Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự việt nam

.PDF
15
50
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ THU CHANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 2 Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 3 4 MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY Trang 1 7 TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.2.3. 1.3. 1.3.1. 1.3.2. 1.3.3. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam Khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong Luật Hình sự Việt Nam Khái quát lịch sử lập pháp hình sự việt nam quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay Nghiên cứu so sánh các quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trỏng luật hình sự Việt Nam với luật hình sự một số nước Bộ luật hình sự Nhật Bản Bộ luật hình sự Canada Bộ luật hình sự của Liên bang Nga Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO BỘ 7 7 14 18 18 20 24 27 27 30 31 34 LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. 2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. 2.1.4. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.2.4. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. 2.3.4. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Khách thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Mặt khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Mặt chủ quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Các trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cụ thể Phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 197 Bộ luật hình sự )hân biệt tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm về ma túy khác trong luật hình sự Việt Nam Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 Bộ luật hình sự) Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196 Bộ luật hình sự) Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 198 Bộ luật hình sự) Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200 Bộ luật hình sự) Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ, NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA 34 34 37 50 50 52 52 53 58 60 64 66 67 69 70 73 BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1. 3.1.1. 3.1.2. 3.2. 3.2.1. 3.2.2. 3.3. 3.3.1. 3.3.2. 3.3.3. 3.3.4. Thực tiễn xét xử tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở nước ta Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong 6 năm (từ năm 2005 đến năm 2010) của các Tòa án các cấp Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn xét xử và những nguyên nhân cơ bản Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Giải pháp nâng cao năng lực, trách nhiệm và tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ 5 73 73 78 87 87 90 93 94 95 97 98 6 3.3.5. 3.3.6. hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và cán bộ làm công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 7 100 101 102 107 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay, cộng đồng quốc tế đang phải đối phó với nhiều vấn đề nghiêm trọng như nạn khủng bố, nạn buôn bán trẻ em… trong đó có vấn đề ma túy. Ma túy đã trở thành thảm họa chung của nhân loại, gây tác hại nhiều mặt, làm gia tăng tội phạm, bạo lực và nhiều tệ nạn xã hội khác. Ma túy còn kéo theo việc hủy hoại sức khỏe lao động và những tiềm năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh tế - xã hội, đem lại hạnh phúc cho mọi người. Không những thế, ma túy còn đang làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, tàn phá cuộc sống yên vui của nhiều gia đình, gây xói mòn đạo lý xã hội, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của một quốc gia và là tác nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh HIV/AIDS phát triển. Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc giao lưu buôn bán quốc tế ngày càng phát triển thì tình hình mua bán, vận chuyển, tàng trữ càng khó kiểm soát hơn, tình hình nghiện hút, tiêm chích và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng diễn biến phức tạp. Đối tượng phạm tội ma túy quan hệ, móc nối với người nước ngoài, buôn bán, vận chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam và một số nước khác. Trước thực trạng nghiêm trọng nêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma túy, nhất là tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Loại tội phạm này không chỉ tăng về số lượng mà cả về đối tượng phạm tội. Phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng lớn hơn. Đây là nguyên nhân quan trọng làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng và phức tạp hơn, đồng thời còn gây khó khăn thách thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, các quy định của luật hình sự Việt nam về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy còn chưa hoàn thiện, nhất là thiếu quy phạm định nghĩa và một số quy định liên quan các yếu tố định tội và định khung hình phạt chưa rõ ràng nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất trong việc nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và định tội danh đối với tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này còn nhiều nhận định khác nhau giữa những cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về việc định tội danh và định khung hình phạt hoặc không phân biệt được sự khác nhau giữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm về ma túy khác trong Bộ luật hình sự năm 1999. Từ những lý do nêu trên, việc tác giả quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu các tội phạm về ma túy nói chung bắt đầu đã được triển khai sâu rộng và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố, đồng thời được thể hiện ở một số luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình như: GS.TSKH Lê Văn Cảm (2004), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung)", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Tập thể tác giả do TSKH.PGS Lê Văn Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu của Ths. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập IV: Các tội phạm về ma túy, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Bên cạnh đó, còn có các bài viết của các tác giả như TS. Nguyễn Tuyết Mai, Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma túy ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 11/2006; Hoàng Ngọc Bích, Ma túy - con đường hình thành và phát triển ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1999; Phạm Gia Khiêm, Ma túy đã tiếp thêm nhiên liệu cho một nền kinh tế phi pháp và ảnh hưởng đến an ninh xã hội, Tạp chí Phòng chống ma túy, số 10/2000... Bên cạnh đó, còn phải kể đến một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự và một số báo pháp lý hình sự có liên quan đến các tội phạm về ma túy. 9 10 Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng và chung cả nhóm tội, trong đó tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả trong các giáo trình, sách bình luận, luận văn, luận án. Việc nghiên cứu độc lập tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy chỉ được đề cập gián tiếp qua một số tài liệu luật học hay qua một số bài viết đơn lẻ về các điểm mới và nhận định mới trên các tạp chí. Chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu độc lập và đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian từ 2005 - 2010. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam; phân tích và làm sáng tỏ dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn xét xử. Đề xuất một số ý kiến hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm khác, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển về tội phạm này, đánh giá thực tiễn xét xử loại tội phạm này ở nước ta trong thời gian từ năm 2005 - 2010, trên cơ sở đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong lý luận và thực tiễn, các nguyên nhân cơ bản, qua đó tìm giải pháp về mặt thực tiễn để góp phần phòng, chống tội phạm này. 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là nhằm làm rõ nội dung pháp lý của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, dựa trên những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến của cá nhân nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu trong luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình…để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố; các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 6. Những đóng góp mới của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Góp phần làm rõ các vấn đề chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam; khái quát lịch sử hình thành và phát triển về tội phạm này từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác thường có sự nhầm lẫn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm này; phân tích số liệu thực tiễn xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2005 - 2010 và nghiên cứu một số bản án hình sự của Tòa án để đánh giá, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành, các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra các nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bluật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn. 6.2. Về mặt thực tiễn 11 12 Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Chương 3: Thực tiễn xét xử, những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và nâng cao hiệu quả áp dụng.. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khác nhau về định nghĩa khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và căn cứ vào các quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như sau: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi cố ý của một hoặc nhiều người trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, bao gồm: chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác hoặc chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ, dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác một cách thuận lợi. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam Thứ nhất, dưới góc độ chính trị - xã hội, đã góp phần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về việc bảo vệ chế độ độc quyền quản lý, sử dụng các chất ma túy của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người, an ninh trật tự an toàn xã hội vào Bộ luật hình sự. Thứ hai, về mặt lý luận, là cơ sở pháp lý hình sự đầy đủ và thống nhất để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có căn cứ để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Thứ ba, việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tương ứng với các mức độ phạm tội khác nhau không những chỉ trừng trị và giáo dục chính bản thân người phạm tội không phạm tội mới mà còn có mục đích răn đe, giáo dục đối với các thành viên khác trong xã hội nhất là đối với những công dân không vững vàng, dễ bị lôi kéo; qua đó bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay 1.3. Nghiên cứu so sánh các quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam với Luật hình sự một số nước 1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản 13 14 1.3.2. Bộ luật hình sự Canada 1.3.3. Bộ luật hình sự Liên bang Nga Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 2.1.1. Khách thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Khách thể trực tiếp của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc sử dụng các chất ma túy. Ngoài ra, hành vi phạm tội còn xâm hại đến các quan hệ xã hội khác như: ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe cộng đồng và lan tràn tệ nạn nghiện hút ma túy, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội . 2.1.2. Mặt khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 197của Bộ luật hình sự hiện hành là tội phạm có dấu hiệu "có tổ chức" là đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội và ở cả phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác, bao gồm các hành vi: Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ, dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng trái phép chất ma túy. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác thì bị coi là "đồng phạm" về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy; chuẩn bị chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ, sản xuất, …) nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ, v.v...) nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; tìm người sử dụng chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của họ. Hậu quả của hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là những thiệt hại cho xã hội, trong đó trực tiếp gây ra những thiệt hại về trật tự an toàn xã hội, tính mạng, sức khỏe của chính người sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện một trong các hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nếu trên. 2.1.3. Chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Chủ thể tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc khoản 1 Điều 197 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, do khoản 1 Điều 197 là tội phạm nghiêm trọng (mức án cao nhất là 7 năm tù); và theo khoản 2, khoản 3, khoản 4 thì chủ thể là người từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 2.1.4. Mặt chủ quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Đối với tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích của người phạm tội tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là nhằm đưa chất ma túy vào cơ thể người khác trái phép. Trong nhiều tội phạm, dấu hiệu mục đích được quy định là dấu hiệu tùy nghi nhưng đối với tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì dấu hiệu mục đích lại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có nhiều động cơ khác nhau nhưng chủ yếu là vì vụ lợi, do ma túy là mặt hàng mang lại lợi nhuận rất cao, nhưng cũng có thể do nhiều động cơ khác rất nguy hiểm như thù hằn cá nhân, động cơ đê hèn nên muốn đưa chất ma túy vào cơ thể người khác để gây nghiện. 2.2. Các trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cụ thể 2.2.1. Phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt 15 16 Đây là khung cơ bản của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, áp dụng cho các trường hợp người phạm tội thực hiện một trong các hành vi như đã nêu ở mặt khách quan nhưng không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Với mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù, ngay tại khung cơ bản đã thể hiện mức độ nghiêm trọng của loại tội này, đồng thời thể hiện thái độ nghiêm khắc và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm ma túy của Nhà nước ta. 2.2.2. Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự Theo khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Phạm tội nhiều lần; b) Đối với nhiều người; c) Đối với người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên; d) Đối với phụ nữ mà biết là đang có thai; đ) Đối với người đang cai nghiện; e) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; g) Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người; h) Tái phạm nguy hiểm. 2.2.3. Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự Theo khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết người; b) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; c) Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người; d) Đối với trẻ em dưới 13 tuổi. 2.2.4. Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 197 Bộ luật hình sự Theo khoản 4 Điều 197 Bộ luật hình sự, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân: Gây tổn hại cho sức khỏe nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 2.3. Phân biệt tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm về ma túy khác trong luật hình sự Việt Nam 2.3.1. Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194). 2.3.2. Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196) 2.3.3. Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 198) 2.3.4. Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200) Chương 3 THỰC TIỄN XÉT XỬ, NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1. Thực tiễn xét xử tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở nước ta 3.1.1. Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong 6 năm (từ năm 2005 đến năm 2010) của các Tòa án các cấp Qua số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về tình hình xét xử sơ thẩm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở nước ta (thống kê cấp tỉnh/huyện) trong thời gian từ năm 2005 - 2010 cho thấy: Một là, về tổng số vụ, số bị cáo Tòa án nhân dân các cấp đưa ra xét xử sơ thẩm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên tổng số vụ án, số bị cáo đưa ra xét xử sơ thẩm toàn quốc từ năm 2005 đến năm 2010 cho thấy: tổng số vụ án đưa ra xét xử là 368.761 vụ án và tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử là 634.874 bị cáo; tổng số vụ án đưa ra xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là 247 vụ án (chiếm tỷ lệ là 0,067%) và tổng số bị cáo đưa ra xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là 450 bị cáo (chiếm tỷ lệ là 0,071%). Tỷ lệ này cao nhất là năm 2009 với 0,123% số vụ án và 0,14% số bị cáo. 17 18 Hai là, về tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2005 - 2010 cho thấy: số vụ án phải xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có tổng số 247 vụ án và tổng số 450 bị cáo, trong đó số vụ án đã xét xử là 221 vụ án và 406 bị cáo, số vụ án trả lại Viện kiểm sát là 16 vụ án và 32 bị cáo, số vụ án bị đình chỉ là 02 vụ án và 02 bị cáo, số vụ án còn lại là 08 vụ án và 10 bị cáo. Trung bình số vụ án mỗi năm phải xét xử là 41 vụ án và 75 bị cáo về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Năm có số vụ án phải xét xử cao nhất là năm 2009 với 82 vụ án, năm thấp nhất là năm 2010 với 14 vụ án . Năm có số bị cáo phải xét xử cao nhất là năm 2009 với 165 bị cáo, năm thấp nhất là năm 2010 với 17 bị cáo. Trung bình số vụ án phải hoàn trả Viện kiểm sát là 03 vụ án/năm và 5 bị cáo/năm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Số vụ án bị đình chỉ ít, chỉ có trong năm 2007, 2009 với 02 vụ án và 02 bị cáo. Số vụ án còn lại chưa xét xử là 08 vụ án và 10 bị cáo. Ba là, về tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong tương quan với các tội phạm về ma túy trong 6 năm (2005-2010): trong tổng số 62.659 vụ án và tổng số 83.972 bị cáo các Tòa án phải xét xử về các tội phạm về ma túy, thì số vụ án và số bị cáo các Tòa án phải xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là 247 vụ án và 450 bị cáo, chiếm tỷ lệ 0,39 % số vụ án và 0,54 % số bị cáo. Trong khi đó, tổng số vụ án và tổng số bị cáo các Tòa án đã xét xử là 59.690 vụ và 66.374 bị cáo về các tội ma túy, thì tổng số vụ án và tổng số bị cáo các tòa án đã xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là 221 vụ án và 406 bị cáo, chiếm tỷ lệ 0,37% số vụ án và 0,61% số bị cáo. Năm có tổng số vụ án và số bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội ma túy cao nhất là năm 2010 với 11.826 vụ án và 15.099 bị cáo. Trong khi đó, năm có tổng số vụ án và số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cao nhất là năm 2009 với 82 vụ án và 165 bị cáo, thấp nhất là năm 2010 với 14 vụ án với 17 bị cáo. Bốn là, phân tích hình phạt và các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt (như: miễn trách hình sự, miễn hình phạt, không có tội, áp dụng kèm theo hình phạt bổ sung, v.v..) đối với bị cáo bị Tòa án xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong 06 năm (2005-2010): không có trường hợp nào bị cáo bị tuyên không có tội hoặc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt hoặc cảnh cáo, hình phạt tử hình cũng không có trường hợp nào. Việc áp dụng hình phạt đối với các bị cáo phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy chủ yếu là 02 biện pháp: thứ nhất, hình phạt tù có thời hạn từ 7 năm trở xuống với 188 trường hợp và tù từ 7 năm đến 15 năm là 100 trường hợp và thứ hai là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện - án treo với 43 trường hợp. Việc áp dụng hình phạt bổ sung hầu như không thực hiện, hoặc chỉ có 01 trường hợp năm 2008. Năm là, phân tích đặc điểm nhân thân của các bị cáo bị Tòa án xét xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2005 -2010: cán bộ công chức, đảng viên, cấp ủy viên (từ cấp huyện trở lên) không có trường hợp nào phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà chủ yếu tập trung vào 02 loại đối tượng là người nghiện ma túy 69 trường hợp (trung bình mỗi năm 10 trường hợp) và người có độ tuổi từ đủ 18 đến 30 tuổi là 96 trường hợp (trung bình 16 trường hợp). Ngoài ra, về giới tính nữ tham gia phạm tội này cũng nhiều là 41 trường hợp, dân tộc thiểu số là 31 trường hợp. 3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn xét xử và những nguyên nhân cơ bản * Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn xét xử Thứ nhất, một số trường hợp phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nặng quá hoặc nhẹ quá. Thứ hai, một số vụ án có số lượng đông người tham gia, còn bỏ lọt nhiều tội phạm. Thứ ba, có sự nhận thức không thống nhất về các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn áp dụng đối với tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau khi định tội danh trong một vụ án. Thứ tư, công tác điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn tình trạng hồ sơ vụ án phải trả lại Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc bị đình chỉ, tồn đọng. Thứ năm, hình phạt áp dụng đối với tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy còn hạn hẹp, không đa dạng, chủ yếu áp dụng hình phạt tù từ 7 năm trở xuống, tù từ 7 năm đến 15 năm và án treo, còn các hình phạt khác ít khi được áp dụng hoặc không áp dụng như miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt hoặc cảnh cáo, tử hình. Việc áp dụng hình phạt bổ sung hầu như không thực hiện, hoặc chỉ có 01 trường hợp năm 2008. * Những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Một là, khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự năm 1999 chưa được quy định cụ thể, rõ ràng trong Luật hình sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành. 19 20 Hai là, về tình tiết "Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là đang có thai" quy định tại điểm khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Ba là, về tình tiết "Đối với người đang cai nghiện" quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 197, việc quy định đối tượng bị xâm hại còn hạn hẹp, dẫn đến nhiều trường hợp còn bỏ sót tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Bốn là, Bộ luật hình sự quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong tương quan với các tội phạm về ma túy và các tội phạm khác còn chưa rõ ràng. Bởi vậy, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng còn nhầm lẫn giữa các tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng chất ma túy, v.v... Năm là, việc quy định định lượng ma túy mới chỉ được quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 193 Bộ luật hình sự, khoản 2, 3 và 4 Điều 194 Bộ luật hình sự chứ chưa quy định tổ chức sử dụng trái phép bao nhiêu gam ma túy trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Sáu là, do việc nhận thức quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong tương quan với các tội phạm khác và hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy còn chưa hoàn toàn thống nhất nên có nhiều quyết định trái chiều khi định tội danh và quyết định hình phạt. 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 3.2.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có ý nghĩa quan trọng dưới các góc độ chính sau đây: Một là, dưới góc độ chính trị - xã hội, ở một chừng mực nhất định - góp phần cụ thể hóa chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo vệ chế độ độc quyền về quản lý và sử dụng ma túy của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người; an ninh, trật tự, an toàn xã hội vào Bộ luật hình sự, bảo đảm hoạt động bình thường và ổn định của xã hội, qua đó kiên quyết xử lý nghiêm minh, triệt để và đúng pháp luật tất cả các hành vi xâm phạm chế độ độc quyền về quản lý và sử dụng ma túy của Nhà nước ở các mức độ khác nhau và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tính tối thượng của pháp luật. Đến lượt mình, khi chế độ độc quyền về quản lý và sử dụng ma túy được bảo vệ, ổn định lại là điều kiện thuận lợi để thực hiện nghiêm chỉnh và hoàn thiện chính sách hình sự. Hai là, dưới góc độ khoa học - nhận thức, việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có ý nghĩa làm sáng tỏ quy định về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, từ đó có cơ sở rõ ràng để phân biệt giữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm khác có liên quan trong Bộ luật hình sự. Ba là, dưới góc độ lập pháp hình sự, việc hoàn thiện này còn góp phần giúp cho các nhà làm luật nhận thấy những điểm chưa hợp lý của điều luật, để loại trừ các quy định đã lạc hậu, đã lỗi thời, quá trừu tượng, thiếu chính xác về mặt khoa học hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định mới cho phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt, quy định và giải thích rõ nội dung hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, hướng dẫn đầy đủ và chính xác một số tình tiết định tội, định khung với tội phạm này. Từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. 3.2.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Thứ nhất, quy định rõ khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 197 Bộ luật hình sự. Thứ hai, đối với trường hợp "Phạm tội đối với phụ nữ có thai" quy định tại điểm d khoản 1, 2, 3 Điều 104 và điểm a khoản 2 Điều 110 nên sửa cho phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 93, điểm d khoản 2 Điều 197, điểm đ khoản 2 Điều 200 Bộ luật hình sự bằng cách bổ sung vào điểm d khoản 1, 2, 3 Điều 104, điểm a khoản 2 Điều 110 cụm từ "mà biết" trước cụm từ "đang có thai" để đảm bảo sự thống nhất trong Bộ luật hình sự. Còn đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự thì giữ nguyên là "Phạm tội đối với phụ nữ có thai". 21 22 Thứ ba, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng phạm tội "Đối với người đang cai nghiện" tại điểm e khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự. Trong đó cần bổ sung thêm đối tượng "vừa cai nghiện xong", thành "Đối với người đang cai nghiện hoặc vừa cai nghiện xong". Thứ tư, cần quy định rõ về định lượng ma túy trong vụ án tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và nên sửa đổi từ "số lượng" thành từ "tổng định lượng" thì sẽ chính xác hơn. Thứ năm, theo chúng tôi trong trường hợp một người khác không phải là con nghiện mà cung cấp các phương tiện cho người khác sử dụng thì cũng không coi là phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như trường hợp người bị nghiện cung cấp tiền mua ma túy hoặc cung cấp ma túy cho người khác sử dụng. 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 3.3.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Hiện nay, các văn bản pháp lý hình sự hiện hành quy định và hướng dẫn cụ thể về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy sau một một thời gian thi hành đã bộc lộ một số hạn chế, chưa theo kịp sự biến đổi tinh vi của loại tội phạm này nên cần có sự thay đổi, bổ sung hướng dẫn cần thiết và kịp thời. Ngoài ra, cần có văn bản hướng dẫn định tội danh và cụ thể hóa trong các trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhưng có tình tiết dễ gây nhầm lẫn với các tội phạm về ma túy khác như tội chứa chấp người khác sử dụng trái phép chất ma túy; tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy; v.v... và một số tội phạm khác. 3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân Một là, tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống tội phạm ma túy nói chung và tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng thông qua các câu lạc bộ pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật ở tất cả các cấp thôn, xóm, xã, huyện, tỉnh, trung ương, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như loa đài phát thanh của phường, xã, thôn, xóm, truyền hình địa phương và trung ương, báo chí, tờ rơi,… Hai là, tăng cường xét xử lưu động, xét xử công khai các vụ án về ma túy để nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Ba là, phát động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, vận động người phạm tội ra tự thú, khai báo thành khẩn, truy bắt đối tượng phạm tội có lệnh truy nã; thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ khen thưởng, biểu dương kịp thời, hỗ trợ để khuyến khích, động viên tất cả quần chúng, nhân dân tham gia phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm. Bốn là, đưa nội dung cơ bản về giáo dục phòng chống ma túy vào chương trình giáo dục bắt buộc trong hệ thống nhà trường các cấp, phổ biến, giáo dục cho các em học sinh, sinh viên biết được tác hại và cách phòng tránh ma túy học đường. Năm là, phát động các phong trào toàn dân xây dựng thôn xóm mới, đường phố, cơ quan, đơn vị an toàn, xây dựng gia đình văn hóa, bài trừ tệ nạn ma túy. Tổ chức vận động toàn dân tham gia quản lý giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, tổ chức hướng nghiệp, tạo việc làm, lôi cuốn họ cải tạo họ thành người lương thiện, tái hòa nhập cộng đồng, cai nghiện được ma túy, không tái nghiện và tái phạm tội. Sáu là, mở rộng các trung tâm cai nghiện ma túy, trung tâm dạy nghề sau cai nghiện, v.v... để giảm tỷ lệ tái nghiện. Bảy là, chú ý đến việc giải quyết và đầu tư, xây dựng mới các khu vui chơi, giải trí lành mạnh cho thanh thiếu niên, quản lý chặt chẽ các nhà hàng, nhà nghỉ, vũ trường, quán nhậu, quán internet,... Bên cạnh đó, cần chú ý đến việc quản lý thanh thiếu niên, trẻ em trong mối liên hệ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, các tổ chức và chính quyền địa phương, bởi đối tượng nghiện ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng trẻ hóa về độ tuổi. 3.3.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Để tiến hành cuộc đấu tranh chống tội phạm ma túy đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ, liên tục, thường xuyên với nhau và với các cấp chính quyền, cơ quan, ban ngành, các tổ chức xã hội có liên quan. Đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh theo Nghị quyết 49/NQ-TW, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, huy động các ngành, các cấp, các cơ quan, tổ chức xã hội cùng tham gia vào công tác phòng, chống tội phạm ma túy; khi điều tra, truy tố xong cần phải đưa ra Tòa án để xét xử nghiêm minh, nhanh chóng và đúng pháp luật. 23 24 Phải xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, bảo đảm sự độc lập của Tòa án, Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 3.3.4. Giải pháp nâng cao năng lực, trách nhiệm và tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và cán bộ làm công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy Thứ nhất, từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp; nâng cấp các nhà tạm giam, tạm giữ; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thứ hai, thực hiện tốt chế độ, chính sách ưu đãi đối với cán bộ, chiến sĩ, người thi hành công vụ (lương bổng, phụ cấp, trang bị phương tiện, quần áo, chế độ động viên, khuyến khích, khen thưởng, v.v...) để họ yên tâm làm việc. Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểu mẫu, trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ, nhanh chóng khắc phục những biểu hiện tiêu cực, những sơ hở thiếu sót, vi phạm pháp luật của cán bộ, chiến sĩ. Quy định trách nhiệm hình sự và hành chính nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác. Thứ tư, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin,... để đảm bảo cán bộ, chiến sĩ phải nắm vững các quy định của văn bản pháp luật, khi giải quyết các vụ việc phức tạp có tình, có lý, thuyết phục và dứt điểm, không dây dưa, không có oan sai, không lấn sang nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan khác. Đối với ngành Tòa án, cần phải bổ sung biên chế cho toàn ngành tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ, công tác tuyển dụng phải lựa chọn được những người có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức vào ngành. Đồng thời, thường xuyên tổ chức, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và các cán bộ chuyên trách. Thứ năm, hàng tháng, hàng quý, hàng năm, các cơ quan tư pháp phải nghiêm túc tiến hành nhận xét, đánh giá về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, ý thức pháp luật, năng lực trình độ, chuyên môn của cán bộ, chiến sĩ, người thi hành công vụ trong lĩnh vực của mình nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, giỏi chuyên môn, ngày càng trong sạch và vững mạnh. Thứ sáu, phân định rõ thẩm quyền, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiếm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Thứ bảy, tăng cường công tác giám đốc xét xử, kiểm tra thanh tra công tác xét xử để hạn chế tối thiểu những án oan sai, chỉ ra những thiếu sót, sai lầm của cán bộ trực tiếp xét xử, từ đó có những văn bản hướng dẫn giải thích cụ thể trong toàn ngành, có thể trích dẫn những vụ án điển hình hay có sự nhầm lẫn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng học hỏi và rút kinh nghiệm. 3.3.5. Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp Cần phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, của chính quyền địa phương cũng như sự chỉ đạo sâu sát của các cơ quan tiến hành tố tụng từ Trung ương đến địa phương trong suốt quá trình giải quyết các vụ án lớn. Đồng thời cần phải kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành Nội chính Trung ương; cũng như tăng cường công tác tham mưu về công tác nội chính - tiếp dân cho các cấp ủy Đảng. 3.3.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, nhất là với tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (INTERPOL), Hiệp hội Cảnh sát các nước Đông Nam Á (ASEANPOL), các nước láng giếng, khu vực ASEAN và các nước có quan hệ truyền thống. Thực hiện có hiệu quả các hiệp định, hiệp ước tương trợ tư pháp về hình sự, hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm đã ký kết với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả các loại tội phạm xuyên quốc gia, có tính quốc tế, tội phạm khủng bố, v.v... Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực. 25 26 KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, công tác đấu tranh phòng chống ma túy là một vấn đề được đặt lên hàng đầu và được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Ban, Ngành cũng như đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động. Bên cạnh việc ban hành hệ thống các văn bản pháp luật quy định về tội phạm ma túy như: Bộ luật hình sự năm 1999, Luật phòng chống ma túy, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã kịp thời ban hành các thông tư, chỉ thị, nghị quyết hướng dẫn việc thi hành pháp luật nói chung và biện pháp đấu tranh phòng, chống ma túy nói riêng nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi sự phát triển của loại tội phạm này, góp phần tích cực ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Các Ban, Ngành trong cơ quan bảo vệ pháp luật đã chú trọng phối hợp chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực hoạt động tư pháp, nhất là trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma túy và liên quan đến ma túy nên đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Các đề án xây dựng pháp luật, Ban chỉ đạo quốc gia về phòng chống ma túy được thành lập và hoạt động tích cực, làm cho các phong trào đấu tranh chống tội phạm ma túy phát triển cả về bề dày và bề sâu. Bởi vậy, để hưởng ứng lời kêu gọi của cộng đồng quốc tế "Đoàn kết chống lại thảm họa hàng đầu của thế giới trong thập kỷ 21", cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy ở Việt Nam đã mang một khí thế mới, một sức mạnh mới. Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện nhiều giải pháp khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy như phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống ma túy trong từng giai đoạn, lấy tháng 6 hàng năm là "Tháng hành động phòng, chống ma túy" và ngày 26/6 là "Ngày toàn dân phòng chống ma túy". Đồng thời phát động phong trào toàn dân tham gia phòng chống ma túy, trong đó có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Mặt khác, tiến hành củng cố bộ máy tổ chức như thành lập Ủy ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm; thành lập Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm ma túy (C17) thuộc Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an. Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tạo sức mạnh đồng bộ trong cuộc đấu tranh chống tội phạm về ma túy, như hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định song phương với các nước trên thế giới về hợp tác phòng chống tội phạm ma túy như Myanma (1995), Hungari, Campuchia, Lào, Thái Lan, Nga (1998), Hoa Kỳ (2004),… Thực hiện Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm ma túy các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 và các chỉ thị, nghị quyết của Thủ tướng Chính phủ và của Chính phủ về việc triển khai Chương trình hành động phòng chống ma túy, công tác phòng chống tội phạm ma túy nói chung và tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng đã có những thành công lớn. Các vụ án mua bán, tàng trữ, vận chuyển, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy lớn đã bị phát hiện, truy tố, xét xử như: vụ án Nguyễn Xuân Thủy ở Sơn La, vụ Dương Cao Sơn ở Hà Nội, vụ New century ở Hà Nội, vụ Bar 198V ở Bùi Thị Xuân, Hà Nội và vụ UFO ở Hải Phòng, v.v... Đặc biệt, các vụ án tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy năm 2010 đã giảm đáng kể, chỉ còn 14 vụ/17 bị cáo tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự là tội phạm có dấu hiệu "có tổ chức" là đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội và ở cả phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác. Hành vi này thường do nhiều người thực hiện, dưới hình thức đồng phạm hoặc cũng có thể chỉ do một người thực hiện. Từ đó có thể rút ra định nghĩa khoa học của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như sau: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi cố ý của một hoặc nhiều người trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, bao gồm: chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác hoặc chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ, dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác một cách thuận lợi. Tội tổ chức dùng chất ma túy lần đầu tiên được quy định trong Luật, tại Điều 203 Bộ luật hình sự năm 1985 - cũng là điều luật duy nhất quy định về tội phạm ma túy. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, ngày 21/12/1998, Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời quy định tội phạm ma túy gồm 10 tội, trong đó tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1999 với mức hình phạt cao nhất là tử hình. Đến ngày 19/6/2009, Quốc hội khóa 12 tại kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ 1/1/2010, trong đó tại khoản 4 Điều 197 tội "tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" đã bỏ hình phạt tử hình, quy định mức hình phạt cao nhất là tù chung thân. 27 28 Như vậy, căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự một người về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là Bộ luật hình sự 1999 hiện hành và Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP (thay thế Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2/1/1998 và Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA ngày 05/8/1998). Tuy nhiên, việc áp dụng các văn bản này vào thực tiễn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc không chỉ trên phương diện lập pháp hình sự, mà cả thực tiễn xét xử, mà những nội dung này chúng tôi đã phân tích, đồng thời chỉ ra nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó. Pháp luật chỉ đi vào cuộc sống khi các quy định của nó phù hợp thực tiễn. Thực tiễn xét xử là sự kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quy phạm pháp luật và nó cũng là cơ sở để xây dựng xã hội thực hiện pháp luật. Do đó, chúng tôi đã xây dựng mô hình lý luận của tội phạm này với việc sửa đổi, bổ sung Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1999 cho phù hợp hơn. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này đòi hỏi cần có những giải pháp sau: 1) Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật hình sự trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. 2) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân. 3) Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. 4) Giải pháp nâng cao năng lực, trách nhiệm và tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và cán bộ làm công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. 5) Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. 6) Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp. Các giải pháp này có ý nghĩa rất quan trọng không những trên phương diện xã hội - pháp lý hình sự mà còn cả trên phương diện tội phạm học, để nhằm mục đích phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả hơn đối với các hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, qua đó đảm bảo xử lý nghiêm minh đúng người, đúng tội, tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, đồng thời còn có tác dụng răn đe, giáo dục người khác không phạm tội, xây dựng một xã hội lành mạnh, bài trừ tệ nạn ma túy và hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Đây chính là yêu cầu của Đảng, Nhà nước và xã hội trong phòng ngừa tội phạm, tiến tới thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011-2015) theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". 29 30
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan