VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------------------------
VŨ VĂN LĂNG
MỘT SỐ TÁC PHẦM CỦA NAM CAO
DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA
PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN
VÀ DỤNG HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2013
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------------------------
VŨ VĂN LĂNG
MỘT SỐ TÁC PHẦM CỦA NAM CAO
DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA
PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN
VÀ DỤNG HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học ứng dụng
Mã số:
62.22.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
GS TS Diệp quang Ban
HÀ NỘI – 2013
Ý KIẾN NGƯỜI HƯỚNG DẪN
Kính đề nghị cho phép nghiên cứu sinh bảo vệ luận án
trước hội đồng.
Tôi đồng ý cho nghiên cứu sinh bảo vệ.
Người hướng dẫn
Ngày
tháng năm 2013
GSTS: Diệp Quang Ban
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
VŨ VĂN LĂNG
MỤC LỤC
Số mục
Đề mục
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1
2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
4
3.
Phạm vi và đối tượng khảo sát
7
Phạm vi các vấn đề được khảo sát
7
3.1.
3.1.1. Một số vấn đề thuộc cơ sở lí thuyết của Dụng học
8
3.1.2. Một số vấn đề thuộc cơ sở lí thuyết của Phân tích diễn
9
ngôn
3.2. Đối tượng khảo sát
10
3.2.1. Về việc chọn ngôn ngữ văn chương của Nam Cao
10
3.2.2. Về việc chọn truyện ngắn Chí Phèo và tiểu thuyết Sống
11
mòn
3.2.3. Một số nhận định của giới nghiên cứu văn học
4.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
12
15
17
5.1. Phương pháp Phân tích hội thoại
17
5.2.
Phương pháp của Phân tích diễn ngôn
18
6.
Giả thuyết nghiên cứu
18
7.
Điểm mới của luận án
20
Bố cục của luận án
20
8.
-i-
Chương 1
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN VÀ DỤNG HỌC
1.1. Phương pháp nghiên cứu của PTDN
3
21
21
1.1.1. Vài nét về quá trình hình thành PTDN
21
1.1.2.
23
Về các đề tài và vấn đề là đối tượng của PTDN
1.1.3. Một số cách tiếp cận của PTDN
25
1.1.4.
30
1.2.
Phương pháp nghiên cứu của PTDN phê bình
Phương pháp nghiên cứu của Dụng học
35
5
V
1.2.2.
Vấn đề “phương pháp luận” trong DH
ề
c
á
c
đ
ề
t
à
i
v
à
v
ấ
n
đ
ề
l
à
đ
ố
i
t
ư
ợ
n
- ii -
35
g
c
ủ
a
D
ụ
n
g
h
ọ
c
1
.
2
.
1
.
1.2.3.
1.3.
Các cách tiếp cận “phối cảnh” trong DH
37
Mối quan hệ giữa Phương pháp nghiên cứu của
44
PTDN và của DH
Tiểu kết Chương 1
47
Chương 2:
TRUYỆN CHÍ PHÈO TỪ CÁCH TIẾP CẬN
2.1.
CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN VÀ DỤNG HỌC
Bố cục chung của truyện Chí Phèo: truyện bắt đầu
49
49
2.2.
từ đâu?
Bảy ngày đêm cuối cùng trong cuộc đời của Chí Phèo
56
2.3.
60
Quan
hệ thời
gian
tần số
trong
truyện
- iii -
ngắn
Chí
Phèo
2.4. Nhân vật và tầm quan trọng của các nhân vật trong
Chí Phèo
2.4.1. Mạng lưới nhân vật và quan hệ giữa các nhân vật
64
64
2.4.2. Bậc của tầm quan trọng của các nhân vật và cách đánh
64
dấu chúng để phân tích
2.5. Mô hình cấu trúc chung trong cách tổ chức một số
67
2.5.1.
nhân vật trực tiếp liên quan đến lí/ bá Kiến
Về nhóm nhân vật thuộc giai đoạn ông Kiến làm lí
67
2.5.2.
trưởng
Về nhóm nhân vật thuộc giai đoạn ông Kiến làm bá hộ
69
2.5.3. Đối chiếu tổng quát đặc trưng của từng đôi nhân vật
2.6.
71
Phân tích lập luận trong truyện Chí Phèo
75
2.6.1.
Lập luận trong các cuộc đối nhau của Chí Phèo bá
75
2.6.2.
Kiến
Lập luận của bà đội Tảo
80
Phân tích cách dùng ngôn ngữ của Nam Cao trong Chí
82
2.7.1.
Phèo
Phân tích về việc có dùng/ không dùng quan hệ từ
82
2.7.2.
Phân tích về việc sắp xếp trật tự từ ngữ trong chuỗi
84
2.7.3.
liệt kê
Phân tích về cách viết câu
85
2.7.4.
Nhận xét về những cách dùng ngôn ngữ trên đây
86
Một số dấu hiệu kí hiệu học xã hội trong truyện Chí
87
2.7.
2.8.
Phèo
2.8.1. Tệ “mua quan bán chức”
88
2.8.2. Tệ “hối lộ”
88
2.8.3. Tệ “vu oan giá hoạ”
88
2.8.4.
89
Tệ “đa thê”
- iv -
2.8.5.
Tệ “ghen tuông”
89
2.8.6.
Tệ tảo hôn
89
2.8.7.
Tục “quyền huynh thế phụ”
90
2.8.8.
Một số dấu hiệu kí hiệu học liên quan cách nhìn của
90
tác giả
Tiểu kết Chương 2
93
Chương 3:
TIỂU THUYẾT SỐNG MÒN TỪ CÁCH TIẾP CẬN
CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN VÀ DỤNG HỌC
3.1. Bố cục của Sống mòn và quan hệ thời gian trong
95
95
3.1.1.
truyện
Về tuyến thời gian gắn với nhân vật Thứ trong quan
96
3.1.2.
hệ với tuyến thời gian thể hiện trong truyện kể
Đối chiếu tuyến thời gian trong cuộc đời của Thứ với
trình tự thời gian được thể hiện trong truyện kể
3.1.3. Một số thời điểm cần xác định trong khoảng thời gian
102
Thứ có vợ và dạy học tại trường của Đích
3.2. Truyện kể trong Sống mòn bắt đầu từ đâu và kết
103
thúc ở đâu?
3.3. Các lớp nhân vật trong Sống mòn
105
106
3.3.1. Sơ bộ về lớp xã hội
106
3.3.2. Phân định các lớp xã hội trong Sống mòn
107
3.3.3.
Tổng kết năm lớp nhân vật trong Sống mòn
119
Tính cách của Thứ – nhân vật chính
110
3.4.1.
Chí tiến thủ và lí tưởng của Thứ
111
3.4.2.
Lòng vị tha trong cách nhìn người của Thứ
114
3.4.3.
Vài biểu hiện tiêu cực ở Thứ
115
3.4.
-v-
3.5.
117
Một số
lập
luận
trong
Sống
mòn
3.5.1.
3.5.2.
3.6.
Lập luận trong các cuộc bàn luận về việc học
117
Lập luận trong các cuộc bàn luận về quan hệ nam nữ
120
Phân tích cách dùng ngôn ngữ của Nam Cao
trong Sống mòn
132
3.7.
141
Một số
dấu
hiệu kí
hiệu
học xã
hội
trong
Sống
mòn
3.7.1.
Tệ “mua quan bán chức”
141
3.7.2.
Tệ “đa thê”
141
3.7.3.
Tệ “ghen tuông”
142
3.7.4.
Tệ “mê tín dị đoan”
142
3.7.5.
Tục “vợ không giá thú”
143
3.7.6.
Cho con đi học là làm một việc buôn bán
143
3.7.7.
Một số dấu hiệu liên quan cách nhìn của tác giả
143
Tiểu kết Chương 3
144
DANH
151
- vi -
MỤC
CÔNG
TRÌNH
NGHIÊ
N CỨU
CỦA
NGHIÊ
N CỨU
SINH
TÀI
LIỆ
U
TH
AM
KH
ẢO
1
5
2
- vii -
TỪ VIẾT TẮT
DH: Dụng học
PTDN: Phân tích diễn ngôn
PTDNPB: Phân tích diễn ngôn phê bình
DANH MỤC BẢNG BIỂU
HÌNH 2.1: Sơ đồ mạng lưới và quan hệ của các nhân vật trong
- viii -
Chí Phèo, tr. 64.
BẢNG 2.1: Sơ đồ trực quan về các bậc quan hệ và các nhân vật
hữu quan, tr. 66-67.
BẢNG 3.1. Đối chiếu các khoảng thời gian trong cuộc đời của
Thứ, tr. 102-103.
BẢNG 3.2. Tổng số thời gian của cuộc đời Thứ trong truyện, tr.
105.
BẢNG 3.3. Các lớp nhân vật trong Sống mòn, tr. 109-110.
- ix -
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đề tài luận án này thuộc loại ứng dụng các kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học vào việc phân tích ngữ liệu văn chương. Hướng nghiên cứu này
đang được quan tâm trên thế giới, ở Việt Nam nó cũng đã được thực hiện trên
một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ với những đề tài cụ thể khác nhau.
Đối với luận án này, lí do chọn đề tài này là sự chuyển hướng trong
ngôn ngữ học và trong nghiên cứu văn học trong những thập kỉ gần đây.
1.1. Sự chuyển hướng trong nghiên cứu ngôn ngữ học
Trong tiến trình lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học từ đầu thế kỉ XX đến
nay có một sự thực là các kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học thường được
chuyển dùng vào một số ngành khoa học xã hội khác, và trước hết và gần gũi
hơn cả là chuyển dùng vào việc nghiên cứu văn học. Mấy mươi năm cuối thế
kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, ngôn ngữ học chuyển sang lĩnh vực mới là nghiên
cứu ngôn ngữ trong sử dụng. Các kết quả nổi bật của giai đoạn mới này một
bên là Dụng học (Pragmatics), và gần như đồng thời là Phân tích diễn ngôn
(Discourse Analysis) và tiếp theo là Phân tích diễn ngôn phê bình (Critical
Discourse Analysis). Các môn học mới này cùng một lúc tác động mạnh mẽ
đến văn học, nhất là trong việc phân tích ngôn ngữ văn chương. Đường
hướng của Phê bình ngôn ngữ học là ứng dụng các kết quả của Dụng học và
thái độ phê bình mác-xít vào việc phân tích tác phẩm văn chương, để tìm đến
cách nhìn của tác giả tồn tại trong tác phẩm (diễn ngôn). Người ta cho rằng
trong mọi diễn ngôn nghiêm chỉnh đều có thể truy đến cái ngọn nguồn ý thức
hệ của nó (đối với ngôn ngữ văn chương thì đó là cái ngầm ẩn đằng sau
những lời lẽ mang tính nghệ thuật, như là lớp “nguỵ trang” của ý thức hệ đó).
Trong công trình nghiên cứu này chúng tôi chỉ dừng lại ở các cách nhìn cụ
thể của tác giả, không nâng lên thành ý thức hệ, vì qua một vài trường hợp cụ
thể chưa thể khẳng định cả một khuynh hướng chung.
-1-
Mục tiêu mà các kết quả mới của ngôn ngữ học hướng đến kể từ sau
cấu trúc luận và kí hiệu học, tức là vài ba thập kỉ cuối thế kỉ XX đến nay, có
thể thấy được một cách khái quát trong cách chuyển trọng tâm của cách nhìn
đối tượng được nghiên cứu: Từ việc tìm hiểu ‘ngôn ngữ là cái gì’ (‘what
language is’) trong nửa đầu thế kỉ XX, tức là tìm hiểu chính bản thân hệ
thống ngôn ngữ, điều mà thế kỉ XIX chưa làm được, chuyển sang giải thích
‘ngôn ngữ là để làm gì’ (‘why language is’), nhằm tìm biết ý định của người
dùng ngôn ngữ và bằng cách dùng ngôn ngữ, để đạt được ý định đó.
1.2. Sự chuyển hướng trong nghiên cứu văn học
Trước hết, tại Việt Nam, có thể nêu một nhận xét khái quát rằng việc
nghiên cứu các tác phẩm văn chương từ giác độ phê bình văn học, từ nửa đầu
thế kỉ XX trở về trước nhìn chung, thường chỉ được quan tâm theo kiểu đóng
kín, với cách nhìn tác phẩm văn học như là một sản phẩm tự trọn vẹn (total)
trong bản thân nó. Thế nhưng có một tình hình ngược lại, các phương pháp
nghiên cứu văn học nói chung trên bình diện thế giới, trong đó có phê bình
văn học, đã từng chấp nhận các ảnh hưởng tích cực từ các kết quả nghiên cứu
của ngôn ngữ học, rõ nhất là các kết quả của cấu trúc luận ngôn ngữ học và
kí hiệu học trong giai đoạn từ những năm 60 thế kỉ trước cho đến nay (trong
văn học). Và gần đây người ta đã nói đến sự nối kết giữa ngôn ngữ học và
văn học thông qua Phê bình ngôn ngữ học (đặt trong quan hệ với tên gọi
quen thuộc Phê bình văn học vốn có từ lâu) [10, tr. 1-10].
Cách ngôn ngữ học tìm hiểu ngôn ngữ theo hướng chuyển sang giải
thích ‘ngôn ngữ là để làm gì’ (như nói trên), với sự quan tâm đến “ý định”
và “cách sử dụng ngôn ngữ như thế nào” để đạt được ý định đó của người
dùng ngôn ngữ có một hệ quả quan trọng đối với việc nghiên cứu diễn ngôn,
kể cả diễn ngôn nghệ thuật, nó gợi ra một sự chuyển biến theo hướng nghiên
cứu không phải chủ yếu là tìm hiểu ‘đúng là diễn ngôn có ý nghĩa gì’ (‘just
in what discourse means’), mà tìm hiểu xem ‘diễn ngôn có ý nghĩa đó bằng
cách nào’ (hay ‘có ý nghĩa như thế nào’— ‘how discourse means’).
-2-
Hướng nghiên cứu này khiến người phê bình phải chứng minh nhận xét
của mình bằng những chứng cứ có mặt hoặc có thể suy diễn (discursive) được
từ ngữ liệu cụ thể, cùng với sự quan tâm thích đáng đến ngữ cảnh tình huống
(context of situation) về phương diện vật lí (không gian, thời gian, đồ vật...)
và về xã hội-văn hoá (tính cộng đồng, tập tục, thể chế...).
Để làm rõ hơn sự chuyển biến kể trên, nếu nhắc lại phê bình văn học
trong giai đoạn trước để đối chiếu, có thể nhận ra rằng việc phê bình thời ấy
chủ yếu căn cứ vào các “ý” được diễn đạt sẵn trong tác phẩm qua các từ, các
câu, các đoạn v.v..., mà chưa đặt ra vấn đề các ý đó được tác giả của chúng
diễn đạt như thế nào (bằng từ ngữ nào, kiểu câu như thế nào, v.v... để đạt
được hiệu quả diễn đạt theo như ý của tác giả đó, trong khi chúng có thể được
diễn đạt bằng những cách khác nhau). Phê bình trong văn học thời đó thường
phải là người giàu kinh nghiệm đến mức có thể dùng “trực giác” đã có thể
“cảm thụ” được các ý nằm sâu bên trong và bên dưới câu chữ của diễn ngôn.
Phân tích diễn ngôn (PTDN) và dụng học (DH) không phủ định cách làm việc
đó, mà chỉ bổ sung cách phân tích việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả bằng
một số thao tác có thể là đủ tin cậy, để tìm đến cách nhìn con người, nhìn thế
giới, tìm đến quan điểm của tác giả. Tóm lại, PTDN và DH thiên về cách tìm
chứng cứ ngôn từ trong cách dùng ngôn ngữ của tác giả để nhận ra thái độ
của tác giả, qua đó tìm đến những bài học sử dụng ngôn ngữ cụ thể từ tác giả.
Cái mới của luận án là ở các thủ pháp phân tích và các kết quả phân
tích. Ý nghĩa của thủ pháp phân tích là tính khả thi của việc sử dụng hướng
nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại vào nghiên cứu ngôn ngữ văn chương. Ý
nghĩa của các kết quả phân tích, ngoài những điểm mới, rõ nhất là bằng
phương pháp nghiên cứu mới này có thể góp phần khẳng định các nhận định
đã có một cách có cơ sở; và như vậy cũng là góp thêm vào phương pháp
phân tích tác phẩm văn chương một luồng gió mới từ phía ngôn ngữ học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu (lịch sử nghiên cứu)
-3-
Các công trình nghiên cứu, nhìn chung, được chia khái quát thành hai
loại: nghiên cứu lí thuyết và nghiên cứu ứng dụng.
2.1. Các công trình nghiên cứu lí thuyết có nguồn gốc từ nước ngoài
Về PTDN và DH, các công trình nghiên cứu lí thuyết ở nước ngoài đã
khá nhiều, không dễ kiểm điểm lại được. Mặt khác các công trinh có tính chất
cốt lõi của hai lí thuyết này cũng đã được du nhập vào Việt Nam từ những
thập niên cuối thế kỉ XX dưới hình thức giới thiệu phần lí thuyết bằng tiếng
Việt và dịch sang tiếng Việt. Như vậy, đề cho gọn (có phần do sự khống chế
về số trang dành cho một luận án), chúng tôi xin điểm diện một số công trình
lí thuyết tiêu biểu của hai hướng nghiên cứu này đã được giới thiệu bằng
tiếng Việt tại Việt Nam.
2.1.1. Công trình nghiên cứu lí thuyết DH bằng tiếng Việt ở Việt Nam
Các công trình giới thiệu về lí thuyết DH tại Việt Nam có thể dễ tiếp
cận, đã được chúng tôi đưa vào danh sách TÀI LIỆU THAM KHẢO cuối
sách. Để khỏi lặp lại, ở đây chúng tôi xin dẫn các tài liệu chính gồm có các số
đặt trong ngoặc vuông sau đây của TÀI LIỆU THAM KHẢO (không dẫn tên
tài liệu đầy đủ):
a. Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán (1993), số [14]; Đỗ Hữu Châu
(2000) số [15] và (2001) số [16].
b. Nguyễn Đức Dân (1996), số [19] và (1998), số [20].
c. Hoàng Phê (1989 và in lại 2003), số [62].
d. Yule G. Dụng học (1996), dịch Việt và in 2002, số [89]
2.1.2. Công trình nghiên cứu phương pháp PTDN bằng tiếng Việt
Các công trình bàn về PTDN tại Việt Nam có thể dễ tiếp cận, gồm:
a. Diệp Quang Ban, (2002), số [5], (2009, in lại 2012), số [9].
b. Brown G. – Yule G. Phân tích diễn ngôn (Dịch Việt của Trần Thuần
2002), số [13].
c. Nguyễn Hoà, (2003), số [35], và (2006) số [36].
-4-
d. Nunan D., Dẫn nhập Phân tích diễn ngôn (Dịch Việt của Hồ Mỹ
Huyền và Trúc Thanh, Diệp Quang Ban hiệu đính, 1997, số [61].
e. Trần Ngọc Thêm (1985, in lần hai 1999, số [72], (1996) số 73] và
(1996), số [74]. (1) Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nxb Khoa học xã
hội. Hà Nội (in lần thứ hai 1999. Nxb Giáo dục).
2.2. Về công trình nghiên cứu ứng dụng về DH và PTDN ở Việt Nam
Các nội dung lí thuyết về DH và về PTDN được nhanh chóng ứng dụng
vào việc nghiên cứu ngữ liệu tiếng Việt và ngữ liệu đối chiếu Việt ngữ-ngoại
ngữ, với tư cách các công trình nghiên cứu bậc tiến sĩ và thạc sĩ. Tuy chỉ vài
chục năm lại đây, nhưng số công trình nghiên cứu bậc tiến sĩ và thạc sĩ đã lớn
đến mức khó kiểm soát hết được, trong đó có một thực tế là số đơn vị là cơ sở
đào tạo tiến sĩ và thạc sĩ trong nước mỗi năm một tăng.
Vì lẽ đó, sau đây chúng tôi chỉ nêu định hướng chung của việc nghiên
cứu DH và PTDN trong một số công trình nghiên cứu đã có.
2.2.1. Về công trình nghiên cứu ứng dụng DH ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu bậc tiến sĩ và thạc sĩ chung quanh các vấn
đề về Dụng học của ngôn ngữ Việt và đối chiếu tiếng Việt với tiếng nước
ngoài (nhiều nhất là tiếng Anh) đến nay đã đạt đến số lượng không kiểm soát
hết được. Vì lí thuyết DH không phải là nội dung chính của luận án này,
chúng tôi xin liệt kê một số nội dung thường được nhắc đến sau đây.
- Trước hết là về các tiểu từ tình thái của tiếng Việt, đây là một lĩnh
vực có thể nói là cực kì phức tạp của tiếng Việt, bởi số lượng của chúng
không nhỏ, ý nghĩa của chúng khá mơ hồ mà lại có tầm quan trọng không thể
không tính đến trong giao tiếp. Không ít khi một lời nói vi phạm tính lịch sự
chỉ vì dùng tiểu từ tình thái không thích hợp.
- Về các kiểu câu phân loại theo mục đích nói tiếng Việt và cách sử
dụng chúng, đáng chú ý nhiều nhất là kiểu câu nghi vấn, tiếp theo là kiểu câu
cầu khiến, vì hai kiểu câu này liên quan đến đối tác theo kiểu trực tiếp giữa
người tạo lời với người nhận lời, đồng thời lại thêm tính trực tiếp về thời gian
-5-
và không gian giao tiếp. Kiểu câu nghi vấn, cầu khiến, có lẽ một phần do tính
trực tiếp vừa nói, cũng là đối tượng được nghiên cứu khá nhiều trong các
công trình nghiên cứu đối chiếu tiếng Việt – ngoại ngữ.
- Về kiểu câu phủ định và cách sử dụng, chúng cũng xuất hiện khá
nhiều trong lĩnh vực đối chiếu Việt – ngoại ngữ.
- Về hành động nói trong một số lĩnh vực thuộc đời sống xã hội, như
mua bán ở chợ, lời khen, lời chê thu hút chú ý của nhiều công trình nghiên
cứu trong nhiều năm gần đây.
- Về hành động nói thuộc phạm trù liên nhân, như chào, cảm ơn, xin
lỗi, chủ yếu được nghiên cứu theo cách đối chiếu tiếng Việt và ngoại ngữ.
2.2.2. Về công trình nghiên cứu ứng dụng PTDN ở Việt Nam
Về PTDN, số lượng công trình nghiên cứu bậc tiến sĩ và thạc sĩ chưa
nhiều bằng về DH, nhưng trên thực tế cũng đã đến mức khó kiểm soát được.
Để dễ hình dung về tình hình nghiên cứu PTDN nói chung, trước hết có thể
liệt kê một số nội dung thường được đề cập liên quan đến PTDN như sau:
- Những vấn đề về liên kết và mạch lạc trong văn bản.
- Những vấn đề về quan hệ thời gian, quan hệ nguyên nhân trong tác
phẩm văn chương.
- Những vấn đề về lập luận trong các diễn ngôn nghị luận và phần nào
trong tác phẩm văn chương.
- Những vấn đề trong ngôn ngữ “thể chế”, cụ thể là trong một số kiểu
văn bản hành chính-công vụ, thương mại...
- Những vấn đề về quan điểm giới tính trong sử dụng ngôn ngữ.
- Những vấn đề liên quan đến sự phân biệt ngôn ngữ nói/ ngôn ngữ viết.
Số luận án tiến sĩ trong nước được thực hiện theo hướng của PTDN mà
chúng tôi tiếp cận được, gồm có:
(1) Phan Thị Ai 2011, Những vấn đề về mạch lạc văn bản trong bài
làm văn của học sinh phổ thông.
-6-
(2) Trần Thị Vân Anh 2008, Mạch lạc trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du.
(3) Trần Xuân Điệp 2002, Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ qua cứ
liệu tiếng Anh và tiếng Việt.
(4) Nguyễn Thị Hà 2010. Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn bản quản
lí nhà nước qua phương pháp phân tích diễn ngôn. (PTDN ngôn ngữ thể chế)
(5) Võ Lí Hoà 2004, Tìm hiểu văn bản tóm tắt và phương pháp tóm tắt văn
bản.
(6) Hổ Mỹ Huyền 2007, Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
(7) Nguyễn Thị Hường 2010, Tìm hiểu một số kiểu mạch lạc trong các
thể loại văn bản hành chính-công vụ. (PTDN ngôn ngữ thể chế)
(8) Lương Đình Khánh 2007, Phương thức liên kết nối và quan hệ
nghĩa giữa các phát ngôn.
(9) Bùi văn Năm 2010, So sánh phương thức nối trong văn bản tiếng
Việt và tiếng Anh.
(10) Nguyễn Thị Việt Thanh 1997, Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt.
(11) Nguyễn Phú Thọ 2008, So sánh các biện pháp liên kết từ vựng
trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh.
(12) Nguyễn Xuân Thơm 2001, Các yếu tố ngôn ngữ trong đàm phán
thương mại quốc tế (Anh-Việt đối chiếu)
(13) Phạm Văn Tình 2001, Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược
trong văn bản liên kết tiếng Việt.
(14) Hồ Ngọc Trung 2010, Phép thế trong tiếng Anh (trong sự liên hệ
với tiếng Việt).
Nhìn tổng quát, các công trình nghiên cứu trên quan tâm chưa được
nhiều đến cách sử dụng ngôn ngữ trong các phong cách chức năng khác nhau.
3. Phạm vi và đối tượng khảo sát
3.1. Phạm vi các vấn đề được khảo sát
-7-
- Xem thêm -