singapore, 1,0 của Trung Quốc. 12 Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (năm 2007) đã đánh giá chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ 212 nước và vùng lãnh thổ, trên 6 tiêu chí: Hiệu năng của Chính phủ, chất lượng chính sách và hoạt động điều tiết, thượng tôn pháp luật, tham nhũng, tiếng nói và trách nhiệm giải trình, ổn định chính trị. Ngoại trừ tiêu chí về ổn định chính trị, điểm của Việt Nam về 5 tiêu chí còn lại đều thấp hơn so với các nước Đông Á và ASEAN 6, trừ 18 Trong hai năm vừa qua, Chính phủ đã có sự nỗ lực vượt bậc trong nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, chống đỡ có hiệu quả những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta (đảm bảo tốc độ tăng trưởng 5,1%, là mức tăng trưởng cao so với nhiều nước trong khu vực và thế giới). Tuy thế, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ còn tác động bất lợi đến sự phát triển của đất nước trong ngắn và trung hạn,tiếp tục là thách thức lớn đối với khả năng quản trị quốc gia của Chính phủ, nhất là trong điều kiện nước ta tiếp tục tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA. Một trong những khó khăn, thách thức lớn đối với năng lực quản trị quốc gia của Chính phủ trong điều kiện có sự mở rộng tham gia các FTA và thực hiện tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA đã ký kết thời kỳ tới là việc xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng các hàng rào trong thương mại. Trong đó, cấp bách nhất là xây dựng và sử dụng các hàng rào kỹ thuật (TBT), và các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS), các biện pháp tự vệ trong thương mại, biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào thị trường nước ta… nhằm nâng cao hiệu năng của Chính phủ trong quản lý nhập khẩu khi tự do hoá ngày càng sâu hơn thao các điều kiện WTO và các FTA13 đã và sẽ tham gia. Môi trường cạnh tranh quốc gia tuy đã được từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn còn những yếu tố bất cập, chậm được khắc phục14. Các yếu tố nền tảng của tăng trưởng kinh tế dựa vào hiệu quả và sáng tạo của năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được tạo lập, ảnh hưởng đến tiến tính dài hạn của sự phát triển. Cùng với chất lượng giáo dục đào tạo chậm được nâng lên, thị trường khoa học công nghệ chậm hình thành và phát triển, hiệu quả thị trường lao động và thị trường hàng hóa chưa cao, độ sâu của thị trường tiền tệ và trình độ phát triển của thị trường tài chính chậm được nâng lên. Mặt khác, mức độ sẵn sàng về mặt công nghệ chưa Indonexia – Nguồn: Tầm quan trọng của quản trị quốc gia 1996 – 2006” tư liệu nghiên cứu số 4280 của WB, tháng 7/2007. 13 Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết Chính phủ các nước khi đẩy mạnh sự tham gia các FTA đều đã cơ bản xây dựng được các hàng rào kỹ thuật trong thương mại và các rào cản thương mại khác một cách khá đòng bộ, có chiều sâu. Trong khi,đối với nước ta, mặc dù đã gia nhập WTO và tham gia 6 FTA khu vực, nhưng cho đến nay, mới bước đầu xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại, kết quả còn rất khiêm tốn, hiệu năng sử dụng chưa cao. 14 Sau khi gia nhập WTO, chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam theo đánh giá của WEF trong: “Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2009” chưa có sự cải thiện trong Bảng xếp hạng: năm 2007 xếp hạng 68/131 nền kinh tế, năm 2008 xếp hạng 70/134, và năm 2009 xếp hạng 75/133 nền kinh tế. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng