Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NG...

Tài liệu MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ

.PDF
10
133
88

Mô tả:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ
Xã hội học, số 1 - 2009 26 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ BÙI QUANG DŨNG Sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hơn hai thập kỷ qua gắn liền với sự nghiệp Đổi mới, trong đó nội dung căn bản là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nông thôn là khu vực yếu nhất của nền kinh tế khi đất nước Đổi Mới, nhưng là điểm khởi động quá trình này. Đổi Mới đã thực sự tạo ra tăng trưởng và phát triển xã hội nông thôn thông qua việc cải cách hợp tác xã nông nghiệp, tự do hoá giá cả, giảm dần vai trò của khu vực Nhà nước. Sự phát triển theo hướng thị trường đã tạo ra những đột phá quan trọng: thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 3 lần (từ năm 1996 tới 2007), mức tích luỹ của hộ gia đình nông dân tăng gấp 2,1 lần (Trần Đình Thiên, 2008); nền kinh tế nông thôn vượt bỏ cái ngưỡng “mưu sinh”, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Giao đất cho nông dân làm chủ, công nhận kinh tế hộ gia đình đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho hàng triệu hộ nông dân tăng đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất nông nghiệp. Về mặt xã hội, mô hình sản xuất gia đình “là một động lực làm phục hồi hệ thống tôn ty trật tự vốn là chỗ dựa cho các gia đình Việt Nam” (Kerkvliet, 2000). Quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn có những tiến triển đáng kể v.v... Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế đã tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế cùng với phát triển các chỉ số xã hội, và hiện nay đang xuất hiện các vấn đề mới. Bài viết này góp phần thảo luận về một vài vấn đề phát sinh từ quá trình thay đổi kinh tế xã hội đang diễn ra hiện nay tại nông thôn. Tài liệu tham khảo là những cuộc điều tra nông thôn, các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức Việt nam và quốc tế. Trong một chừng mực nhất định, người viết cũng đặt cho mình nhiệm vụ tóm lược quan điểm của một số học giả hữu quan về chủ đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở Việt Nam hiện nay. Di dân nông nghiệp Năm 2006 cả nước có 24,37 triệu lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, nhưng riêng khu vực nông thôn đã có 23,17 triệu người, chiếm 95,1%. Nếu so với tổng lao động có việc làm của cả nước thì lao động nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 52%. Về mặt cơ cấu lao động, giai đoạn 1996 - 2006 tỷ lệ lao động nông nghiệp nông thôn đã có chuyển biến, giảm từ 82,3% trong tổng lao động nông thôn năm 1996 xuống còn 69% năm 2006, bình quân mỗi năm giảm được trên 1%, mức giảm còn nhỏ so với một số nước trong khu vực. Lao động nông thôn chiếm tới 3/4 lao động cả nước nhưng lại tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp, nơi năng suất lao động thấp và cũng là nơi Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 27 quỹ đất canh tác ngày càng giảm. Tình trạng mất đất hoặc thiếu đất dẫn đến dư thừa lao động và thiếu việc làm. Thu nhập của lao động nông nghiệp do đó trở nên thấp và thất thường bởi tính thời vụ và rủi ro cao. Đây chính là lí do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Trọng tâm của câu chuyện giảm nghèo là tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp, hấp thụ số nhân lực mới tham gia lực lượng lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Nhiều hộ gia đình nông thôn đã di cư đến các khu vực thành thị để kiếm việc làm. Trước Đổi Mới, việc di cư đến các thành phố bị kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống hộ khẩu. Hiện nay, những hạn chế về đi lại đã được dỡ bỏ, mặc dù những người di cư vẫn cần phải có được giấy phép tạm trú. Giống như ở các nước đang phát triển, di dân ở Việt Nam là một hiện tượng có tính quy luật, thể hiện rõ nét tính chất của một nền kinh tế và xã hội quá độ. Di chuyển lao động là một đòi hỏi tất yếu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất sự phát triển không đều giữa các vùng lãnh thổ. Những khác biệt về mức sống, thu nhập, sức ép sinh kế, tiếp cận dịch vụ xã hội theo vùng là nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư hiện nay. Di dân có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng đối với một xã hội đang hiện đại hoá và một nền nông nghiệp đang chuyển đổi, di cư chủ yếu là câu chuyện tìm kiếm công ăn việc làm. Tình trạng đất chật, người đông và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (ở một số vùng miền Trung), lượng thời gian nông nhàn và tình trạng thiếu việc làm tại chỗ đã đẩy một bộ phận dân cư di chuyển sang các vùng khác để tìm kiếm thu nhập. Luồng di cư có thể là từ nông thôn đến nông thôn hoặc từ nông thôn ra thành thị. Sự phân bố không đồng đều của các luồng vốn đầu tư nước ngoài với sự tập trung cao ở khu vực miền Nam đã tạo nên một luồng di cư rất mạnh mẽ từ các vùng khác nhau vào khu vực Đông Nam Bộ - nơi các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều lao động nhập cư. Di dân cũng đáp ứng nhu cầu lao động ở thành thị, giúp điều chỉnh sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn bằng số tiền và hàng chuyển về nơi xuất cư. Theo kết quả của một số nghiên cứu, tiền của người lao động nhập cư chiếm tới 60% thu nhập chuyển về khu vực nông thôn. Có thể nói đó như một nguồn an sinh xã hội của người dân nông thôn. Hà Nội là nơi mang lại thu nhập cao nhất cho người di cư Thu nhập bình quân tháng của người di cư là 957.000 đồng/tháng thấp hơn so với người không di cư (1.212.000 đồng/tháng). Các báo cáo chỉ ra rằng không có sự khác biệt rõ ràng về thu nhập theo tuổi: trừ độ tuổi trẻ nhất (15 - 16) và già nhất (55 - 59) kiếm được 714.000 - 762.000 đồng/tháng, các nhóm còn lại kiếm được nhiều hơn từ 872.000 đồng/tháng - 1,3 triệu đồng/tháng. Cũng theo báo cáo này thì việc tăng thu nhập do di cư có ở tất cả các nơi thu hút dân đến nhưng Hà Nội là nơi mang lại thu nhập cao nhất, khoảng 21% người di cư được hỏi cho biết họ có thu nhập cao hơn rất nhiều và 61% cho biết họ có thu Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 28 Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam... nhập cao hơn. TP. Hồ Chí Minh và Hải Phòng là nơi tiếp theo có khoảng 80% người di cư cho biết họ có thu nhập cao hơn nhưng chỉ có 8% người được hỏi cho biết họ có thu nhập cao hơn rất nhiều. Gần 45% người di cư được hỏi nói rằng họ gặp phải nhiều khó khăn như thiếu nước, điện, việc làm và không có nơi ở thích hợp được coi là vấn đề chính. Phần lớn những người di cư gần đây không đăng ký hộ khẩu. Chỉ có 12% người di cư đăng ký KT1 (thường trú), chủ yếu là người lớn tuổi và người đã lập gia đình - nhỏ hơn nhiều so với toàn bộ người di cư không đăng ký hoặc tạm trú ngắn hạn. Nhóm nghiên cứu kết luận "sự phổ biến của đăng ký tạm trú có nghĩa là di dân tạm thời và di cư rồi lại quay trở lại nơi ở cũ". Nhưng có một lưu ý khác là có đến 46% những người di cư cho rằng họ không đăng ký thường trú là vì bị từ chối (không phải họ không mong muốn). Văn Cương (Theo Thanh Niên) Số liệu điều tra năm 2006 cho thấy trong tống số 486.500 người di cư giai đoạn 5 năm trước cuộc điều tra, số người đến khu vực thành thị chiếm 57%, tiếp đến là luồng di cư nông thôn - nông thôn (30%), sau cùng là di cư thành thị - nông thôn (13%). Ở khu vực nông thôn, nữ giới chiếm tỷ trong cao hơn nam giới ở cả hai luồng di cư nông thôn - thành thị (21% so với 18%) và nông thôn-nông thôn (16% so với 14%). Điều này chủ yếu do sự phát triển của thị trường lao động tại các đô thị đã thu hút một lực lượng lớn dân nhập cư từ nông thôn. So với di cư nông thôn, di cư thành thị đa dạng hơn về thể loại (Đặng Nguyên Anh, 2007). Xã hội nông thôn vẫn chưa tạo ra được một khả năng tự vệ, một sức bật và tiềm năng lâu dài cho một bộ phận nông dân. Trong bối cảnh đó, người nông dân ra các thành thị, tham gia vào các hoạt động thương mại, hoặc làm công nhân cho các doanh nghiệp nhỏ, thực hiện một số dịch vụ (giúp việc gia đình, trông trẻ v.v...) cho các gia đình thành thị. Họ gia nhập vào đời sống đô thị một vài ngày, một vài tuần, hoặc vài tháng, rồi lại trở về quê. Hoạt động này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào việc gia tăng thu nhập của các hộ gia đình trong nông thôn. Lao động nhập cư trở thành nguồn nhân lực bổ sung đáng kể cho thị trường lao động của các khu công nghiệp và đô thị. Các khu công nghiệp lớn lân cận Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là những minh hoạ về vai trò này của lao động nhập cư. Sự chuyển dịch lao động thông qua di cư là một tiềm năng quan trọng góp phần làm giảm sức ép lao động - việc làm ở nông thôn. Giảm nghèo Nhiều nghiên cứu cho thấy sự phát triển mạnh của nông nghiệp trong suốt thập niên 90 là nguyên nhân quan trọng lý giải cho sự tăng trưởng ở Việt Nam. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến việc giảm nhanh mức “nghèo cơ bản” trong giai đoạn này. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển lên, nông nghiệp sẽ không còn giữ vai trò quan Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 29 trọng trong giảm nghèo, vì tăng trưởng nông nghiệp sẽ đi kèm với tăng năng suất lao động, do đó dẫn đến giảm nhu cầu đối với lao động nông nghiệp. Khu vực phi nông nghiệp mới phát triển cũng góp phần giảm nghèo. Các hộ gia đình ở nông thôn (nhóm dân cư nghèo nhất và đông nhất của nền kinh tế) cải thiện được thu nhập của mình nhờ có nhiều việc làm hơn và sử dụng có hiệu quả hơn các yếu tố sản suất. Tác động liên kết của tăng trưởng nông nghiệp là tăng thêm nhiều việc làm phi nông nghiệp, nhất là ở khu vực nông thôn. Số liệu điều tra hộ gia đình năm 2006 khẳng định xu hướng giảm nghèo đang tiếp tục diễn ra ở Việt Nam, với tỷ lệ hộ gia đình sống dưới ngưỡng nghèo chỉ còn 16% so với 28,9% năm 2002, và 58,1% năm 1993. Hầu hết những người nghèo đều sống ở nông thôn. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn đang tiếp tục giảm xuống, tuy với mức giảm chậm hơn những năm trước đây. Từ năm 2004 đến năm 2006, tỷ lệ nghèo nông thôn đã giảm đi 2,3 điểm phần trăm mỗi năm, so với 3,5 điểm từ năm 1993 đến năm 2004 (UNDP, 2007). Trong khi đó, mức nghèo ở thành thị lại có vẻ như giữ nguyên. Sự kết hợp của những xu hướng giảm nghèo khác nhau này ở nông thôn và thành thị có lẽ là nguyên nhân dẫn đến việc tỷ lệ nghèo ở các vùng miền và các tỉnh đang xích lại gần với nhau hơn. Tuy nhiên, vùng núi phía Tây Bắc, vùng Tây Nguyên và vùng duyên hải Bắc Trung Bộ vẫn còn nghèo hơn nhiều so với các vùng khác trên cả nước, mặc dù ở những vùng này, một số tỉnh và nhóm người vẫn cho thấy tỷ lệ nghèo giảm rõ rệt. Theo một tính toán quốc tế, ngưỡng nghèo thông dụng ở Việt Nam là chi phí cho một rổ hàng hoá cung cấp 2.100 đơn vị calo cho một người trong một ngày. Dựa vào thước đo này, có vẻ như mức nghèo đã giảm đáng kể từ năm 1993 đến năm 2006, cả ở khu vực nông thôn và thành thị, đối với cả người Kinh lẫn các đồng bào dân tộc ít người. Theo những ước tính này, trong hơn 13 năm, Việt Nam đã giảm nghèo cho 42% dân số, tương đương với 35 triệu người (UNDP, 2006). Các vùng nông thôn vẫn là nơi có nhiều người nghèo sinh sống ở Việt Nam. Chính sự sụt giảm trong tỷ lệ nghèo nông thôn đã khiến cho tỷ lệ nghèo của cả nước giảm đi rõ rệt. Cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh có nhiều điều kiện thuận lợi ban đầu cho việc giảm nghèo, bao gồm việc phân phối tài sản và thu nhập tương đối đồng đều, sự hỗ trợ cao của Nhà nước đối với đầu tư xã hội. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Liên hợp quốc thể hiện nhất quán rằng Việt Nam đã đạt kết quả tốt hơn so với các nước có cùng mức thu nhập đầu người. Sự phân biệt giữa “nghèo cơ bản” và “nghèo do thị trường tạo ra”, do một số học giả và các tổ chức quốc tế tại Việt Nam sử dụng, phản ảnh sự khác biệt giữa hai giai đoạn phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Do đó nó một mặt có thể giúp hiểu được ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới xoá đói giảm nghèo; mặt khác lại cho thấy một phương diện khác của nghèo. Có thể nói khái niệm “nghèo” xuất hiện Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 30 Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam... trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam, chứ không phải của thời trước Đổi Mới, mặc dầu xét về mặt thu nhập đầu người hay về các chỉ số phát triển kinh tế thuần tuý, thì “năng lực” của nông thôn nói riêng và toàn bộ nền kinh tế đất nước hiện nay tăng lên nhiều lần so với trước Đổi Mới. Nhìn từ quan điểm phát triển thì “nghèo” hiện nay diễn đạt một tình trạng cấu trúc nhất định. Thật thế, một mặt, tăng trưởng kinh tế giúp giảm nghèo một cách cơ bản bằng cách tăng thu nhập và tạo ra được công ăn việc làm; mặt khác, cùng với việc tạo ra những hoạt động kinh tế mới là tình trạng thất nghiệp và không có đất, chưa kể vô số các hệ luỵ khác xuất hiện gắn liền với sự phát triển các quan hệ thị trường. Chính trong bối cảnh thay đổi thể chế này mà giảm nghèo, nhất là ở nông thôn, vẫn là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam (năm 2006, 16% dân số vẫn sống dưới ngưỡng nghèo). Công bằng xã hội Việc phân phối tài sản công bằng trong giai đoạn đầu của Đổi Mới giúp giảm nghèo nhanh ở Việt Nam trong 15 năm qua. Đầu tư xã hội phát triển nguồn nhân lực đồng đều diễn ra trước năm 1986, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục và y tế cơ sở đã giúp vào sự nghiệp phát triển con người và thiết lập cơ sở cho những thành công ban đầu của Đổi Mới. Sự tăng trưởng nhanh nhờ thay đổi cơ chế đã tạo ra các hoạt động tạo thu nhập mới và cũng phân bổ lại thu nhập từ khu vực nhà nước đến các hộ gia đình thông qua tổ chức lại sản xuất nông nghiệp. Phần lớn người dân Việt Nam có thu nhập tăng do các hoạt động kinh tế được tổ chức lại một cách căn bản. Tỷ lệ nghèo cả nước đã giảm đáng kể, chủ yếu nhờ tăng trưởng kinh tế nhanh. Những phân tích về chính sách và vấn đề công bằng xã hội của khu vực nông thôn Việt Nam phải đặt trong bối cảnh một nền kinh tế và xã hội đang chuyển đổi. Trước kia, trong nền kinh tế kế hoạch hoá, mức độ bất bình đẳng thấp do giá cả và thu nhập được quy định bằng các biện pháp hành chính. Các hộ gia đình được bao cấp về nhiều mặt, đặc biệt là nhà ở, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ. Hơn thế, việc làm được đảm bảo cho tất cả mọi người, dầu rằng chưa tính tới hiệu quả của các công việc đó. Xã hội theo cơ chế thị trường đặt ra môt logic ngược lại: đó là cơ chế phân phối dựa trên các quan hệ trao đổi. Do vậy, trong giai đoạn chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, tăng trưởng kinh tế đi kèm với bất bình đẳng trong thu nhập. Logic này giúp hiểu được sự khác biệt rõ nét giữa hai khu vực nông thôn và thành thị trong giai đoạn vừa qua. Một nghiên cứu về thu nhập cho thấy các gia đình đô thị có thu nhập trung bình gần gấp đôi thu nhập trung bình ở nông thôn: 9,6 triệu đồng so với 4,9 triệu đồng. Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò lớn trong cơ cấu thu nhập ở nông thôn, chiếm tới 42% tổng thu nhập, so với thành thị là 6,2%. Trong khi đó, tỉ lệ thu nhập từ buôn bán ở nông thôn thấp hơn so với Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 31 thành thị (17% so với 30%). Trong khi một số yếu tố như giáo dục, qui mô hộ gia đình, dân tộc và khu vực địa lý góp phần giải thích sự chênh lệch về tỉ lệ hộ nghèo, thì sự khác biệt lớn nhất xảy ra giữa khu vực thành thị và nông thôn. Theo báo cáo nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới, "với các điều kiện khác giống nhau, hộ gia đình ở thành thị chi tiêu cao hơn 78% so với hộ nông thôn. Tác động này làm lu mờ tất cả các yếu tố khác, kể cả về trình độ học vấn cao hơn" (Ngân hàng thế giới 2006). Theo một tính toán khác, hệ số bất bình đẳng Gini tính theo chi tiêu dùng ở Việt Nam tăng đến 0,37 trong 2002, trong khi đó năm 1998 là 0,35 và năm 1993 chỉ là 0,33(UNDP 2003). Chỉ số Gini tính theo thu nhập tăng đến 0,42, gần bằng chỉ số Gini của Trung Quốc, trong khi Việt Nam có mức thu nhập đầu người thấp hơn nhiều (thường thu nhập tăng thì bất bình đẳng cũng tăng lên). Xét về chi tiêu phi thực phẩm, hệ số Gini tăng đến 0,49 phản ánh mức độ bất bình đẳng cao hơn. Một điều khác cũng đáng lưu ý là có sự khác biệt lớn giữa các vùng đối với các chỉ tiêu phúc lợi khác nhau như dinh dưỡng trẻ em, sức khỏe bà mẹ và tiếp cận nguồn nước sạch. Rõ ràng là Việt Nam đã đạt được những thành tựu tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ. Tuy nhiên nếu xét về góc độ đạt đến các mục tiêu phát triển, trong đó bao gồm giảm nghèo, thì rõ ràng sự phát triển này còn có phần hạn chế. Những thành tựu giảm nghèo không được phân bổ một cách đồng đều. Thật vậy, thành tựu về tăng trưởng đầy ấn tượng, song Việt Nam mới chỉ đạt được 2/3 tiềm năng về giảm nghèo do bị ảnh hưởng tiêu cực của sự gia tăng bất bình đẳng. Tình trạng đói nghèo về thực phẩm trong nhóm những người nghèo nhất, chủ yếu là nông dân, dân tộc thiểu số, có vẻ trở nên trầm trọng hơn. Tình hình này đồng nghĩa với việc còn tồn tại một khoảng cách đáng kể trong việc tham gia của mọi tầng lớp nhân dân vào quá trình phát triển của đất nước. Xét vấn đề ở cấp độ địa phương, khu vực có tỷ lệ bất bình đẳng thấp gồm có đồng bằng sông Hồng, một số tỉnh thuộc đồng bằng phía Đông Bắc, một số huyện thuộc duyên hải Bắc Trung bộ, một số huyện ở đồng bằng sông Cửu long và một vài huyện duyên hải Nam Trung bộ. Mức độ bất bình đẳng về chi tiêu lớn nhất ở các khu vực đô thị lớn, đặc biệt ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và khu vực miền núi bao gồm cả Đông Bắc, Tây Bắc và Tây nguyên. Các khu vực đô thị lớn có tỷ lệ bất bình đẳng cao, vì ở đó thường có các hộ giàu nhất nước và cả những hộ mới nhập cư với thu nhập thấp, thậm chí thấp hơn thu nhập của hộ nông thôn. Tỷ lệ bất bình đẳng thấp ở khu vực đồng bằng sông Hồng và các vùng duyên hải là nhờ nền nông nghiệp thâm canh và tỷ lệ dân số lớn sống phụ thuộc vào nông nghiệp. Người dân làm nông nghiệp trên các mảnh ruộng có hệ thống thủy lợi tương đối đồng nhất. Đất đai canh tác hợp tác xã được phân bổ cho các gia đình. Đó là những yếu tố giúp duy trì sự bình đẳng giữa các hộ. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 32 Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam... An sinh xã hội An sinh xã hội cũng là một chủ đề quan trọng đối với việc phân tích sự phát triển xã hội nông thôn. Trước khi tiến hành cải cách kinh tế vào năm 1986, Nhà nước có trách nhiệm chính trong lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và các dạng an sinh xã hội khác. Tuy nhiên, sau Đổi Mới, vai trò của Nhà nước đã thay đổi một cách căn bản. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc người già và giáo dục, phần lớn gánh nặng tài chính đã chuyển từ khu vực công sang các hộ gia đình. Nhờ sự tăng trưởng thành công của nền kinh tế Việt Nam, khu vực tư nhân đã có thể chịu được gánh nặng tài chính này, và nhiều chỉ số cho thấy Việt Nam rất thành công trong các lĩnh vực xã hội. Các chỉ số phúc lợi phi thu nhập của các hộ gia đình cũng đã được cải thiện một cách đáng kể. Mặc dù hộ gia đình còn gặp khó khăn nhằm giải quyết các khoản chi tiêu về giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, nhiều nghiên cứu xác nhận rằng cải cách đã cải thiện nhiều tình hình trong lĩnh vực này. Mặt khác, các quan sát ngày càng xác nhận rằng tại nông thôn Việt Nam đang xuất hiện những khoảng cách đáng kể trong khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội. Đối với các nhóm dân cư kinh tế khá giả, cải cách đã mang lại cho họ nhiều cơ hội hưởng lợi; đối với các nhóm nông dân khác, đặc biệt là người nghèo, chi phí của các dịch vụ này thường cao và trong nhiều trường hợp đến mức người nông dân nghèo không thể thanh toán. Xu hướng chuyển sang lao động được trả lương và tình trạng mất đất canh tác tăng lên khiến nhóm các hộ gia đình dựa vào lao động nông nghiệp truyền thống đang gặp khó khăn, trong khi bảo trợ xã hội từ cộng đồng còn thiếu thốn. Tình hình này phản ảnh một quá trình xã hội đang diễn ra hiện nay tại nông thôn nói riêng và ở Việt Nam nói chung: hộ gia đình và các cộng đồng địa phương đang phải đảm nhiệm phần lớn kinh phí cho các dịch vụ xã hội. Trong khi người lao động trong các lĩnh vực chính thức có thể sử dụng hệ thống bảo hiểm xã hội thì nông dân lại không được bảo hiểm đầy đủ. Một phân tích gần đây về hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam cho thấy rằng vị trí địa lý và hành chính là một nhân tố quan trọng quyết định xác xuất nhận trợ cấp: các hộ ở thành thị nhận trợ cấp cao hơn 6% so với hộ gia đình nông thôn; các gia đình thành thị giàu có hơn, hưởng lợi nhiều hơn từ lương hưu (73%), trong khi con số này tại các hộ gia đình nông thôn nghèo hơn là 57%. Phân tích so sánh vùng cũng xác nhận tình hình tương tự về an sinh xã hội. Những người sống ở phía Nam có xác suất nhận trợ cấp thấp, đặc biệt vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long trong khi miền núi Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nguyên và Đồng bằng sông Hồng có xác xuất nhận trợ cấp cao hơn (Martin Evans: 2007). Chi tiêu công được đánh giá là có lợi cho người nghèo, đặc biệt là nông dân. Nhà nước phân bổ một phần ngân sách đáng kể cho các ngành kinh tế và giáo dục. Với phần lớn người nghèo sống nhờ thu nhập trong nông nghiệp, cũng Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 33 như tầm quan trọng của y tế và giáo dục, cơ cấu phân bổ như vậy dường như lũy tiến. Tuy nhiên, hiệu lực của chi tiêu công cũng như khả năng duy trì đang là vấn đề chưa chắc chắn, trừ khi chi phí duy tu bảo dưỡng hiện nay còn quá thấp được tăng lên tới mức phù hợp. Chi phí trợ cấp xã hội hiện nay đang có lợi cho người nghèo ở mức các tỉnh nghèo hơn được nhận trợ cấp dưới dạng chuyển nhượng ròng về cho tỉnh (UNDP 2003). Chính là trong bối cảnh này mà xuất hiện ngay từ đầu thập kỷ 90, nhu cầu bổ khuyết cho các giải pháp định hướng thị trường (trong lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khoẻ) bằng những chương trình tập trung vào các nhóm yếu thế. Một số chương trình mục tiêu quốc gia được thiết lập nhằm cải thiện khả năng tiếp cận với giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho những hộ gia đình nghèo nhất, và các chương trình đặc biệt cũng được áp dụng để hỗ trợ sự phát triển của những làng nghèo. Phần lớn các chương trình này được lồng ghép vào “Chương trình xoá đói giảm nghèo” phát triển từ giữa những năm 1990 (Ari Kokko: 2008). Phát triển xã hội nông thôn Hiện nay 60% dân số Việt Nam (khoảng 50 triệu) sống ở nông thôn. Trong tương lai tỉ lệ cư dân nông thôn sẽ giảm xuống còn khoảng 30% - 40%. Nhưng nếu căn cứ trên tỷ lệ tăng trưởng dân số hiện nay, thì tương lai sẽ vẫn còn 50 - 60 triệu người Việt Nam sống ở nông thôn. Việt Nam trong một thời gian dài nữa sẽ vẫn là một nước nông nghiệp, và nông dân vẫn là tầng lớp đứng trước khả năng gánh chịu những “rủi ro phát triển” cao hơn cả. Trong tình hình còn thiếu các cơ chế bảo vệ và giảm thiểu những rủi ro thị trường và thiên tai, một bộ phận nông dân có khả năng rơi trở lại cảnh nghèo. Mặc dù các quyền của nông dân đối với ruộng đất đã được luật pháp quy định, nhưng sự bảo vệ về mặt pháp lý này triển khai trên thực tế rất chậm và gặp không ít khó khăn. Quyền sở hữu kinh tế thực tế của nông dân đối với ruộng đất chưa được thực hiện một cách triệt để và chính điều đó tạo nên khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Trong bối cảnh đó, có thể nói rằng Việt Nam đang đứng trước một thách thức lớn đối với sự phát triển xã hội nông thôn thập niên tới. Vấn đề là phải tìm ra cho được một cơ chế phát triển thích hợp để không những tiếp tục đạt được những mục tiêu kinh tế mà còn phải đạt tới những chỉ số phát triển xã hội cao và bền vững. Nhận thức tầm quan trọng sống còn của vấn đề, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 7 khoá X (tháng 8/2008) đã thông qua Nghị quyết về “Nông nghiệp, nông thôn và nông dân”, trong đó đặc biệt làm rõ rằng “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển...” Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 34 Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam... Bằng chứng tại các nước đang phát triển cho thấy cải cách tài chính công là điểm then chốt trong chiến lược phát triển xã hội và nền kinh tế nông thôn. Một chiến lược phát triển nông thôn dài hạn ở Việt Nam cần tăng cường phân bổ kinh phí cho khu vực này. Các loại đầu tư có tác động lớn nhất đối với năng suất trong nông nghiệp và giảm nghèo là đầu tư vào xây dựng đường xá, công trình thủy lợi, điện nông thôn và cho nghiên cứu triển khai trong nông nghiệp cũng như các hoạt động khuyến nông. Nhà nước đang dành một nguồn lực đáng kể cho phát triển thông qua một loạt các chương trình có mục tiêu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ ngân sách dành cho mục đích này, vẫn cần tìm kiếm cách thức để có thể tạo ra những tác động tốt nhất. Mục tiêu cần hướng tới là đảm bảo sự tham gia tích cực hơn của những người được hưởng lợi trong toàn bộ chu trình thực hiện các dự án phát triển, đào tạo và nâng cao năng lực cho nông dân, đảm bảo dân chủ trong việc ra quyết định. Cần đầu tư mạnh mẽ vào các nguồn lực phát triển con người và phải đặc biệt chú ý đến các dịch vụ xã hội căn bản. Di dân là một cơ chế quan trọng cho phép người dân ở các tỉnh nghèo di chuyển đến vùng phù hợp hơn để tham gia vào quá trình tăng trưởng và xu hướng đó cần phải được tính tới trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Những tỉnh có nguồn nhập cư đến nhiều cần phải được giữ lại một phần thuế lớn hơn nhằm đảm bảo cung cấp các dịch vụ nhà cửa và xã hội căn bản. Các thủ tục hộ khẩu cần cải thiện hơn nữa theo hướng tạo điều kiện tốt hơn cho việc đăng ký hộ khẩu của người nhập cư cũng như các nhu cầu xã hội khác của gia đình họ (giáo dục và chăm sóc sức khoẻ). Để giảm bớt xu hướng bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, cần đẩy mạnh cải cách thể chế khu vực nông thôn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tiếp cận dịch vụ sản xuất. Tăng cường đầu tư phát triển nông thôn, tạo cơ hội việc làm có thu nhập cho người nông dân nhằm thu hẹp sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị là một giải pháp lâu dài điều chỉnh các dòng di cư ra thành phố. Phương thức cải thiện hệ thống an sinh xã hội nên được xem xét ở một số khía cạnh sau: phát triển và đầu tư vào hệ thống bảo hiểm xã hội quốc gia thống nhất (xác định một cách có hệ thống những nhóm dân số dễ bị tổn thương và xây dựng năng lực hoạt động để phối hợp thực hiện chính sách); mở rộng các chương trình bảo hiểm xã hội trong những năm tới. Đây là một nhiệm vụ nặng nề đối với phát triển nông thôn Việt Nam, là nơi cho tới nay bảo hiểm xã hội thường chỉ dành cho những người làm trong khu vực nhà nước. Phải làm nhiều hơn nữa trong lĩnh vực an sinh xã hội để cho sự phân cực đang xuất hiện trong xã hội nông thôn (và xã hội Việt Nam nói chung) không đe dọa sự ổn định xã hội. Trong quá trình hình thành hệ thống y tế và hưu trí cần tính tới xu hướng già hóa dân số đang ngày càng trở thành rõ nét ở Việt Nam./. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 35 Tài liệu trích dẫn 1. Ari Kokko (chủ biên). Việt Nam 20 năm Đổi Mới, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội 2008. 2. Bùi Quang Dũng và đồng sự. Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam năm 2007, (Báo cáo nghiên cứu, viện Xã hội học). 3. Đặng Nguyên Anh. Xã hội học dân số, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội 2007 4. Đỗ Tiến Sâm, 2008. Vấn đề tam nông ở Trung Quốc, thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội 2008. 5. F. Houtart và đồng nghiệp . Hải Vân - một xã ở Việt Nam: nghiên cứu xã hội học về sự quá độ. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội 1984. 6. Lê Bạch Dương và đồng nghiệp. Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thế Giới. Hà Nội 2005. 7. Martin Evans và đồng nghiệp. An sinh xã hội ở Việt Nam lũy tiến đến mức nào. UNDP 2007. 8. Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở các nước và Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới. Hà Nội, 2000. 9. Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Một số vấn đề kinh tế xã hội sau 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội 2007. 10. Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2007. Để chuỗi giá trị hiệu quả hơn cho người nghèo. 11. Ngân hàng thế giới. Đa dạng hoá nông nghiệp ở Việt Nam. 2006 12. Trần Đình Thiên, 2008. Đổi mới và phát triển nông nghiệp ở Việt Nam: thành tựu, vấn đề và triển vọng (Tham luận Hội thảo Việt Nam - Cuba lần thứ ba, 12/2008). 13. Trịnh Duy Luân, Xã hội học đô thị. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội 2004. 14. UNDP. Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cướng sự tham gia của người dân ở Việt Nam, (Văn kiện đối thoại chính sách, 12/2006). 15. UNDP, 2005. Phát triển khu vực dịch vụ ở Việt Nam: chìa khoá cho sự phát triển bển vững. 11/2005. 16. UNDP, 2003. Tổng quan và tóm lược viện trợ phát triển chính thức tại Việt Nam. 12/2003. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan