Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số phương pháp giảng dạy thơ đường trong chương trình ngữ văn lớp 7 trong t...

Tài liệu Một số phương pháp giảng dạy thơ đường trong chương trình ngữ văn lớp 7 trong trường thcs

.DOC
24
176
99

Mô tả:

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tính thiết yếu trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ bão cho nên đôi lúc con người có thể bị cuốn theo những tri thức khoa học mà quên đi cảm xúc đời thường. Những lúc như vậy môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người những tình cảm nhân văn để con người tìm đến với con người, để trái tim hòa cùng nhịp đập với trái tim. Không chỉ thế học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống. Muốn vậy, mỗi giáo viên phải có phương pháp dạy học phù hợp với từng bộ môn nhằm nâng cao trình độ kiến thức cho học sinh, đặt cơ sở vững chắc cho các em tiến lên cấp học cao hơn. Đối với môn Ngữ văn sau khi đổi mới và thực hiện đồng bộ trên cả nước, phần lớn giáo viên văn không khỏi băn khoăn, trăn trở, đang từng ngày từng giờ mày mò và tìm kiếm cho mình một phương pháp dạy học phù hợp, hấp dẫn cho từng kiểu bài, cho từng thể loại. 1 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Ở chương trình ngữ văn 7 học sinh được tìm hiểu một số bài thơ Đường (của tác giả Việt Nam và Trung Quốc). Đây cũng là phần văn học chiếm vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn 7. Song khi thực hiện giảng dạy tôi thấy học sinh gặp không ít khó khăn trong việc tiếp nhận tri thức. Khó khăn thứ nhất mà các em gặp phải đó là hệ thống ngôn ngữ. các bài thơ Đường luật ngôn ngữ dùng với nhiều hình ảnh: ước lệ, tượng trưng, điển cố, điển tích, từ ngữ Hán Việt ... rất xa lạ với học sinh THCS. Khó khăn thứ hai mà tôi nhận thấy đó là những bài thơ Đường luật có yêu cầu rất nghiêm ngặt về niêm luật, đối, vần, bố cục... chính vì thế đòi hỏi học sinh phải nắm chắc những quy định đó một cách tương đối thuần thục thì mới có thể hiểu hết được nội dung, ý nghĩa của bài thơ mà tác giả muốn gửi gắm vào đó. Khó khăn tiếp theo về khoảng cách thời gian. Có những bài thơ của các tác giả Trung Quốc cách xa hàng mười mấy thế kỷ. Mà khoảng cách về thời gian luôn có sự khác biệt về tư tưởng, lối sống... Tất cả những khó khăn trên đều tác động không ít tới việc tiếp cận tác phẩm. Xuất phát từ thực tế trên trong quá trình học tập, giảng dạy, tìm hiểu, nghiên cứu, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài “một số phương pháp giảng dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ văn lớp 7 trong trường THCS.” để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo nhằm rút ra những vấn đề tối ưu nhất vận dụng vào quá trình giảng dạy . 2 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ. Thơ Đường là một thành tựu tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Đây là một bộ phận văn học quan trọng, bao gồm những tác phẩm ưu tú, vượt qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, vừa hiện thực vừa nhân đạo là 3 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] tiếng nói tình cảm thắm thiết, nhân văn cao cả. Tuy nhiên việc xác định nội dung tư tưởng của các bài thơ Đường là một vấn đề rất khó. Trước đây thơ Đường được đưa vào sách giáo khoa văn học 9 không ít Giáo viên và học sinh gặp khó khăn trong việc dạy và học. Sau khi đổi mới chương trình sách giáo khoa, do tinh thần tích hợp với kiểu văn bản biểu cảm, chùm thơ Đường đã được đưa vào dạy ở lớp 7. Khó khăn lại càng khó khăn hơn bởi vì mọi cái đều xa lạ với các em, từ chữ Hán, thi pháp thơ Đường cho đến cả cảm hứng, thi tứ, cảnh và người trong thơ đến trình độ cảm thụ văn bản thơ … Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Dạy thơ Đường như thế nào cho đối tượng 12–13 tuổi đạt kết quả. Từ thực tế đó tôi đã tập trung nghiên cứu và áp dụng trong quá trình giảng dạy để làm sao các em yêu thích và cảm thu, chiếm lĩnh được tác phẩm thơ Đường một cách có hiệu quả cao nhất. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ. a. Thuận lợi: Trong những năm học trước bản thân tôi cũng đã được nhà trường phân công giảng dạy môn ngữ văn 7, Trong năm học này tôi đang trực tiếp giảng dạy ngữ văn của 3 lớp 7: 7a-7b-7c, tôi thấy học sinh của ba lớp có khả năng tiếp thu bài nhanh, một số học sinh có năng khiếu về văn chương. Các em có tinh thần học tập ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi lên lớp. Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ tận 4 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] tình của đồng nghiệp. Tham gia đầy đủ các lớp học chuyên đề để nâng cao trình độ nghiệp vụ theo kịp với xu thế đổi mới của nền giáo dục nước nhà. Hiện nay tài liệu tham khảo nhiều giúp ích rất nhiều trong công tác giảng dạy của giáo viên. Song bên cạnh những thuận lợi đó còn có một số những khó khăn khi tham gia thực hiện đề tài. b. Khó khăn: Như trên tôi đã nói với trình độ nhận thức của học sinh lớp 7 để tiếp cận, chiếm lĩnh nội dung các tác phẩm về thể loại thơ Đường quả là một vấn đề rất khó khăn trong việc tiếp thu khiến thức, chiếm lĩnh tác phẩm. Qua thực tế dự giờ, học hỏi kinh nghiệm, qua các tiết thao giảng khi dạy các bài thơ Đường thấy kết quả chưa cao, một số em thậm chí không nắm được nội dung bài học. Hiện tại môn Ngữ văn đã có tài liệu tham khảo nhưng các trang thiết bị như tranh ảnh …của một số tác phẩm có đoạn trích được học trong sách giáo khoa ở thư viện không có, do đó rất khó khăn cho học sinh hình dung được nội dung của tác phẩm. Hiện nay do xu thế của xã hội nên học sinh xem nhẹ các môn KHXH trong đó có môn Ngữ văn dẫn đến chất lượng học tập không cao. Thấy được những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã cố gắng khắc phục nghiên cứu để ứng dụng những kinh nghiệm mà trong thực tế tôi đã áp dụng và đã thu được những kết quả nhất định trong quá trình giảng dạy. 3. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH.. 5 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Thơ Đường vốn rất xa lạ với học sinh THCS về tư tưởng, về nghệ thuật và về quan điểm thẩm mỹ, tuy nhiên dạy học thơ Đường về đại thể không có gì khác so với dạy học các tác phẩm văn học hiện đại nói chung, vẫn đi theo trình tự các phần các mục của một giờ văn học. Song do tính đặc thù của thơ cổ trong quá trình giảng dạy tôi đã tiến hành một số biện pháp sau: 3.1. Giúp học sinh tiếp cận tốt tác phẩm: Tiếp cận tác phẩm là một bước cực kì quan trọng khi dạy và học một tác phẩm văn chương nói chung và đặc biệt là đối với một bài thơ Đường nói riêng. Bấy lâu nay phần lớn giáo viên chưa chú trọng bước này và nghĩ rằng tiếp cận tác phẩm chỉ là đọc tác phẩm và trả lời các câu hỏi cuối bài. Điều đó chưa đủ khi dạy một bài thơ Đường. Trước khi dạy một bài thơ Đường tôi đã gúp các em tiếp cận tác phẩm bằng các việc làm cụ thể như sau: a. Tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Hiểu được nội dung tác phẩm phải gắn tác giả với một giai đoạn lịch sử nhất định để học sinh dễ dàng nắm bắt được ý tưởng của nhà thơ thông qua thời đại, xã hội mà tác giả sinh sống. Không chỉ có thế bởi thơ là tiếng lòng là tiếng nói của con tim thi nhân nên việc nắm được hoàn cảnh của tác giả, tính cách của tác giả cũng là một việc rất cần thiết để hiểu được nội dung tác phẩm. Vì vậy trong mục này tôi cho học sinh tìm hiểu kỹ phần chú thích ở nhà còn bản thân tôi đọc tài liệu 6 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] thu thập thông tin về tác giả và tác phẩm tổng hợp những ý cơ bản, và dẫn dắc học sinh tiếp nhận thông tin qua phương pháp tái hiện. Bên cạnh đó tôi thu thập các hình ảnh về tác giả, tác phẩm qua mạng intnet , sử dụng poverpoint, trình chiếu trong tiết học gây sự hứng thú , giúp học sinh hình dung được phong thái, tính cách, tâm tư của nhà thơ từ đó tiếp cận nội dung bài thơ một cách dễ dàng. b. Đọc tác phẩm: Phần lớn giáo viên khi dạy thơ Đường chỉ chú ý đến phần dịch thơ và bám vào đó để phân tích (vì phần phiên âm chữ Hán Giáo viên nghĩ là khó nên bỏ qua) . Đọc tác phẩm thơ Đường là phải đọc cả phần phiên âm chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ. Đặc biệt chú đến phần phiên âm chữ Hán vì phần phiên âm này có lúc đã vượt khỏi tầm hiểu biết của học sinh, nhưng dù khó đi chăng nữa việc tìm hiểu kĨ phần phiên âm chữ Hán giúp học sinh bước đầu có cách cảm nhận riêng mà phần dịch thơ không thể thay thế được. Để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, các tác giả dùng những từ ngữ gợi tả hình tượng, màu sắc, đường nét cho nổi hình trước mắt người đọc . Đồng thời mỗi bài thơ là một bản nhạc, nhạc của thanh điệu, vần, luật, tiết tấu, đối…Sự hài hòa về âm điệu, nhịp điệu,sự thống nhất về âm hưởng làm cho bài thơ trở thành một tấm dệt âm thanh tinh xảo tạo nên một khả năng biểu hiện nội dung mạnh mẽ… Vì thế yêu cầu đọc thơ phải “ Vang 7 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] hết lời, rung hết nhạc” giúp các em biết lắng nghe ngôn ngữ nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật ngôn từ, hình thành ở các em nhu cầu cảm nhận, xúc cảm và rung động chân thành trước mỗi cái hay cái đẹp toát ra từ mỗi âm thanh, nhịp điệu, âm hưởng của bài thơ...với mục đích đó khi hướng dẫn đọc tôi hướng dẫn đọc một cách cặn kẽ, hướng dẫn các em đọc sáng tạo, chú ý cách ngắt nhịp, giọng thơ…Sau đó tôi đọc mẫu cả đoạn thơ hoặc một vài câu thơ, cũng có thể cho các em cảm thụ bài thơ qua các giọng đọc của các nghệ sĩ mà mình sưu tầm, thu âm đươc… c. Hiểu nghĩa các yếu tố Hán Việt. Nắm được nghĩa các yếu tố Hán Việt giúp các em bước đầu nắm được nội dung bài thơ. Các phần chú giải văn bản, giải thích từ Hán Việt các điển tích điển cố trong bài thơ chính là phá vỡ hàng rào ngôn ngữ, rút ngắn khoảng cách giữa học sinh và các điều đại lịch sử. Việc nắm chắc nghĩa các yếu tố Hán Việt tạo cơ sở cho học sinh hiểu một cách khái quát nghĩa của từng câu thơ để từ đó hiểu được nội dung tác phẩm cao hơn là học sinh biết vận dụng để giao tiếp phù hợp với văn cảnh. Sách giáo khoa Ngữ văn đã giải nghĩa các yếu tố một cách cơ bản, nhưng với những từ khó hoặc những từ dễ nhầm lẫn, bởi vậy khi lên lớp tôi lấy thêm ví dụ để học sinh dễ hiểu. Sử dụng lời giảng thuật để dẫn dắc học sinh tiếp cận văn bản. Sau khi nắm chắc nghĩa từng yếu tố và nghĩa từng câu. Các em 8 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] phải biết so sánh phân biệt phần dịch thơ với nguyên tác. Bởi vì không phải phần dịch thơ nào cũng đạt tới “mười phân vẹn mười”. Từ đó bước đầu các em cảm nhận được vẽ đẹp của tác phẩm, thấy được nét độc đáo trong tâm hồn, phong cách nghệ thuật của từng câu thơ. Ví dụ: Trong bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” ở câu 1: Quan hệ ý nghĩa giữa hai vế trong câu là quan hệ nhân quả, chủ thể xuyên suốt là mặt trời. Ơ phần dịch thơ, vế sau thành cụm C – V “khói tía bay”, mối quan hệ nhân quả trên đã bị xoá bỏ, không khí huyền ảo đã bị xua tan. Còn ở câu 3: Phần dịch thơ đã bỏ mất di từ “quải” nên ấn tượng do hình ảnh dòng thác gợi ra trở nên mờ nhạt, hình ảnh liên tưởng ở câu cuối thiếu cơ sở.Hay ở bài “Tĩnh dạ tứ” tác gỉ cảm nhận được ánh trăng sáng qua tư thế nằm trên giường từ “ sàng” ngĩa là “ Giường” nói lên điều đó. Nếu thay từ “ đình ” có nghĩa là sân hoặc những từ ngữ khác thì ý nghĩa của câu thơ sẽ bị giảm sút. Không còn sợ thao thức , trăn trọc khi nghĩ về quê hương yêu dấu. Khi dạy bài thơ này tôi không thể không cho các em hiểu nghĩa cụm từ và cũng là cảm hứng chủ đạo của bài thơ: Vọng nguyệt hoài hương ( Trông trăng nhớ quê). Hiểu nghĩa các yếu tố Hán Việt là bước không thể thiếu được bởi khi dạy tôi thường cho học sinh so sánh nghĩa giữa bản dịch và nguyên tác để học sinh thu nhận được kiến thức một cách sâu sắc , toàn diện. 3.2. Định hướng được kiến thức cơ bản . 9 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Kiến thức cơ bản là kiến thức cụ thể nhưng ở dạng tập trung hơn, trừu tượng hơn, làm bộc lộ bản chất của cái cụ thể. Biết định hướng, làm rõ hệ thống kiến thức cơ bản sẽ tránh bài dạy dàn đều và tràn lan, làm cho học sinh nhồi nhét quá nhiều thông tin. Đặc biệt ở đây lại là thơ Đường rất hàm súc và nhiều tầng ý nghĩa. Cùng với nó, đối tượng tiếp cận lại là học sinh 12 – 13 tuổi. Kiến thức cơ bản ở đây chủ yếu là hướng dẫn các em học sinh tìm hiểu: Hệ thống cảm xúc, rung động và tâm trạng tình cảm thông qua bức tranh thiên nhiên sinh động Ví dụ: Khi đọc bài “ Vọng Lư Sơn bộc bố” (Lý Bạch) tôi tập trung làm rõ được tình cảm nhà thơ trước vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thác núi Lư qua việc sử dụng kênh hình. Từ đó rút ra được nét độc đáo trong phong cách thơ Lý Bạch: Phóng khoáng, giàu chất lãng mạn, bằng hệ thống câu hỏi định hướng, gợi tìm. Hoặc là với bài “ Qua đèo Ngang ” với ngôn ngữ phong phú, kết hợp với việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật tài tình lấp lánh nhiều tầng ý nghĩa đã góp phần làm nên tên tuổi của Bà Huyện Thanh Quan tôi cũng chủ yếu khai thác bức tranh tâm trạng, tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Thơ Đường là một thể loại khó lại dạy cho học sinh lớp 7. Vì vậy khi dạy thơ Đường Giáo viên không nên ôm đồm kiến thức dẫn đến học sinh khó hiểu rồi đi đến chán nãn và tiếp nhận không có hiệu quả. 10 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] 3.3. Xác định được thi pháp thơ Đường trong các bài thơ: Cái gì làm nên sự hấp dẫn thơ Đường? Đó chính là thi pháp thơ Đường. Nắm được điều này giúp chúng ta hiểu thơ Đường một cách chính xác và khách quan, giúp Giáo viên phân tích và giảng các bài thơ một cách sâu sắc, tránh áp đặt, miễn cưỡng, cứng nhắc. Nắm được thi pháp thơ Đường có ý nghĩa thực tiễn thiết thực đối với những người làm công tác dạy học môn Ngữ văn nói chung và thơ Đường nói riêng. Vì vậy khi dạy chùm thơ Đường trong sách Ngữ văn 7 nếu giáo viên xác định đúng các yếu tố thi pháp thì lúc ấy giáo viên mới mở được cánh cửa để học sinh đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Vậy nói đến thi pháp thơ Đường chúng ta nói đến những điều gì? Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đưa ra một số yếu tố thi pháp cần thiết cho việc dạy phần thơ Đường trong sách Ngữ văn 7. a. Con người trong thơ Đường. Con người là chủ thể, là đối tượng, đồng thời cũng là mục đích cứu cánh của văn học. Sáng tác văn học là một hoạt động phản ánh và thể hiện con người. Con người là yếu tố trung tâm, chi phối các yếu tố thi pháp khác. Bởi thế xác định được con người trong thơ Đường là xác định được nội dung chính, tư tưởng, thông điệp của bài thơ. Ví dụ: Trong bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tứ” ta thấy con người xuất hiện ở đây là con người vũ trụ, luôn khát vọng và hoà hợp với thiên nhiên. Cả không gian bao la của dãy núi 11 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Lư Sơn như thu vào tầm mắt của Lý Bạch. Từ đó ta có thể thấy được đây là người yêu thiên nhiên, ưa tự do, phóng khoáng, lãng mạn như một “Tiên thi”. Trong bài: “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” con người xuất hiện ở đây lại là con người đời thường, con người hành động, con người chịu nhiều những biến cố thăng trầm, những bon chen của của cuộc sống vì vậy họ đề cao cái tâm hơn. Đó là tình cảm, hoài niệm, ưu, sầu, oán, hận, khát vọng cuộc sống ấm no, tươi đẹp không chỉ cho mình mà còn “khắp kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ “qua đó bộc lộ được tính nhân văn giữa con người với con người mà chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ tác động sâu sắc đến tình cảm, lẽ sống. Như vậy nắm được chủ thể trong thơ Đường nghĩa là nắm được linh hồn của văn bản. Khi khai thác văn bản học sinh sẽ tiếp thu nhanh nhất bức tranh tâm trang của nhà thơ, từ đó nắm được thông điệp mà tác giả nhắn gửi trong tác phẩm. Muốn được như vậy ngoài các phương pháp truyền đạt kiến thức của một giờ Ngữ văn tôi còn hướng dẫn học sinh nắm bắt kiến thức bằng việc kết hợp sử dụng kênh hình, từ kênh hình sử dụng các câu hỏi gợi lên trí tưởng tưởng để các em hình dung trước mắt mình hình ảnh con người với những mối quan hệ tổng hòa trong xã hội. b. Không gian và thời gian. Không gian và thời gian trong thơ Đường nó mang tính đối xứng với con người ở vị trí trung tâm. Trong bài: “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Tĩnh dạ tứ” từ 12 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] một điểm nhìn con người nhìn ra mọi phía, bao quát cảnh vật để tìm ra cái thần của bức tranh thiên nhiên. Lý Bạch “Xa ngắm thác núi Lư”, đây là một sự lựa chọn hợp lý vì “xa ngắm” thì mới tái hiện được cái hùng vĩ, tráng lệ của cảnh ở đây. Con người được bao bọc giữa sơn thuỷ hữu tình, giữa mây trời non nước. Không gian mở ra mọi hướng và tâm hồn con người cũng tương thông với không gian ấy được thể hiện một cách tinh tế. Trong bài: “Tĩnh dạ tư” từ một điểm “đầu giường” nhìn thấy ánh trăng xuyên qua cửa, và qua hành động “cử”, “đê” ta thấy không gian ấy đã bao phủ nổi nhớ và suy nghĩ của nhà thơ về quê hương từ đó bộc lộ được tình cảm yêu quê hương thắm thiết của tác giả. Nếu như “Vọng Lư Sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tứ” không gian mở ra mọi hướng, thì ở “Hồi hương ngẫu thư”, “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” lại là không gian đời thường có xu hướng thu hẹp, dồn nén con người vào những địa dư chật hẹp, những góc sinh hoạt, hoạt động trong thôn xóm, làng mạc cụ thể của thời đương đại. Vì thế mà tính hiện thực được gợi lên rất rõ nét, vừa có giá trị phản ánh cuộc sống vừa có giá trị nhân văn sâu sắc. Không gian và thời gian trong thơ Đường có tính biện chứng. Đó là cái lẽ mà các nhà thơ dùng không gian để thể hiện thời gian. Thời gian với không gian thống nhất lại làm nên một thế giới, một cuộc sống, một phong cách bất hủ của nhà thơ. 13 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] c. Kết cấu trong thơ Đường c.1. Về bố cục: * Với những bài thơ “Thất ngôn bát cú Đường luật” có cấu trúc rất chặt chẽ, và có những nét riêng. - Nếu tìm hiểu thao chiều dọc thì có bố cục, niêm, đối vần. - Nếu tìm hiểu theo chiều ngang thì có luật (bằng, trắc). - Bố cục của bài thơ Thất ngôn bát cú có bốn phần: đề, thực, luận, kết. (mỗi phần có hai câu) + Phần đề: Phải làm cho người đọc thấy được “cái thần” của bài thơ và từ trong đề đã hàm ý các phần tiếp sau. + Ví dụ: Phần đề trong bài “Qua đèo ngang” đã giới thiệu phần nào khung cảnh đèo Ngang buổi xế tà (đã chuẩn bị cho toàn bài) + Phần thực gồm câu 3, 4 đối nhau có nhiệm vụ triển khai ý tứ của đề như tả cảnh, tả việc hoặc cách nghĩa sự việc cho phần tiếp theo. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà.” (Hai câu tả cảnh đã ngầm ý luận) + Phần luận: Gồm câu 5, 6 cũng đối nhau có nhiệm vụ bình luận, nhận định. 14 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] - Thông thường triển khai tứ, ý ở hai câu thực và có khi lộn với hai câu luận, nếu hai câu thực đã ngầm ý luận. "Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái da da.” - Ở đây tác giả vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng ngụ tình theo nghệ thuật thừa ý, chuyển ý. - Phần kết: Gồm câu 7, 8 với chức năng khép bài nhưng thường không khép kín mà gợi ý có khi gợi ra một ý mới. “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta" + Qua các phần đề, thực, luận kết cấu tứ của bài thơ ngày càng rõ dần theo một trình tự lô gíc, cảm xúc của tác giả cũng dần được bộc lộ qua kết cấu. - Giữa thực và luận nhiều khi ranh giới cũng không rõ ràng tách bạch. Bởi thế khi phân tích cũng không tách ra một cách máy móc. - Còn giữa đề và kết lại có quan hệ mật thiết từ hình thức đến nội dung: Về hình thức thì hai câu đề và câu kết cũng có hệ thống thanh bằng, thanh trắc trùng nhau. "Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng chợ thời xa. ……………………….. 15 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Đầu trò tiếp khách trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta" Về nội dung thì câu đề giới thiệu ý của bài, câu kết vừa khái quát được ý vừa gây được âm vang và liên tưởng cho người đọc. Câu kết thường bộc lộ chủ đề của bài. " Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta" * Với những bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Đây là thể thơ mỗi bài chỉ có bốn câu (tứ tuyệt), mỗi câu thơ chỉ có bẩy chữ (thất ngôn) - Đối: Phần lớn những bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có luật đối như sau : + Có thể câu 1 và câu 2 đối nhau. + Có thể câu 3 và câu 4 đối nhau. + Có thể câu 2 câu 3 đối nhau. - Bố cục của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật hoàn toàn khác so với những bài thơ làm theo thể Thất ngôn bát cú. - Bố cục của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt được khai thác theo cấu trúc: Khai, thừa, chuyển, hợp. + Câu 1 gọi là câu khai. + Câu 2 gọi là câu thừa. 16 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] + Câu 3 gọi là câu chuyển. + Câu 4 được gọi là câu hợp (khép lại.) Tóm lại kết cấu bài thơ Đường rất chặt chẽ từ đề, thực, luận, kết... đều nằm trong hệ thống chặt chẽ khi phân tích thơ Đường cho nên khi khai thác, phân tích văn bản tôi thường cắt ngang phân tích từng phần rồi cuối cùng tổng hợp lại. Ví dụ: Khi dạy bài thơ "Qua đèo Ngang’’ của Bà Huyện Thanh Quan tôi phân tích theo kết cấu đề, thực luận kết rồi sau đó tổng hợp chốt lại kiến thức cơ bản vì trong suốt bài thơ tình lồng trong cảnh, cảnh có trong tình ‘‘ngụ cảnh tả tình’’ để khi phân tích học sinh không bị trùng lặp kiến thức. c.2. Về Niêm luật. Khi dạy thơ Đường tôi luôn chú ý cho học sinh hiểu rõ Niêm luật trong thể thơ Đường luật. Đây là vấn đề rất quan trọng trong việc khai thác cái hay, đúng, cái đẹp của tác phẩm. - Luật bằng trắc. - Các chữ không dấu và chỉ có dấu huyền: thuộc thanh bằng. - Các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi, ngã: thuộc thanh trắc. - Các chữ thứ nhất, ba, năm là bằng hay trắc đều được, nhưng các chữ thứ hai, tư, sáu phải theo đúng luật bằng trắc. - Trong các câu thơ các chữ thứ 2,4, 6 phải đối thanh. 17 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ thứ 4 là trắc  chữ thứ 6 là bằng. Nếu chữ thứ 2 là trắc  chữ thứ 4 là bằng  chữ thứ 6 là trắc. - Nói cách khác trong mỗi câu thơ chữ thứ hai và chữ thứ 6 phải đồng thanh, chữ thứ 4 phải đối thanh với chữ thứ 2 và chữ thứ 6. - Cặp câu 1 và 4, cặp câu 2 và 3 thì các chữ thứ 2,4, 6 phải đồng thanh (cùng trắc hoặc cùng bằng) - Chữ thứ 2 câu 1 là bằng. - Ví dụ : "Thân em vừa trắng lại vừa tròn. B T B Bảy nổi ba chìm với nước non. T B T Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. T B T Mà em vẫn giữ tấm lòng son." B T B - Chữ thứ 2 câu 1 là trắc. Ví dụ: Bài thơ "Thiên trường vãn vọng" của Trần Nhân Tông. "Thôn hậu thôn tiền đạm tử yên T B T Bán vô bán hữu tịch dương biên 18 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] B T B Mục đồng địch lí ngưu quy tận B T B Bạch lộ song song phi hạ điền." T B T Như vậy vấn đề Niêm luật đòi hỏi học sinh phải chú ý trong quá trình phân tích bởi thông qua đó tác giả nêu lên tâm sự thầm kín của mình và học sinh thấy được tài năng đặc biệt của từng nhà thơ, từ đó phát huy được khả năng văn chương của chính mình. c.3. Ngôn ngữ trong thơ Đường luật. Ngôn ngữ trong thơ Đường luật có tính hàm súc. Đặc biệt là những bài thơ của tác giả Trung Quốc, khiến học sinh gặp không ít khó khăn trong quá trình hiểu văn bản. Nếu chương trình sách giáo khoa cũ các em được học tiết "Mở rộng vốn từ" thì một số từ ngữ Hán việt các em còn hiểu chút ít, nhưng hiện nay phần này không được đưa vào chương trình sách giáo khoa. Vì thế các em hiểu rõ những từ ngữ trong bài thơ rất lơ mơ, do đó các em rất khó cảm nhận hết được tư tưởng mà nhà thơ gửi gắm vào bài viết. Chính vì vậy trước khi tìm hiểu một bài thơ Đường luật tôi thường yêu cầu học sinh tự tra những từ ngữ đó trong phần cuối sách trước ở nhà, để khi đến lớp các em dễ dàng tiếp nhận tác phẩm hơn. 19 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Email: [email protected] Một trong những đặc điểm của thơ Đường luật là tính hàm súc (ý tại ngôn ngoại). Đây chính là đặc điểm của một bài thơ có giá trị. Với 56 tiếng của của bài Thất ngôn bát cú và 28 câu của bài tứ tuyệt, bài thơ phải diễn đạt được tối đa ý đồ thầm kín của tác giả. Ngoài ra một yếu tố nữa trong ngôn ngữ được những nhà thơ xưa coi trọng, đó là yếu tố hoạ, nhạc "Thi trung hữu hoạ" hoặc "Thi trung hữu nhạc". Để làm nổi bật được "bức tranh" trong bài thơ người ta sử dụng lối văn hình ảnh, dùng từ ngữ gợi tả hình tượng màu sắc, đường nét cho nổi hình trước mắt người xem. Trong thơ Đường, đặc biệt là thơ Đường luật thường không có hư từ mà chỉ có những thực từ gắn kết với nhau theo cấu trúc nội tại vì thế khi phân tích tôi coi trọng việc khai thác từng tiếng, từng từ, từng hình ảnh kết hợp việc phân tích, giảng thuật và kênh hình để từ đó học sinh cảm nhận được những tấc lòng của thi nhân, những nỗi niềm tâm sự thầm kín. Đây là một trong những đặc sắc của thơ Đường luật. Đó chính là sự cô đúc, súc tích được sản sinh từ một kiểu tư duy nghệ thuật, một thi pháp độc đáo của các nhà thơ xưa. Tóm lại xác định được các yếu tố thi pháp là một việc, nhưng cái quan trọng ở đây là cách vận dụng sát hợp với đối tượng học sinh lớp 7 với những khái niệm còn xa lạ của thi pháp thơ Đường trong từng bài cụ thể. Để có thể 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất