Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Một số vấn đề phát triển và phân bố ngành dịch vụ ôn thi học sinh giỏi địa lý...

Tài liệu Một số vấn đề phát triển và phân bố ngành dịch vụ ôn thi học sinh giỏi địa lý

.PDF
25
1690
126

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ NGÀNH DỊCH VỤ TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ QUÝ ĐÔN, QUẢNG TRỊ MÔN: ĐỊA LÝ A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Dịch vụ là ngành kinh tế đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong Địa lí đại cương nói chung và Địa lí kinh tế-xã hội đại cương nói riêng, nội dung kiến thức về ngành dịch vụ chiếm một khối lượng kiến thức khá lớn và quan trọng trong hệ thống kiến thức địa lí. Đặc biệt, trong các chương trình thi học sinh giỏi, nội dung này được đánh giá là phần kiến thức hay. Vì vậy, nội dung về dịch vụ chiếm một vị trí quan trọng không chỉ trong chương trình học cơ bản mà còn ở cả phần thi học sinh giỏi. Đối với giáo viên và học sinh trường chuyên, bên cạnh việc trang bị những kiến thức cơ bản về phần học này, còn yêu cầu tìm phải hiểu chuyên sâu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, tài liệu về dịch vụ được đề cập còn rất ít trong sách giáo khoa, gây ra không ít khó khăn trong quá trình tìm hiểu của giáo viên và học sinh. Thấy được vai trò và thực trạng về dạy và học phần dịch vụ, chúng tôi xin được xây dựng chuyên đề “ Một số vấn đề về phát triển và phân bố ngành dịch vụ” nhằm phục vụ có hiệu quả hơ cho dạy và học phần này. II. MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI Đề tài này xây dựng nhằm mục đích: - Cung cấp hệ thống kiến thức chuyên sâu về vấn đề phát triển và phân bố ngành dịch vụ phục vụ cho các kì thi học sinh giỏi một cách chính xác, khoa học, logic. - Liên hệ vấn đề phát triển và phân bố ngành dịch vụ ở Việt Nam - Xây dựng phương pháp và phương tiện dạy học mới phù hợp với nội dung phát triển và phân bố ngành dịch vụ. - Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập về phát triển và phần bố các ngành dịch vụ B. PHẦN NỘI DUNG I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI DỊCH VỤ 1. KHÁI NIỆM Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. * Phân biệt hoạt động dịch vụ với các hoạt động của các ngành sản xuất vật chất Có thể phân biệt theo 3 tiêu chí sau: -Thứ nhất: hoạt động của các ngành sản xuất vật chất chế tạo ra các sản phẩm vật chất. Các sản phẩm này có các tiêu chuẩn kĩ thuật có thể xác định được. Hoạt động dịch vụ thì không thể xác định cụ thể bằng các tiêu chuẩn kĩ thuật, bằng các chỉ tiêu chất lượng hay lượng hàng hóa một cách rõ ràng. Sản phẩm dịch vụ là sản sản phẩm khó đánh giá chất lượng. Chất lượng của dịch vụ phụ thuộc vào người bán, người mua và thời điểm bán mua dịch vụ. Người được phục vụ chỉ có thể đánh giá các sản phẩm dịch vụ bằng cảm giác, quan niệm tốt hay xấu trên cơ sở cảm nhận của họ thông qua thực tế phục vụ. - Thứ hai: hoạt động sản xuất vật chất chế tạo ra các sản phẩm vật chất. Các sản phẩm này có thể cất giữ được trong kho hoặc có thể đem bán bằng cách vận chuyển đi nơi khác để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng thông qua điều tiết của quy luật cung cầu. Trong khi đó, sản phẩm của dịch vụ không thể cất giữ trong kho để chờ nhu cầu tiêu dùng như các sản phẩm vật chất. Hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở các địa điểm và thời gian có nhu cầu cần đáp ứng kịp thời. - Thứ ba: hoạt động của sản xuất vật chất tạo ra vật chất có chất lượng cao, tạo ra uy tín cho hãng sản xuất và kinh doanh. Khách hàng có thể dựa vào mác, mã, kí hiệu sản phẩm của hãng để lựa chọn sản phẩm, không cần biết đến người sản xuất hay chủ hãng. Nhưng sản phẩm dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, vào sự tác động qua lại giữa người làm dịch vụ và người được phục vụ. Ấn tượng đọng lại đối với người được phục vụ là quan hệ giao tiếp, là sự đáp ứng kịp thời các nhu cầu về dịch vụ. Người làm dịch vụ là người trực tiếp phục vụ khách hàng. 2. PHÂN LOẠI DỊCH VỤ  Thông thường, ở nhiều nước, người ta chia dịch vụ ra thành 3 nhóm: - Dịch vụ kinh doanh: vận tải và thông tin liên lạc, tài chính, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, các dịch vụ nghề nghiệp… - Dịch vụ tiêu dùng: hoạt động bán buôn, bán lẻ, du kịch và các dịch vụ cá nhân (y tế, giáo dục, thể dục thể thao)… - Dịch vụ công: dịch vụ hành chính công, các hoạt động đoàn thể…  Ngoài ra, còn có nhiều cách phân loại dịch vụ theo các chỉ tiêu khác nhau - Phân loại theo chủ thể thực hiện, gồm: + Chủ thể là Nhà nước: Thực hiện các dich vụ như bệnh viện, trường học, toàn án, trung tâm giới thiệu việc làm, tín dụng, hậu cần quân đội, cảnh sát, cứu hỏa, bưu điện, hành chính pháp lý… + Chủ thể là các tổ chức xã hội: Thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nâng cao dân trí, khuyến nông, các tổ chức từ thiện… + Chủ thể là các đơn vị kinh doanh: Thực hiện các dịch vụ ngân hàng, hàng không, khách sạn, công ty bảo hiểm, buôn bán bất động sản, lắp đặt sửa chữa thiết bị nội thất, tư vấn tài chính, tư vấn pháp luật… Nội dung các dịch vụ có thể chuyển thể từ chủ thể nhà nước sang chủ thể khác. Có dịch vụ có thể do nhiều chủ thể cùng thực hiện. Tuy nhiên tất cả đều tuân theo nguyên tắc chung là các dịch vụ do đơn vị kinh doanh luôn hướng đến lợi ích kinh tế còn dịch vụ do nhà nước hoặc tổ chức xã hội luôn hướng tới lợi ích xã hội. - Phân loại theo quá trình mua bán hàng hóa: + Các hình thức dịch vụ trước khi bán hàng: Đây là loại dịch vụ đang phổ biến rộng rãi hiện nay. Các công ty cung cấp dịch vụ đều hiểu rằng các dịch vụ này có thể đem lại hiệu quả cao cho họ trong tiêu thụ hàng hóa. Bán hàng là việc rất quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy để đảm bảo cho khâu bán hàng được tốt thì yêu cầu phải có các hoạt động kèm theo như dịch vụ về thông tin,giới thiệu, quảng cáo, chào hàng,triển lãm, hội chợ,… + Các hình thức dịch vụ trong khi bán hàng: Loại hình này được thực hiện để giúp khách hàng sử dụng thuận tiện hơn hàng hóa mà họ mua và thực hiện các yêu cầu như vận chuyển. Đây là loại dịch vụ rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Ví dụ giới thiệu hàng hóa, tính năng tác dụng của sản phẩm, bốc xếp, giao hàng nhanh gọn, kịp thời, giảm thời gian chờ đợi của khách hàng và phương tiện vận chuyển,… + Các hình thức dịch vụ sau khi bán hàng: Đây là một công cụ quan trọng khi cạnh tranh. Sau khi khách hàng mua sản phẩm, doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ như lắp đặt dịch vụ tận nơi sử dụng, hướng dẫn sử dụng, đưa ra các ý kiến tư vẫn kĩ thuật, mua hàng cũ, gia công tái chế,hội nghị khách hàng để thu thập ý kiến về chất lượng hàng hóa, giúp rút kinh nghiệm trong quá trình mua bán và hình thức phục vụ,… - Phân loại theo các đặc điểm khác nhau: + Đặc điểm về nguồn gốc: * Dịch vụ có nguồn gốc con người như dịch vụ có nhân lực chuyên nghiệp ( kế toán, tư vấn quản lí), các chuyên gia lành nghề, nhân lực không có tay nghề,.. * Dịch vụ có nguồn gốc máy móc như dịch vụ cần máy tự động ( máy bán hàng, máy tự động rửa xe ô tô), các dịch vụ cần sư điều khiển ở trình độ cao ( máy bay, máy tính điện tử) + Đặc điểm về khách hàng: * Khách hàng phải có mặt khi cung ứng dịch vụ * Khách hàng không nhất thiết phải có mặt khi cung ứng dịch vụ + Đặc điểm về động cơ mua dịch vụ của khách hàng: * Dịch vụ có tác dụng thõa mãn nhu cầu cá nhân * Dịch vụ có tác dụng thõa mãn nhu cầu nghề nghiệp. Thông thường chi phí cho dịch vụ cá nhân và dịch vụ nghề nghiệp rất khác nhau. Tuy hoạt động dịch vụ rất đa dạng, ngày càng được mở rộng và có nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng nhìn chung có thể phân thành 6 nhóm ngành như sau: - Nhóm các dịch vụ có tính chát sản xuất hay liên quan với việc tổ chức quá trình sản xuất như dịch vụ vận tải hàng hóa, bưu điện, thông tin liên lạc, sửa chữa máy móc, thiết bị, nhà cửa, công trình kiến trúc và đồ dùng sinh hoạt, dịch vụ thủy lợi, dịch vụ kĩ thuật trong nông nghiệp,…. - Nhóm các dịch vụ có liên quan tới việc tổ chức quá trình lưu thông sản phẩm: có thể xem toàn bộ hoạt động thương mại hính là ngành trong kinh tế dịch vụ theo nghĩa rộng nhưng trên thực tế, người t thường chỉ coi các hoạt động thương nghiệp nhỏ có kết hợp việc gia công sửa chữa nhỏ, cùng với các hoạt động hỗ trợ thương nghiệp như đóng gói, triển lãm, quảng cáo, hội chợ, bảo hành hàng hóa sau khi bán là thuộc kinh tế dịch vụ. - Nhóm các dịch vụ có liên quan tới việc phục vụ đời sống con người là rất rộng như các dịch vụ giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, văn hóa và nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao, du lịch và giải trí, dịch vụ nhà ở và dịch vụ công cộng cho dân cư thành phố, dịch vụ may mặc, ăn uống, công việc nội trợ,…. - Nhóm các dịch vụ liên quan đến sử dụng chất xám gần đây được phát triển mạnh do việc nâng cao trình độ và sự gắn bó hữu cơ giữa khoa học kĩ thuật với sản xuất đời sống như dịch vụ tư vấn, pháp lí, xử lí thông tin, cung cấp phần mềm máy vi tính, dạy ngoại ngữ,.. tất nhiên những dịch vụ này lại liên quan tới một trong ba nhóm trên. - Nhóm các dịch vụ thu ngoại tệ. Do vai trò đặc biệt của nhóm dịch vụ này trong việc làm tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nên thường được quan tâm phát triển với tốc độ cao. Đó là dịch vụ du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, vận tải đường biển và cung ứng tàu biển quốc tế, xuất khẩu lao động, dịch vụ kiều hối, tín dụng thanh toán quốc tế và tài chính quốc tế - Các dịch vụ còn lại khác cũng có liên quan gián tiếp đến đời sống vật chất và văn hóa của con người như dịch vụ bảo hiểm Nhà nước, gửi tiền tiết kiệm, chuyển tiền, quà qua bưu điện, dịch vụ hành chính… II. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ 1. VỊ TRÍ Dịch vụ là một hợp phần của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc dân là một khối thống nhất với hai bộ phận hợp nhất chủ yếu là các ngành sản xuất vật chất và các ngành dịch vụ. Với tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân, dịch vụ đã, đang và ngày càng chiếm vị trí quan trọng ở 2 chỉ tiêu của nền kinh tế là số lượng lao động, tỷ trọng trong thu nhập quốc dân. 2. VAI TRÒ - Dịch vụ là các hoạt động kinh tế - xã hội hữu ích, nó ra đời không hoàn toàn bị thúc đẩy bởi kinh tế thị trường mà tùy thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất-xã hội. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của ngành dịch vụ thể hiện sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. - Dịch vụ phát triển làm biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu, đảm bảo sự tăng trưởng của GDP, GNP, góp phần làm nền kinh tế tăng nhanh nhưng bền vững. - Dịch vụ tạo nên guồng máy chu chuyển, tạo các mắc xích (ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng…) tạo chuỗi liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ, sản xuất với sản xuất, sản xuất với cung ứng, giữa sản xuất với môi trường sinh thái, tạo điều kiện kích cầu, phục vụ khách hàng tốt hơn, thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển mạnh. - Khi dịch vụ lớn mạnh và trờ thành một ngành kinh tế thật sự, nó sẽ vừa tham gia vào cơ cấu hạ tầng, vừa nắm vị trí đầu mối (ngân hàng, tín dụng), vừa nắm vai trò tôt chức (tư vấn). Phát triển dịch vụ tạo ra nhiều việc làm, thu hút một số lượng lớn lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. - Dịch vụ thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao dân trí và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. - Dịch vụ đóng vai trò to lớn trong việc giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đằng nam nữ, sử dụng phù hợp và có hiệu quả lực lượng lao động nữ cả về lĩnh vực lao động chân tay và trí óc. - Dịch vụ là cầu nối giữa các vùng trong nước, giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, tăng cường quá trình hợp tác, hội nhập giữa các quốc gia, các dân tộc, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế đối ngoại. Tóm lại, dịch vụ là một ngành không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại. Dịch vụ là xương sống của văn minh hiện đại. III. CÁC ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA DỊCH VỤ VÀ HỆ QUẢ 1. TÍNH VÔ HÌNH HAY PHI VẬT CHẤT Đặc điểm cơ bản của dịch vụ là sản phẩm của ngành này không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể. Các dịch vụ đều vô hình. Yếu tố lao động có ảnh hưởng và tác động mạnh đến dịch vụ, còn yếu tố kĩ thuật thì tác động ít hơn và chậm hơn so với các ngành sản xuất vật chất. Vì vậy, sản phẩm của dịch vụ không có tồn kho và không tích trữ được. Khả năng cạnh tranh trên thị trường của ngành dịch vụ rất ít. Mác chỉ rõ: “Trong những trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động không sản xuất ra tư bản, tức là trao đổi lấy lao động không sản xuất, thì lao động đó được mua với tư cách là một sự phục vụ…lao động đó cung cấp sự phục vụ không phải với tư cách là một đồ vật mà với tư cách là một sự hoạt động.” 2. TÍNH KHÔNG THỂ PHÂN CHIA Sản phẩm của dịch vụ được người cung cấp và người tiêu thụ phối hợp sản xuất ra. Quá trình sản xuất ra sản phẩm dịch vụ cũng là quá trình tiêu thụ sản phẩm đó nên sản phẩm dịch vụ mang tính cá biệt hóa cao theo yêu cầu riêng của cá nhân hay một nhóm người cụ thể. Vì vậy, nếu dùng giá cả để điều tiết lượng sản phẩm và thị trường thì không có tác dụng nhanh như đối với các ngành khác. Các cơ sở dịch vụ thường được gắn liền với sản xuất và đời sống của số đông dân cư làm xuất hiện các khu đô thị mới như các khu du lịch, khu vui chơi giải trí, các khu thương mại, các nút giao thông. 3. TÍNH THAY THẾ CỦA NGÀNH DỊCH VỤ RẤT KÉM Không thể dùng ngành dịch vụ này để thay thế cho ngành dịch vụ khác. Do đó, trong công việc điều hành cung cầu không thể tính đến khả năng thay thế lẫn nhau như trong cung cầu đối với các sản phẩm khác. 4. SỬ DỤNG NHIỀU LAO ĐỘNG “SỐNG” Trong quá trình sản xuất, ngành dịch vụ thường sử dụng nhiều lao động sống, nên giá trị sản phẩm dịch vụ tăng rất cao. Ở hầu hết các nước, giá dịch vụ bao giờ cũng cao. Lương dịch vụ tăng để đảm bào đời sống cho người lao động. Để đánh giá trình độ phát triển của một nước, người ta thường chú trọng đến tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế. 5. SỰ GẮN LIỀN GIỮA DỊCH VỤ HIỆN ĐẠI VỚI SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ Dịch vụ hiện đại đang tiến tới gắn liền với sản xuất công nghiệp điện tử và hình thành các sản phẩm hỗn hợp vừa vật chất vừa phi vật chất, vừa hữu hình vừa vô hình như: dịch vụ tin học, bưu chĩnh viễn thông…Do đó, các hoạt động dịch vụ có xu hướng phát triển và phân bố ở những khu vực tập trung các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, các trung tâm văn hóa… 6. SỰ TĂNG NHU CẦU DỊCH VỤ ĐI ĐÔI VỚI VIỆC TĂNG THU NHẬP Nhu cầu dịch vụ thường đồng biến đối với thu nhập. Thu nhập càng tăng nhu cầu dịch vụ càng lớn và ngược lại. Vì thế, thị trường về dịch vụ phân bố chủ yếu ở các nước phát triển (chiếm khoảng 80% tổng giá trị hàng hóa dịch vụ trên thị trường thế giới) và một số nước hàng đầu trong thế giới thứ ba (các nước công nghiệp mới) Những nước chiếm tỉ trọng cao trong giá trị dịch vụ trên thị trường thế giới là Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản…Các nước này thường có quy mô GNP theo đầu người cao và các ngành dịch vụ trong nước phát triển mạnh. Những vấn đề của dịch vụ thường có ảnh hưởng đến vệc quản lý kinh tế. Giá dịch vụ thường rất cao, thậm chí cao hơn giá hàng. Năm 1992, giá hàng tăng 13,92% nhưng giá dịch vụ tăng 41%, mức độ tăng hơn 2 lần. Năm 1993, giá hàng tăng 3,2% nhưng giá dịch vụ tăng 9,8%, gấp 3 lần. Điều này thường gây khó khăn cho việc chống lạm phát, kìm hãm tốc độ tăng giá cả trên thị trường. Khi giá dịch vụ tăng thì giá trị thực tế đồng lương sẽ giảm. Do đó, trong thời đại kinh tế thị trường, mở rộng phát triển kinh tế hiện nay, Nhà nước cần có chính sách thích đáng phù hợp làm giảm giá dịch vụ, góp phần ổn định giá cả thị trường. IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ CỦA NGÀNH DỊCH VỤ 1. TRÌNH ĐỘ CHUNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC Trình độ phát triển nền kinh tế đất nước và năng suất lao động xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất vật chất có ảnh hưởng cơ bản đến sự phát triển ngành dịch vụ. Khi nền kinh tế phát triển ổn định thì nhà nước mới có điều kiện đầu tư cho các ngành dịch vụ. Năng suất lao động trong các ngành sản xuất vật chất cao mới có thể chuyển một phần lao động làm dịch vụ. do đó, qua trình phát triển và phân bố các ngành dịch vụ phải cân đối với trình độ chung của sự phát triển kinh tế đất nước, cân đối với các ngành sản xuất vật chất. 2. QUY MÔ, CƠ CẤU DÂN SỐ Quy mô dân số, cơ cấu dân số đề ra yêu cầu về quy mô phát triển, nhịp độ phát triển và cơ cấu của các ngành dịch vụ. ví dụ: những nước đông dân, tỷ lệ trẻ em ở độ tuổi đi học cao thì các ngành giáo dục, y tế, xây dựng nhà ở,…phải được ưu tiên phát triển. 3. SỰ PHÂN BỐ DÂN CƯ Sự phân bố mạng lưới các điểm dịch vụ phụ thuộc vào sự phân bố dân cư. Sự tập trung dân cư ở các thành phố, đặc biệt ở các thành phố lớn đặt ra những yêu cầu gay gắt đối với ngành dịch vụ Dân cư thành thị nói chung có mức sống cao, vì vậy nhu cầu dịch vụ rất đa dạng, hoạt động dịch vụ rất phức tạp. Các thành phố còn là các trung tâm dịch vụ đối với các vùng lân cận và mang ý nghĩa vùng. Dân cư nông thôn, vùng sâu vùng xa thưa thớt, phân tán gây khó khăn cho các điểm đặt dịch vụ và khai thác chúng, đặc biệt là giao thông vận tải. 4. TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA, PHONG TỤC TẬP QUÁN Truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của dân cư ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động dịch vụ. 5. MỨC SỐNG, THU NHẬP CỦA NGƯỜI DÂN Mức sống, thu nhập của người dân quyết định đến sức mua, nhu cầu dịch vụ,ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và phân bố ngành dịch vụ. 6. SỰ PHÂN BỐ CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN Đối với việc hình thành các trung tâm dịch vụ du lịch, sự phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn như danh lam thắng cảnh, các bãi tắm, các nguồn nước khoáng, các di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa đặc biệt đối với việc tổ chức hoạt động, kinh doanh du lịch. V. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TRÊN THẾ GIỚI 1. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ - Ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDP (trên 60%). Còn ở các nước đang phát triển. Tỉ trọng của ngành dịch vụ thường chỉ dưới 50%. Theo thống kê của ngân hàng thể giới, năm 1992, thì vào đầu thập kỉ 70 ,chỉ có Hoa kì và vài nước phát triển Tây Âu, phần của dịch vụ trong cơ cấu GDP mới đạt 50%, ngay như Nhật Bản cũng chỉ mới đạt một nửa, Anh, Pháp chỉ vượt trên chút ít. Phần đóng góp trên 50% phải kể đến Singapo (74%), Hồng Kông (61,9%) là các lãnh thổ cảng biển vốn sinh sống chính bằng các dịch vụ liên quan đến hàng hải và du lịch. Các nước đang phát triển khác, tỉ lệ này chỉ đạt trên dưới 40%, có nước chưa đến 35%. Nửa cuối thập kỉ 80, nhìn chung toàn thế giới đều tăng trong cơ cấu từ 50,8% năm 1965 đến 57% năm 1985. Do cải cách cơ câu trước công nghệ mới, các nước phát triển tăng mạnh (Hoa Kì, Nauy, Hà Lan, Lucxambua, Pháp) đã đều chiếm trên 70% trong cơ cấu GDP. Các nước NIC cũng vượt lên trên 60%, riêng Hồng Kông tới 70,7%, Singapo lại có xu hướng giảm. Sự gia tăng dịch vụ có sự khác biệt giữa các khu vực đều có lí do riêng: Các nước phát triển do cải cách cơ cấu trước công nghệ mới, dịch vụ tăng nhanh dần, ít có nét đột biến. Thậm chí Nhật Bản chỉ từ trên 50% lên trên 60% trong cơ cấu, trước sự đồ sộ của nền công nghiệp nước này, tăng 1% đã là một nỗ lực. Các nước đang phát triển nói chung ít chuyển biến về cơ cấu, nông nghiệp kém hiệu quả, công nghiệp chưa có sức cạnh tranh và tổ chức kém nên dịch vụ cũng kém mở mang. Riêng các nước NIC nhờ có điều kiện vị trí thuận lợi, tranh thủ được điều kiện tham gia vào guồng phân công lao động quốc tế, nhạy bén trước công nghệ mới kể cả công nghệ thông tin. Ở Việt Nam, kinh tế dịch vụ phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986. Tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng dần theo hướng chuyển dần cơ cấu kinh tế hợp lí. Các hoạt động dịch vụ xuất hiện ngày càng nhiều, thích ứng nhanh và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2005, dịch vụ chiếm 38% trong cơ cấu GDP Biểu đồ: Cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế ở Việt Nam, giai đoạn 1990-2005 (%) - Trên thế giới, các thành phố cực lớn đồng thời cũng là các trung tâm dịch vụ lớn, nhất là các dịch vụ có vai trò rất to lớn trong nền kinh tế toàn cầu như dịch vụ tiền tệ, giao thông vận tải viễn thông, sở hữu trí tuệ… + Các trung tâm lớn nhất về cung cấp các loại dịch vụ là Niu Iooc, Luân Đôn, Tô -ki-ô. + Các trung tâm lớn đứng hàng thứ hai là Lôt An-giơ-let, Si-ca-gô, Oa-sinh-tơn (Hoa Kỳ), Xao-pao-lô (Braxin), Bruc-xen (Bỉ), Phran-phuốc (Đức), Pari (Pháp),, Duy-rich (Thụy Sĩ), Singapo. - Ở mỗi nước lại có các thành phố chuyên môn hóa về một số loại dịch vụ nhất định. Chẳng hạn, các thành phố trước kia là các trung tâm công nghiệp chế biến lớn, thì nay đã biến thành các trung tâm dịch vụ kinhh doanh lớn. Một số đô thị nổi tiếng là các trung tâm du lịch, giải trí. Lại có các đô thị nổi tiếng là các trung tâm về giáo dục, đào tạo… - Trong các thành phố lớn thường hình thành các trung tâm giao dịch, thương mại. Đó là nơi tập trung các ngân hàng, các văn phòng đại diện của các công ti, các siêu thị hay các tổ hợp thương mại, dịch vụ lớn…. - Ở nước ta, các thành phố, thị xã thường có khu hành chính (phàn “đô”) và các khu buôn bán, dịch vụ (phần “thị”) 2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN - Trên thế giới, số người hoạt động trong các ngành dịch vụ đã tăng lên nhanh chóng trong mấy chục năm trở lại đây. - Ở các nước phát triển, số người làm việc trong các ngành dịch vụ có thể trên 80% (Hoa Kỳ) hoặc từ 50% - 79%(các nước khác ở Bắc Mỹ và Tây Âu). - Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ lao động làm việc trong các khu vực dịch vụ thường chỉ trên dưới 30%. VI. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Nên chú trọng dạy học theo các phương pháp: - Trải nghiệm sáng tạo -Dạy học theo dự án - E-learning - Thảo luận, đàm thoại gợi mở… VII. HỆ THỐNG CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP Câu hỏi 1: Vì sao các thành phố lớn nhất thế giới như Niu-Iooc, Luân Đôn, Tô-kiô…cũng đồng thời là các trung tâm dịch vụ lớn nhất hiện nay? Gợi ý: - Tập trung rất đa dạng các loại hình dịch vụ khác nhau: dịch vụ sản xuất, dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ công. - Các thành phố này tập trung đông dân cư với mức sống rất cao nên dịch vụ tiêu dùng phát triển mạnh. - Các thành phố lớn đồng thời là những trung tâm công nghiệp, trung tâm kinh tế lớn nên các loại hình dịch vụ sản xuất, kinh doanh phát triển mạnh và rất đa dạng. - Các thành phố lớn cũng là các trung tâm hành chính, văn hóa, giáo dục, khoa học…nên các dịch vụ về hành chính, văn hóa, giáo dục cũng tập trung phát triển. Câu hỏi 2: Giải thích tại sao ở các nước đang phát triển, dịch vụ còn kém phát triển? Gợi ý: - Trình độ phát triển kinh tế và năng suất lao động xã hội thấp. - Ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tới các nước này còn ít. - Trình độ đô thị hóa thấp, mạng lưới đô thị kém phát triển, tỉ lệ dân thành thị còn thấp. - Mức sống của người dân nhìn chung còn thấp. Câu hỏi 3: Tại sao ở các nước đang phát triển, khu vực dịch vụ được chú trọng đẩy mạnh phát triển? Gợi ý: Ở nhiều nước đang phát triển, ngành dịch vụ có nhiều vai trò to lớn: - Thúc đẩy sự phát triển các ngành sản xuất vật chất nói riêng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung. - Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Sử dụng tốt hơn nguồn lao động trong nước, tạo thêm việc làm cho người dân. - Cho phép khai thác tốt hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự ưu đãi của tự nhiên, các di sản văn hóa, lịch sử, cũng như những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại để phục vụ con người. Câu hỏi 4: Tại sao tỉ lệ người lao động làm dịch vụ ngày càng tăng ở hầu hết các nước? Gợi ý: - Trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước ngày càng cao, điều kiện và nhu cầu về dịch vụ sản xuất, tiêu dùng, du lịch càng lớn đã thu hút lao động tham gia các hoạt động dịch vụ. - Năng suất lao động xã hội, đặc biệt trong sản xuất vật chất ngày cũng một cao lên tạo điều kiện để chuyển một phần lao động sang làm dịch vụ. - Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa kéo theo sự chuyển dịch lao động với sự gia tăng lao động ở ngành dịch vụ. - Sự phát triển của đô thị hóa (quy mô đô thị lớn lên, số dân đô thị trên thế giới tăng, lối sống đô thị ngày càng được phổ biến rộng rãi) kéo theo sự phát triển của các trung tâm dịch vụ. Câu hỏi 5: Tại sao ngành dịch vụ sản xuất trên thế giới ngày càng phát triển? Gợi ý: - Sản xuất ngày càng phát triển với quy mô lớn, năng suất cao, tốc độ nhanh, đòi hỏi ngành dịch vụ sản xuất( vận tải và thông tin liên lạc, tài chính, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, các dịch vụ nghề nghiệp,..) phát triển đáp ứng. - Sự phát triển của ngành kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dịch vụ phát triển( ví dụ: các phương tiện kĩ thuật hiện đại cùng với toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho các dịch vụ hoạt động sản xuất diễn ra rất thuận lợi) Câu hỏi 6: Tại sao ngành dịch vụ tiêu dùng trên thế giới ngày càng phát triển? Gợi ý: Các dịch vụ tiêu dùng trên thế giới ngày càng phát triển do tác động của: - Sự thay đổi dân số: + Quy mô dân số: quy mô dân số càng lớn nhu cầu tiêu thụ càng nhiều, quy mô dịch vụ càng lớn. + Gia tăng dân số: dân số tăng nhanh kéo theo tốc độ tăng của dịch vụ tiêu dùng. + Cơ cấu dân số: Cơ cấu dân số theo tuổi, giới, lao động văn hóa,…đòi hỏi sự đáp ứng của dịch vụ tiêu dùng, dẫn đến cơ cấu dịch vụ tiêu dùng đa dạng. + Phân bố dân số: Sự phân bố các ngành dịch vụ tiêu dùng gắn bó mật thiết với sự phân bố dân cư; việc phân bố dân cư ngày nay mở rộng pham vi trên thế giới kéo theo sự phân bố rộng rãi các ngành dịch vụ tiêu dùng. - Trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động xã hội: + Trình độ phát triển của ngành kinh tế càng cao, điều kiện và nhu cầu về dịch vụ càng lớn thu hút người ao dộng tham gia các hoạt động dịch vụ. + Năng suất lao động xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất ngày càng cao, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển một phần lao động sang làm dịch vụ - Quá trình đô thị hóa trên thế giới: Đô thị hóa phát triển, số dân đô thị càng tăng, lối sống đô thị phổ biến tạo nhu cầu dịch vụ lớn và đa dạng, hoạt động dịch vụ phát triển mạnh Câu hỏi 7: Tại sao sự phát triển và phân bố các ngành kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển và phân bố ngành dịch vụ sản xuất? Gợi ý: - Dịch vụ sản xuất là ngành phục vụ cho yêu cầu của các ngành sản xuất. - Các ngành dịch vụ sản xuất( trừ giao thông vận tải) không chịu sự phân bố của tài nguyên thiên nhiên, chỉ chịu tác động của các nhân tố kinh tế xã hội. Câu hỏi 8: Tại sao nói sự phân bố các ngành dịch vụ có ảnh hưởng rất lớn đến phân bố các ngành kinh tế? Gợi ý: Loại hình dịch vụ có ảnh hưởng đến phân bố kinh tế chủ yếu là dịch vụ sản xuất, trong đó chủ yếu là giao thông vận tải, thông tin liên lạc. - Các ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc nhất là viễn thông tác động mạnh mẽ đến sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ khác. - Các đầu mối giao thông vận tải có sức hút đặc biệt đối với sự phân bố các khu công nghiệp mới. - Các điều kiện dịch vụ được thuận lợi, thông thoáng là những yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư Câu hỏi 9: Tại sao ở các nước phát triển , các ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDP( trên 60%) và ngược lại ở các nước đang phát triển tỉ trọng của dịch vụ thường chỉ dưới 50% Gợi ý: - Sự phát triển của ngành dịch vụ liên quan đến nhiều nhân tố khác nhau: Trình độ phát triển của nền kinh tế và năng suất lao động xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất vật chất, số dân, kết cấu tuổi, giới tính, tỉ lệ gia tăng dân số và sức mua của dân cư, đô thị hóa và công nghiệp hóa,.. - Ở các nước phát triển: + Trình độ phát triển của nền kinh tế và năng suất lao động xã hội cao hơn nhiều so với các nước đang phát triển, ngành công nghiệp và xây dựng phát triển, đô thị hóa phát triển mạnh, chất lượng cuộc sống của dân cư cao, sức mua lớn,.. làm cho hoạt động dịch vụ phát triển mạnh và đa dạng. + Do sự phát triển của kinh tế, đặc biệt là kinh tế tri thức và chất lượng cuộc sống dân cư cao nên chất lượng dịch vụ tốt và tương ứng giá trị dịch vụ cao, phát triển nhiều ngành có vai trò rất lớn trong nền kinh tế toàn cầu mang lại giá trị lớn( dịch vụ tiền tệ, gaio thông vận tải biển, viễn thông, sở hữu trí tuệ,..) - Ở các nước đang phát triển: + Nhìn chung phần lớn các nước có trình độ phát triển kinh tế đang còn ở mức thấp, năng suất lao động xã hội chưa cao, khu vực sản xuât nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp còn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu GDP. Hiện nay, nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng thành tựu chưa cao, quá trình đô thị hóa còn nhiều hạn chế,… từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành dịch vụ + Do sự phát triển của kinh tế và chất lượng cuộc sống dân cư nên chất lượng dịch vụ có giá trị chưa cao, các dịch vụ mang lại hiệu quả cao đang còn nhiều hạn chế. Câu hỏi 10: Tại sao người ta ví du lịch như là “ngành công nghiệp không khói”? Gợi ý: - Phát triển du lịch cho phép khai thác tài nguyên du lịch để đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, phục hồi và bổ dưỡng sức khỏe cho người dân. - Mang về nguồn thu ngoại tệ đáng kể. - Sự phát triển đúng đắn của hoạt động du lịch sẽ góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan