Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới chính sách thương mại của việt nam...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới chính sách thương mại của việt nam

.DOC
126
148
60

Mô tả:

Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 1. Đặc điểm của kinh tế Việt Nam Qua hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm thế và lực để bước vào giai đoạn phát triển mới. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu to lớn như nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, kiềm chế và đầy lùi được nạn siêu lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng Việt Nam vẫn đang còn là một nước nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chưa cao. Nhà nước còn quản lý rất chặt chẽ nhiều lĩnh vực quan trọng như ngân hàng, bưu điện, điện lực…Những tệ nạn như tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỷ cương còn nặng và phổ biến. Tuy nhiên khó khăn còn đang tồn tại và sẽ tiếp tục phát sinh nhưng những thách đố gay go nhất của thời kỳ chuyển toàn bộ nền kinh tế từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới và sự hẫng hụt về viện trợ, đảo lộn về ngoại thương do có sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu đã qua rồi. Không có khó khăn nào có thể lớn hơn những khó khăn đã gặp phải trong những năm đầu khởi động chương trình đổi mới. Khó khăn đang tồn tại và sẽ phát sinh chỉ là khó khăn của yêu cầu phát triển, tăng tốc độ nền kinh tế chứ không phải là khó khăn có thể dẫn đến nền kinh tế sụp đổ như những năm trước đây. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 1 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Mặt khác, bên cạnh những khó khăn, thách đố, nền kinh tế Việt Nam còn có thời cơ và thuận lợi, nội lực và ngoại lực. Nếu khai thác tốt các yếu tố thuận lợi, tận dụng được thời cơ sẽ cho phép khắc phục khó khăn, vượt qua thách đố, hành trang của nền kinh tế Việt Nam trên con đường hội nhập chứa đựng thuận lợi nhiều hơn khó khăn, thời cơ lớn hơn thách đố. 2. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với ngoại thương nói riêng. Hoạt động kinh tế trong một nền mậu dịch tự do diễn ra theo các quy luật kinh tế, đó là quy luật về giá cả, cung cầu, quy luật cạnh tranh …, các quy luật kinh tế này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. Nếu một nền kinh tế nào hoạt động dưới tác động, điều tiết của quy luật kinh tế thì sẽ tối đa hoá được lợi nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có. Nhưng với một nền kinh tế thị trường không có sự quản lý của Nhà nước sẽ dễ dàng nảy sinh ra những khuyết tật của thị trường như tình trạng phân hoá giàu nghèo rất cao, tình trạng thất nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng mà từ đó sẽ nảy sinh ra những tệ nạn xã hội, hoặc có những lĩnh vực có ích cho cộng đồng và phát triển kinh tế như xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư vào giáo dục, y tế cần nhiều vốn nhưng thời gian thu hồi chậm và lợi nhuận thu được ít thì sẽ không được các nhà đầu tư quan tâm. Chính vì những lý do trên, để hướng nền kinh tế phát triển theo hướng có lợi nhất và phù hợp nhất với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia, chính sách tự do hoá thương mại cũng cần có sự quản lý của Nhà nước dù ở mức độ can thiệp, quản lý của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và quan điểm nhận thức của mỗi nước. Vì vậy, chúng ta thấy hiện nay các nước đều sử dụng chính sách thương mại của mình để can thiệp vào thị trường, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển bền vững, ổn định và khuyến khích xuất khẩu, xâm nhập ra thị trường nước ngoài. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 2 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Chính sách thương mại là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để quản lý, điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ, nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó. Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi quốc gia xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng nên một cách phù hợp. Ngoài ra chính sách thương mại của một nước chịu ảnh hưởng và cũng chi phối hoạt động ngoại thương của các nước khác. Ở Việt Nam, chính sách thương mại đã dần xoá bỏ được các định kiến. Chuyển đổi chính sách thương mại từ quản lý theo mô hình kế hoạch hoá tập trung sang kiểu quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1995 ta đã sửa đổi lại chính sách thuế, chính sách phi quan thuế, chính sách tài chính tiền tệ… phù hợp với yêu cầu của Hiệp định CEPT, Hiệp định thuế quan của khối APEC và của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Những thay đổi đó đã được các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế công nhận, qua đó vị thế của nền kinh tế nước ta trên trường quốc tế đã thay đổi đáng kể. Nền kinh tế của ta đang và sẽ hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết để hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào quá trình tự do hóa thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Riêng đối với lĩnh vực ngoại thương, chính sách thương mại chịu ảnh hưởng và cũng chi phối rất lớn đến lĩnh vực này. Chính sách thương mại đã thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, góp phần làm kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ cao. Cơ chế xuất nhập khẩu thể hiện trong chính sách của Nhà nước ngày càng mở rộng, linh hoạt đã tạo điều kiện và cơ hội cho các doanh nghiệp chủ động tìm đối tác và thị trường xuất khẩu. Mặt khác, sự cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế đã buộc các doanh nghiệp phải cải tiến mẫu mã sản phẩm, Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 3 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây áp dụng kỹ thuật công nghệ mới, do đó đã nâng cao được khối lượng kim ngạch và chất lượng xuất khẩu. Một vấn đề rất đáng chú ý là chính sách thương mại đã thúc đẩy xuất khẩu tới thị trường đích và nhập khẩu từ thị trường nguồn. Chính sách tự do hoá thương mại và các quy chế cụ thể đã giúp các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư chế biến hàng xuất khẩu để đưa tới thị trường tiêu dùng (thị trường đích) và nhập khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc thiết bị từ thị trường có công nghệ hiện đại (thị trường nguồn). Chính sách thương mại của nước ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đưa nước ta từ một nền kinh tế đóng sang một nền kinh tế mở, đã và đang gặt hái được nhiều thành công rất đáng khích lệ. 3. Tính cấp thiết phải đổi mới chính sách thương mại Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi quốc gia, xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng nên một cách phù hợp. Tuy nhiên, không có chính sách thương mại nào là phù hợp cho tất cả các quốc gia, trong mọi thời điểm bởi vì các quy luật kinh tế chi phối nền kinh tế của thế giới cũng như của các quốc gia luôn luôn biến động, sự biến động của các quy luật này kéo theo sự thay đổi chiến lược kinh tế của từng quốc gia, do đó chính sách thương mại tất yếu cũng thay đổi theo. Hiện nay, xu hướng phát triển kinh tế của thế giới đang thay đổi và xu thế tự do hoá thương mại ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Tất cả các quốc gia, nếú không muốn đứng ngoài dòng chảy của sự phát triển kinh tế thế giới thì buộc phải tham gia vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Cụ thể là phải mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại, giảm bớt các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước, ban hành những chính Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 4 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây sách kinh tế thông thoáng hơn để thu hút đầu tư nước ngoài và kích thích sản xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Chính vì những yêu cầu thực tiễn trên mà các nhà hoạch định chính sách không thể không nghĩ đến vấn đề cải cách và đổi mới chính sách thương mại của nước mình để phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn thế giới. Đối với Việt Nam, chúng ta không thể duy trì mãi chính sách khép kín, chia cắt trong hoạt động thương mại và cô lập trong quan hệ quốc tế đã góp phần làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế không phát triển và tụt hậu so với các nước khác trên thế giới. Trong hơn 15 năm qua, Việt Nam đã không ngừng cải cách, đổi mới chính sách thương mại và thành công của công cuộc đổi mới đã được thể hiện bằng những kết quả đáng ghi nhận như tốc độ tăng trưởng GDP, kim ngạch xuất nhập khẩu … Có thể nói, đổi mới chính sách thương mại là một lựa chọn tất yếu không chỉ riêng Việt Nam mà còn là của tất cả các nước trên thế giới. II. NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 1. Khái quát chính sách thương mại trước đổi mới. 1.1. Chính sách thương mại trước đổi mới. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế lạc hậu, lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, phụ tùng và thiết bị của bên ngoài. Nhà nước vẫn duy trì chính sách kinh tế đóng, quan hệ buôn bán với nước ngoài chưa phát triển, chủ yếu là buôn bán với các nước XHCN, hoạt động xuất nhập khẩu còn manh múm, chính vì vậy, chính sách thương mại thời kỳ này chủ yếu là quản lý, điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nước và giữa nước ta với các nước XHCN. Xuất phát từ nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu và mô hình kế hoạch hoá tập trung ảnh hưởng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 5 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây độc quyền Nhà nước đối với ngoại thương đã trở thành quy phạm pháp luật có tính bắt buộc. Điều này có thể thấy được thông qua các khía cạnh sau: - Nhà nước độc quyền quản lý về ngoại thương Mọi hoạt động ngoại thương đều tập trung vào Nhà nước, Bộ Ngoại thương là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước quản lý hoạt động ngoại thương. Bộ Ngoại thương xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu và trực tiếp phân bổ kế hoạch chó các doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời Bộ trực tiếp điều tiết, quản lý hoạt động ngoại thương bằng các chỉ tiêu pháp lệnh và thông qua hệ thống cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Vì vậy, Bộ Ngoại thương thay mặt Nhà nước trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện, nếu gặp khó khăn, vướng mắc, các doanh nghiệp phải báo cáo Bộ và xin ý kiến chỉ đạo, không được tự ý sửa đổi kế hoạch. - Nhà nước độc quyền kinh doanh ngoại thương Các quan hệ thương mại, kinh tế giữa nước ta với các nước XHCN kế khác đều mang tính chất Nhà nước và được thực hiện trên cơ sở các hiệp định và Nghị định thư mà Chính phủ ta ký kết với chính phủ các nước XHCN. Hoạt động kinh doanh ngoại thương do Nhà nước độc quyền, Bộ Ngoại thương cho phép một số doanh nghiệp quốc doanh được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài, các doanh nghiệp này chỉ được kinh doanh những mặt hàng và ngành hàng được cho phép. Thực chất đây cũng là những tổ chức kinh doanh độc quyền về các mặt hàng và ngành hàng được giao. Tính độc quyền của Nhà nước trong kinh doanh ngoại thương rất cao và gần như là tuyệt đối. Số lượng các doanh nghiệp được phép kinh doanh ngoại thương là rất nhỏ, tính đến năm 1981, chỉ có 12 doanh nghiệp Nhà nước được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đến năm 1987 là 35 doanh nghiệp. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 6 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Tính độc quyền trong kinh doanh ngoại thương còn được thể hiện trong quá trình thực hịên hoạt động ngoại thương, các doanh nghiệp phải thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, điều đó nghĩa là sản xuất cái gì, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng gì, trị giá bao nhiêu, thị trường nào hầu như đều do Nhà nước chỉ đạo, thậm chỉ trong nhiều trường hợp ngay cả giá cả cũng do Nhà nước quy định. Hạch toán kinh tế ở giai đoạn này chỉ mang tính chất hình thức. Thông qua chế độ “thu bù chênh lệch ngoại thương”, các khoản được coi là lãi phải nộp cho Nhà nước, các khoản được coi là lỗ thì được Ngân sách Nhà nước cấp bù. Tuy nhiên, từ khi Nghị định số 40/CP ngày 7/2/1980 ra đời, quyền kinh doanh ngoại thương được mở rộng hơn cho các địa phương thông qua các tổ chức ngoại thương địa phương. Mở rộng quyền xuất khẩu trực tiếp cho các liên hiệp xí nghiệp. Các liên hiệp xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trực thuộc các Bộ quản lý sản xuất. Từ quy định này hình thành nên Bộ quản lý Nhà nước về ngoại thương (Bộ Ngoại thương) và Bộ chủ quản của các tổ chức sản xuất được quyền hoạt động ngoại thương (Bộ quản lý ngành). Ngoài ra, Nghị định này còn đề cập đến việc sửa đổi công tác kế hoạch hoá xuất khẩu theo hướng thu hẹp các chỉ tiêu pháp lệnh đối với hàng xuất khẩu, cho phép xuất khẩu những sản phẩm ngoài kế hoạch, do đó đã hình thành hàng xuất khẩu theo kế hoạch và hàng xuất khẩu ngoài kế hoạch. - Nhà nước độc quyền về tài sản trong kinh doanh ngoại thương Do hoạt động kinh doanh ngoại thương tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước, tài sản phục vụ cho lưu thông và hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp trong kinh doanh ngoại thương. Trong một thời gian dài, nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương được mở rộng ra toàn bộ các lĩnh vực kinh tế đối ngoại và được ghi vào Hiến Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 7 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây pháp Việt Nam năm 1980: “Nhà nước độc quyền ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại” (Điều 21). Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta được thực hiện theo cơ chế quản lý tập trung, hoạt động ngoại thương được tập trung vào tay Nhà nước. Bộ Ngoại thương có chức năng quản lý Nhà nước (hoạch định chính sách, soạn thảo pháp luật, kiểm tra, giám sát các hoạt động ngoại thương…) đồng thời có chức năng chỉ đạo các nghiệp vụ kinh doanh (ấn định các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường, phương thức mua bán, giá cả..) từ đó dẫn đến sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh và quản lý kinh doanh. Tuy nhiên, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội nhất định. Ngày nay, hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan vỡ, cùng với xu hướng quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế – xã hội, Việt Nam cũng phải thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển sản xuất hàng hoá với nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, do đó chính sách thương mại thời kỳ này với việc Nhà nước độc quyền ngoại thương không còn phù hợp nữa. Chính vì thế, Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới về chính sách và cơ chế quản lý đề ngày càng phù hợp hơn với xu thế tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực và trên toàn thế giới. 1.2. Hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1976-1985: Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất, hoạt động ngoại thương có những thuận lợi mới, đồng thời có những khó khăn mới. Đất nước được thống nhất, chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác có hiệu quả tiền năng của đất nước (đất đai, rừng, biển, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, nguồn lao động và yếu tố con người, vị trí của Việt Nam …) để đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, phát triển ngoại thương mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài, thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bên cạnh những thuận lợi mới, chúng ta cũng đứng Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 8 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây trước những khó khăn gay gắt bắt nguồn từ trình độ phát triển kinh tế của cả nước còn thấp, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn thấp lém, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, nền kinh tế còn bị lệ thuộc nặng nề vào bên ngoài. Chiến tranh kéo dài làm đã để lại những hậu quả kinh tế nặng nề làm cho đất nước phát triển chậm lại nhiều năm. Bên cạnh đó, một số nước phương Tây đã thực hiện chính sách cấm vận và phân biệt đối xử với nước ta. Hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi đó đã gây ra cho nước ta không ít khó khăn, nhưng kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng vẫn được tiếp tục phát triển. Sau đây là kết qủa hoạt động xuất, nhập khẩu giai đoạn 1976 -1985: Qua bảng thống kê sau chúng ta thấy: - Kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua các năm. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong 10 năm (1976 - 1985) của xuất khẩu tăng cao hơn tỷ lệ tăng của tổng kim ngạch buôn bán hai chiều và của nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong 10 năm của xuất khẩu là 13,5% thì của XNK cộng lại là 8,4%, và của nhập khẩu chỉ có 7%/ năm. - Trị giá xuất khẩu tuy có tăng nhưng trong 10 năm (1976-1985) xuất khẩu cũng chỉ đảm bảo được 30,8% tổng số tiền nhập khẩu. - Cán cân thương mại quốc tế luôn nghịch sai (nhập siêu) và nhập siêu có xu hướng tăng. Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976 -1985 Đơn vị: Triệu rúp – USD Năm Tổng Xuất khẩu Nhập khẩu KNXNK Cán cân thương mại Trị giá Tỉ lệ % 1976 1.226,8 222,7 1.004,1 -881,4 22,2 1977 1.540,9 322,5 1.218,4 -815,9 28,3 Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 9 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây 1978 1.630,0 326,8 1.303,2 -976,4 25,1 1979 1.846,6 320,,5 1.562,1 -120,5 21,0 1980 1.652,8 338,6 1.314,2 -975,6 25,8 1981 1.783,4 1.382,2 -981,0 29,0 401,2 1982 1.998,8 526,6 1.472,2 -945,6 35,8 1983 2.143,2 616,5 1.526,7 -910,2 40,4 1984 2.394,6 649,6 1.745,0 -1.095,4 37,2 1985 2.555,9 698,5 1.857,4 -1.158,9 37,6 Tổng số 18.773,0 4.423,5 14.349,5 -9.926,0 30,8 Nguồn: Giáo trình Kinh tế ngoại thương - 1997 Hầu hết các loại hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần di sản xuất trong nước không đảm bảo. Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị còn nhập khẩu cả hàng tiêu dùng. Kể cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như lúa gạo, vải mặc. Trong những năm 1976 -1985 đã nhập khẩu 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy ra gạo. Xuất khẩu tuy có tăng nhưng trị giá xuất khẩu quá thấp. Hàng xuất khẩu chủ yếu dựa vào thu gom sản phẩm từ nền sản xuất hàng hoá kém phát triển: 63% trị giá xuất khẩu của năm 1985 là nông, lâm, thuỷ sản: 28,9% là hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. 2. Nội dung cơ bản của đổi mới chính sách thương mại: 2.1. Mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 của Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thay đổi tương đối cơ bản về chính sách xuất nhập khẩu nước ta. Từ năm 1994 trở về trước, có thể nói Nhà nước ta độc quyền về ngoại thương, hoạt Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 10 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây động xuất nhập khẩu hầu như chỉ thực hiện theo cơ chế Nghị định thư và giao cho các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện; các biện pháp quản lý chủ yếu là phi thuế quan. Từ năm 1994 trở đi, với sự ra đời của Nghị định 33/CP, công cụ phi thuế quan chỉ còn giá trị đối với một số mặt hàng thuộc danh mục cấm xuất khẩu, nhập khẩu, còn “tất cả hàng hoá đều được xuất, nhập khẩu và chịu điều tiết bằng thếu theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trừ một số mặt hàng thuộc danh mục còn chịu sự điều chỉnh bằng những biện pháp quản lý phi thuế quan” (Điều 4 Nghị định 33/CP) áp dụng với các mặt hàng: hàng cấm xuất, nhập khẩu, hàng quản lý bằng hạn ngạch, hàng chuyên dụng và hàng có liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế. Nghị định 33/CP ra đời đã mở rộng quyền tham gia kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện mà Nhà nước đặt ra. Thứ nhất, các doanh nghiệp có vốn lưu động bằng tiền Việt Nam tương đương 200.000 USD (với doanh nghiệp lưu thông), có ưu tiên cho các doanh nghiệp ở các tỉnh miền núi hoặc khó khăn về kinh tế (100.000 USD), thứ hai, phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương thì được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, ngoài giấy đăng ký kinh doanh bình thường. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được phép tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Mặc dù thời kỳ này chưa có những cơ chế khuyến khích xuất khẩu thích đáng. Các doanh nghiệp này chỉ được xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá do chính mình làm ra. Việc xuất nhập khẩu do khu chế xuất thực hiện đã không được tính vào kim ngạch xuất nhập khẩu chung của cả nước. Tuy những năm này, kim ngạch xuất nhập khẩu của các khu chế xuất chưa đáng kể, nhưng theo thông lệ ngoại thương quốc tế, kết quả xuất khẩu của khu vực này thuộc phạm vi của xuất nhập khẩu. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 11 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Hoạt động gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài ngày càng được phát triển. Riêng về gia công, hàng năm kim ngạch hàng gia công của nước ta chiến không dưới 20% tổng kim ngạch, còn hoạt động đại lý cũng đặt ra yêu cầu ngày càng bức xúc, song trong nhiều năm qua, các lĩnh vực hoạt động này chưa có những quy chế điều hành một cách có hệ thống, nên các doanh nghiệp cũng như các cấp quản lý còn nhiều lúng túng. Bên cạnh những điểm tích cực, Nghị định 33/CP còn nhiều hạn chế và trên thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường đã dần dần bộc lộ những tồn tại. Đó là quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp bị hạn chế bởi những yêu cầu mang nặng tính thủ tục. Việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu theo quy định trên tuy có mặt tích cực nhất định trong giai đoạn đầu để tiếp tục quản lý chặt chẽ hoạt động ngoại thương ở nước ta nhưng tác động rõ nét nhất là gây phiền hà cho doanh nghiệp, phải mất nhiều thời gian lo các thủ tục để được giấy phép xuất nhập khẩu, kể cả có nhiều doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đối phó với các yêu cầu về vốn, về trình độ cán bộ… Đồng thời cũng là điều kiện làm xuất hiện nhiều thủ tục hành chính rườm rà, tạo kẽ hở cho sự hối lộ, tham nhũng phía người xin giấy phép lẫn người cấp giấy phép. Trước những vấn đề đó Nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài; Quyết định 55/QĐ-TTg ngày 03/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục hàng hoá xuất khẩu có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đã giải phóng xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế và việc ban hành Quyết định 0321/1998/QĐ-BTM ngày 14/03/1998, Quyết định 0625/1998/QĐ-BTM ngày 03/06/1998 của Bộ Thương mại về xuất nhập khẩu, tiêu thu sản phẩm tại Việt Nam và gia công của các doanh Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 12 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, là hết sức cần thiết và đáp ứng được những nhu cầu rất bức xúc của thực tiễn. Nghị định 57/CP đã quy định rộng hơn nhiều so với Nghị định 33/CP trước đây và vấn đề quan trọng nhất là từ năm 1998, Nhà nước đã ban hành Luật Thương mại Việt Nam điều chỉnh mọi hoạt động thương mại. Tại Điều 5 – Luật Thương mại quy định thương nhân được hiểu “gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên”. Điều kiện để trở thành thương nhân cũng hết sức đơn giản “ Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.” (Điều 17 – Luật Thương mại) Đối với thương nhân Việt Nam, xuất nhập khẩu hàng hoá kể cả xuất nhập khẩu uỷ thác và uỷ thác xuất nhập khẩu, được thực hiện theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 3 – Nghị định 57) không cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu qua Bộ Thương mại nữa. Các chi nhánh công ty, công ty cũng được xuất nhập khẩu hàng hoá thích hợp, theo uỷ quyền của tổng giám đốc, giám đốc doanh nghiệp. Những hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện sẽ do Chính phủ trực tiếp phê duyệt hoặc uỷ quyền cho các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ có thể quyết định tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu với một thị trường hoặc với một số mặt hàng nhất định để thực hiện quyền tự vệ theo pháp luật và thông lệ quốc tế. Mọi thương nhân kinh doanh cùng ngành hàng đều được phép thành lập hội liên hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo quy chế của Bộ Thương mại. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 13 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Mọi thương nhân Việt Nam được phép nhận gia công cho thương nhân nước ngoài, không hạn chế số lượng, chủng loại; những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu được điều chỉnh thông qua Bộ Thương mại, đồng thời được quyền gia công ở nước ngoài các loại hàng hoá đã được phép lưu thông trên thị trường Việt Nam để kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp được phép xuất khẩu, tiêu thụ những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất hoặc không do doanh nghiệp sản xuất theo quy định của giấy phép đầu tư, trên tinh thần mở rộng tối đa quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp FDI và khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu đối với khu vực này. 2.2. Chính sách đa dạng hoá mặt hàng và thị trường. Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong 10 năm trong bối cảnh mới của đất nước và của thế giới. Đại hội đã nhất trí với chủ trương “đa dạng hoá và đa phương hoá” các quan hệ đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa để phát triển kinh tế, xuất nhập khẩu được xác định là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình “Việt Nam làm bạn với tất cả các nước”. Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) đã đưa ra một nghị quyết riêng về kinh tế đối ngoại theo hướng “xây dựng một nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu”. Như vậy, từ đây chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã được khẳng định, điều này cũng đồng nghĩa với việc coi thị trường bên ngoài là một động lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nước ta tiếp tục mở rộng quan hệ buôn bán với tất cả các nước (không phân biệt chế độ chính trị) theo phương thức đa dạng hoá và đa phương hoá thị trường. Mở rộng thị trường mới, khai thông những thị trường cũ đã bị ách tắc. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 14 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Ở giai đoạn này các chính sách nhằm vào đa dạng hoá các mặt hàng xuất, khẩu khai thác tiềm năng các mặt hàng truyền thống và các mặt hàng mới mà nước ta đang có lợi thế. Trong những năm 1991-1995, nhờ chuyển hướng kịp thời sang thị trường các nước trong khu vực, nước ta khắc phục được tình trạng hẫng hụt khi mất thị trường các nước XHCN trước đây, nhờ đó hoạt động xuất nhập khẩu vẫn đạt được mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, nước ta lại bị rơi vào thế phụ thuộc nặng nề vào thị trường các nước châu Á. Trong khi đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta với nhiều nước trong khu vực lại tương đồng, các nước này chỉ nhập khẩu hàng hoá của nước ta ở dạng thô để chế biến và tái xuất đi các thị trường khác nên hiệu quả xuất khẩu của nước ta rất thấp. Mặt khác, nhập khẩu của nước ta từ các nước này chưa phải là các công nghệ nguồn nên ảnh hưởng của nhập khẩu đến biến đổi cơ cấu kinh tế còn rất hạn chế. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta kiên trì đường lối đa dạng hoá và đa phương hoá thị trường, tìm cách để doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường tiềm năng ở các khu vực địa lý khác nhau. Bên cạnh việc tiếp tục khôi phục các thị trường truyền thống, Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến các thị trường không đòi hỏi hạn ngạch và những thị trường ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua. Nhà nước tăng cường vai trò của hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài; ngoài việc cung cấp thông tin thường xuyên còn được giao nhiệm vụ tìm kiếm thị trường, kể cả việc đăng ký chỉ tiêu xuất khẩu vào thị trường để trực tiếp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu. Những năm cuối của thập kỷ 90, nước ta đã tích cực nối lại các mối quan hệ hợp tác toàn diện với các nước XHCN trước đây, đồng thời thúc đẩy việc mở rộng thị trường sang các thị trường quan trọng như EU, Nhật, ASEAN… Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 15 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Đặc biệt là việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã mở ra một thị trường đầy tiềm năng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Về chính sách mặt hàng: Nhà nước bắt đầu chú ý đến việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo mọi điều kiện đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu tối đa các mặt hàng chủ lực như dầu thô, dệt may, thuỷ sản, gạo, cà phê, giày dép, cao su, hạt điều, than đá, thủ công mỹ nghệ; đồng thời khuyến khích mở rộng thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới như rau, hoa quả, thịt, hàng chế tạo cơ khí, hàng điện tử – tin học…vào các thị trường truyền thống như Liên bang Nga, cộng đồng các quốc gia độc lập SNG, Đông Âu và khu vực, nhằm tạo cơ sở vững chắc cho tăng trưởng xuất khẩu. Đối với những loại vật tư hàng hoá được đáp ứng chủ yếu từ nguồn sản xuất trong nước như thép xây dựng, xi măng đen các loại, giấy viết, giấy trong và giấy bao bì, đường kính, giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính và các bộ sản xuất, Bộ Thương mại xác định nhu cầu nhập khẩu bổ sung và xây dựng quy chế điều hành theo nguyên tắc: chỉ nhập khẩu những vật tư, hàng hoá với chủng loại, quy cách sản phẩm trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu. Đối với loại trong nước chưa sản xuất, sẽ điều tiết chủ yếu bằng thuế. Hàng tiêu dùng nhập khẩu sẽ điều tiết chủ yếu bằng thuế và có điểm mới là các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng phải cân đối ngoại tệ từ nguồn thu của mình do xuất khẩu hoặc hoạt động dịch vụ mang lại. Đối với hàng quản lý chuyên ngành, sẽ rà soát để xử lý theo hướng giảm hơn nữa danh mục và số lượng nhập khẩu. Đồng thời tiếp tục đề nghị tăng thêm phụ thu đối với một số mặt hàng như đò điện gia dụng, trái cây tươi, khô, mỹ phẩm… Ngoài các chính sách chung, có chính sách và cơ chế điều hành tiêng cho từng nhóm mặt hàng tuỳ theo đặc điểm của từng loại: Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 16 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây - Loại có thị trường tiêu thụ và có năng lực sản xuất trong nước được tập trung ưu tiên khai thác hết tiềm năng cho sản xuất; đặc biệt lưu ý trước hết đến các mặt hàng có kim ngạch lớn, thu hút nhiều lao động và có thể đẩy nhanh được xuất khẩu như hàng dệt và may mặc, giày dép, thủy hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ… Chính sách chủ yếu đối với các mặt hàng này là đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm … để một mặt củng cố vị thế ở các thị trường truyền thống, mặt khác rất quan trọng là để tiếp cận và mở rộng xuất khẩu vào các thị trường không hạn ngạch và các thị trường mới cũng có những lợi thế so sánh. - Loại có thị trường tiêu thụ nhưng năng lực sản xuất trong nước có hạn như gạo, dầu thô, cà phê…sẽ được tăng cường chính sách tiếp thị để nắm chắc giá cả trong nước và trên thế giới, đồng thời nghiên cứu chính sách đầu tư chế biến linh hoạt để tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm qua chế biến, thu lại giá trị xuất khẩu cao hơn. - Loại có năng lực sản xuất trong nước dồi dào nhưng còn thiếu “đầu ra” do chưa tìm thấy thị trường hoặc do chủng loại, chất lượng chưa phù hợp hoặc do phương thức thanh toán còn khó khăn, như lạc, dệt may, giày dép, thuỷ hải sản, thịt chế biến, rau quả… sẽ cố gắng tìm thị trường, đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng và tăng cường đàm phán ở các cấp có thẩm quyền để cải thiện các thủ tục thanh toán hoặc áp dụng rộng hình thức hàng đổi hàng… Chính sách khuyến khích mở rộng thị trường và mặt hàng được ban hành: Quyết định 746/QĐ-TTg ngày 24/08/1998 về lập quỹ thưởng xuất khẩu. Theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Thương mại, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thành tích xuất khẩu xuất sắc, hiệu quả cao, đều được xét khen thưởng. Các tiêu chuẩn cụ thể để xét khen thưởng được quy định cho các doanh nghiệp lần đầu tiên xuất khẩu những sản phẩm sản xuất trong nước hoặc xuất sang các thị trường hoàn toàn mới mà có hiệu Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 17 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây quả; các doanh nghiệp mở rộng được thị trường truyền thống hoặc thị trường mới với những mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá khuyến khích xuất khẩu, có hiệu quả, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên 20%/năm; các mặt hàng xuất khẩu đạt chất lượng cao được quốc tế công nhận; các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu từ 10 triệu USD/năm trở lên đối với xuất khẩu hàng gia công chế biến bằng nguyên vật liệu trong nước chiếm từ 60% trở lên hoặc mặt hàng sản xuất trong nước thu hút nhiều lao động, như hàng thủ công mỹ nghệ, nông, lâm, thuỷ, hải sản chế biến, hàng may mặc không hạn ngạch; có kim ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng ngoài kim ngạch hoặc ngoài chỉ tiêu được phân từ 50 triệu USD/năm trở lên… Ngoài ra, Nhà nước sẽ dành một phần thích đáng cho các doanh nghiệp có thành tích xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường không hạn ngạch hoặc xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng phần lớn các nguyên, phụ liệu trong nước. Đối với các mặt hàng nhập khẩu còn quản lý giấy phép, nói chung, Nhà nước ưu tiên phân cho các doanh nghiệp có xuất khẩu để khích lệ họ đẩy mạnh xuất khẩu, gắn xuất khẩu với nhập khẩu. Mặt khác đề nghị thực hiện phụ thu và điều chỉnh mức phụ thu theo sự biến động của thị trường thế giới và dùng nguồn thu này để góp phần hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp có thành tích cao hoặc có nhiều nỗ lực để xuất khẩu được mặt hàng mới hoặc mở thêm được thị trường mới. 2.3. Thuế xuất, nhập khẩu có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện hơn. Thuế là một vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm chú ý. Trong những năm qua, đi đôi với việc sửa đổi cơ chế quản lý ngoại tệ, xây dựng một chính sách tỷ giá thích hợp, chính sách thuế xuất nhập khẩu cũng được hết sức quan tâm. Hàng loạt những thay đổi, những quy định mới đã được đưa ra để dần hoàn thiện theo hướng mở cửa, dần hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Cụ thể như: lập lại danh mục hàng hoá theo cách phân Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 18 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây loại của thị trường quốc tế; quy định rõ những hàng hoá cấm nhập, cấm xuất, những hàng hoá xuất nhập khẩu phải quản lý bằng hạn ngạch và các biện pháp hành chính khác; dùng thuế làm công cụ chính để điều tiết xuất nhập khẩu. Thuế suất được xây dựng tuỳ thuộc vào mức độ khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu, vào mức chênh lệch giữa giá cả quốc tế với giá cả trong nước. Thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý đối với sản xuất trong nước. Quy chế ban hành thuế suất được thay đổi để có thể điều chỉnh kịp thời theo những biến động của thị trường. Công tác hải quan cũng được tăng cường, phối hợp với các Bộ ngành và với các nước có chung biên giới để chống buôn lậu, áp dụng biện pháp truy thu thuế đối với hàng ngoại trốn thuế nhập khẩu lưu thông trong nội địa. Về chính sách cụ thể nhằm đổi mới và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI có nêu rõ: “Sửa đổi thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu được thuân lợi, kịp thời. Nhà nước thu thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có hiệu suất thu ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá đối với một số mặt hàng khác… Ban hành chính sách thuế đối với hàng nhập khẩu theo hướng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng thiết bị, hạn chế việc nhập hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được”. Đối với thuế xuất nhập khẩu, ở Việt Nam từ năm 1979 với mười mức thuế suất đối với 12 mặt hàng xuất khẩu và 28 mức thuế suất đối với mặt hàng nhập khẩu hình thành nên một hệ thống thuế xuất nhập khẩu phức tạp, khó quản lý về mặt vĩ mô. Luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam được ban hành vào năm 1987 và đã sửa đổi hoàn thiện 3 lần vào các năm 1991,1993 và 1998. Nhưng thực chất Luật thuế ban hành năm 1987 đã được thay thế gần như toàn bộ bằng Luật Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 19 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây thuế năm 1991 với lý do quan hệ thương mại của thời điểm này khác hoàn toàn so với năm 1987. Lĩnh vực hoạt động buôn bán với các nước có chung biên giới cũng được quy định cụ thể. Quyết định số 78/TTg ngày 28/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định chấn chỉnh việc quản lý tình hình buôn bán giữa Việt Nam với các nước có chung biên giới, thực hiện theo đúng Hiệp định thương mại đã ký kết với các nước và tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt trong tình hình kinh tế mới, để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, ngày 08/08/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/1998/QĐ-TTg sửa đổi chế độ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiểu ngạch. Quyết định này bãi bỏ chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch quy định tại Quyết định số 115/HĐBT ngày 09/02/1992 của Hội đồng Bộ trưởng, áp dụng chế độ thuế hàng hoá xuất nhập khẩu chính ngạch đối với hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch để thống nhất chế độ thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu; quản lý tốt hơn hoạt động xuất nhập khẩu. Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu cũng được lập lại cụ thể hơn, hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình mới, với tiến trình hội nhập kinh tế. Năm 1992 theo Quyết định số 172/TCTK-QĐ ngày 01/1/1992, Tổng cục Thống kê đã ban hành Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam trên cơ sở hệ thống điều hoà (HS) của Hội đồng hợp tác Hải quan thế giới (CCC). Trong bảng danh mục này, hàng hoá được phân theo phần, chương, nhóm, phân nhóm và mặt hàng đến cấp mã 6 chữ số. Kể từ khi ban hành, bảng danh mục đã phục vụ có kết quả cho nhiều mục đích trong đó có công tác xuất nhập khẩu. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động thương mại quốc tế nước ta trong quá trình đổi mới và việc nước ta trở thành thành viên ASEAN, danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta cũng đã được hoàn thiện thêm và phân loại chi tiết hơn. Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Văn bản số 5469/KHTH ngày 29/09/1995), Tổng cục Thống kê cùng với Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng