SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG TRỊ
TRƯỜNG THPT VĨNH ĐỊNH
TỔ BỘ MÔN : THỂ DỤC - QUỐC PHÒNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG XÂY DỰNG HÌNH THỨC KIỂM
TRA BẰNG PHƯƠNG PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM
BỘ MÔN GDQP TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT ”
Giáo viên : Lê Xuân Vũ
Năm học : 2012 – 2013
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
MỤC LỤC
Trang
1
2
3
3
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
Phần I. Thực trạng vấn đề
Phần II. Một số quy tắc trong xây dựng các công cụ đánh giá (bài trắc
nghiệm) áp dụng cho môn GDQP
A. Một số tiêu chuẩn viết câu hỏi trắc nghiệm
I. Các đặc tính quan trọng của câu hỏi trắc nghiệm
II. Những đặc tính quan trọng của phần câu dẫn
III. Các đặc tính quan trọng đối với các câu lựa chọn
IV. Hai mươi quy tắc để viết các câu hỏi nhiều lựa chọn
V. Những gợi ý khi chuẩn bị các câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn
B. Những gợi ý khi viết các câu hỏi tự luận
Phần III: Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá thành quả học tập
A. Các loại câu hỏi trắc nghiệm
I. Phân loại trắc nghiệm
11
II. So sánh trắc nghiệm tự luận hay luận đề và trắc nghiệm khách quan
B. Trắc nghiệm tự luận
I. Đặc tính của trắc nghiệm tự luận
II. Phương pháp soạn câu hỏi tự luận hay luận đề
III. Phương pháp chấm điểm loại câu tự luận
* TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
TRẮC NGHIỆM CÓ NHIỀU PHƯƠNG ÁN TRẢ LỜI CHO
MỖI CÂU HỎI ( MCQ)
I. Ưu điểm của loại trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời để lựa chọn
II. Hạn chế của loại câu hỏi có nhiều phương án trả lời để chọn MCQ
III. Các quy tắc khi soạn câu hỏi trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời để
chọn MCQ
TRẮC NGHIỆM LOẠI "ĐÚNG - SAI”
I- Đặc tính của trắc nghiệm đúng - sai
II- Quy tắc soạn câu hỏi loại "đúng - sai”
III- Phương pháp chấm điểm loại trắc nghiệm: đúng - sai
Phần III: Kết quả đạt được
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
2
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
3
3
3
3
3
4
5
9
12
11
12
14
14
17
18
19
20
20
20
21
23
23
25
25
26
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
C. PHẦN KẾT LUẬN
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
28
3
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Giáo dục quốc phòng (GDQP) cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác
giáo dục quốc phòng toàn dân. GDQP là môn học chính khóa nằm trong chương trình giảng
dạy của các trường Trung học Phổ thông (THPT) nhằm rèn luyện hình thành nhân cách, góp
phần nâng cao ý thức quốc phòng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nhận rõ vị
trí, vai trò của nhiệm vụ trên, những năm qua, Ban Giám hiệu và Tổ Thể dục - GDQP luôn
quan tâm chỉ đạo và tổ chức, triển khai thực hiện tốt công tác Giáo Dục Quốc Phòng cho học
sinh.
Trong những năm qua, Ban Giám Hiệu đã chỉ đạo, xây dựng kế hoạch hướng dẫn các
giáo viên chọn nhiều hình thức tổ chức giảng dạy, học tập môn học này. Các Giáo viên bộ
môn phải thay đổi giáo án cho phù hợp với chương trình của Bộ giáo dục, 35 tiết mỗi năm
học. Từ năm 2003 đến nay, HS được nâng cao hiểu biết về truyền thống vẻ vang của dân
tộc, Quân đội Nhân dân Việt Nam và một số nội dung cơ bản về quốc phòng, rèn luyện tác
phong, nếp sống tập thể có kỷ luật... Nội dung thực hành luyện tập theo đúng nội dung, thời
gian quy định. Các giáo viên đều tích cực tham gia huấn luyện, học sinh hăng say luyện tập.
Trong những năm gần đây khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, kỹ thuật thông tin
hiện đại, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong trường học là vấn đề đang được
các cấp lãnh đạo quan tâm và ủng hộ, hiện nay, số lượng giáo viên áp dụng công nghệ thông
tin vào trong phương pháp giảng dạy rất đa dạng, sinh động, gây hứng thú cho học sinh nói
chung, và đối với phương pháp giáo dục quốc phòng – an ninh nói riêng, chương trình môn
giáo dục quốc phòng an ninh rất đa dạng:
-
Liên quan đến Lịch sử có bài : Việt Nam đánh giặc giữ nước, lịch sử và truyền thống
của Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam .
-
Liên quan đến Địa lý như bài : Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia,
thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai.
-
Liên quan đến Giáo Dục Công Dân có bài : Tác hại của Ma túy và trách nhiệm của
học sinh trong phòng chống ma túy.
-
Liên quan đến Sinh học có bài : Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường và Băng
bó vết thương, kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương.
-
Liên quan đến hướng nghiệp như bài: Hệ thống nhà trường quân đội, công an và chế
độ tuyển sinh vào các trường quân sự, công an giúp các em học sinh định hướng được
nghề nghiệp quân sự, công an… Đồng thời Ngành Giáo dục và Đào tạo đang nổ lực đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
trong hoạt động học tập, khắc phục thói quen học tập thụ động, lối truyền thụ kiến thức
một chiều phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay.
Tuy vậy, có thể nói trong một thời gian khá dài việc kiểm tra, đánh giá kết quả môn học
GDQP-AN còn có những hạn chế nhất định. Để phục vụ cho công tác thi, kiểm tra đánh giá
một cách hoàn thiện và công bằng đồng thời tạo điều kiện cho cả giáo viên và học sinh nắm
vững kiến thức đã học. Trong thời gian giảng dạy bộ môn cũng như tham khảo nhiều ý kiến
đóng góp từ các thành viên trong Tổ bộ môn và các giáo viên giảng dạy bộ môn GDQP, tôi
đưa ra một số phương pháp kiểm tra hình thức trắc nghiệm để đánh giá học sinh trong quá
trình giảng dạy, rất mong các thầy cô đóng góp thêm ý kiến để hoàn thiện hơn nội dung này.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
4
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Qua thực tế ở trường cụ thể là những bài kiểm tra định kỳ, các bài thi ra đề, phần lớn
học sinh không mấy hứng thú với những tiết kiểm tra; những bài kiểm tra làm các em ghò bó
trong khuôn mẫu của những từ ngữ. Trên thực tế, với phần đông các em bộ môn GDQP chỉ
được xem là môn không quan trọng; từ đó, các em thiếu hào hứng khi học chứ không chỉ là
trong kiểm tra.
Trước tình hình trên đòi hỏi người giáo viên phải suy nghĩ bằng nhiều cách để nâng
cao chất lượng bộ môn ngày một cao hơn.
PHẦN II: MỘT SỐ QUY TẮC TRONG XÂY DỰNG CÁC CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ
(BÀI TRĂC NGHIỆM) ÁP DỤNG CHO MÔN GDQP
A. MỘT SỐ TIÊU CHUẨN VIẾT CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
I. Các đặc tính quan trọng của câu hỏi trắc nghiệm
1- Sự phù hợp của điều được trắc nghiệm
2- Tính chính xác hoặc tính đúng đắn của kiến thức được trắc nghiệm
3- Tính công bằng đối với tập hợp học sinh được trắc nghiệm. Toàn bộ học sinh có cơ hội
như nhau để tiếp cận với kiến thức được trắc nghiệm.
4- Tính nhạy cảm đối với các vấn đề dân tộc thiểu số (tránh các thuật ngữ có thể tỏ ra xúc
phạm với bất cứ nhóm người nào)
5- Tính dễ hiểu cho những người đọc các câu hỏi trắc nghiệm ( tính rõ ràng, đơn giản của
các từ vựng được sử dụng).
6- Sắp xếp các câu hỏi trắc nghiệm như thế nào để câu hỏi cuối cùng cũng ứng với mức
điểm cao nhất.
II. Những đặc tính quan trọng của phần câu dẫn
1- Tính rõ ràng và hoàn chỉnh của vấn đề hoặc nhiệm vụ được trình bày
2- Tính ngắn gọn, xúc tích của câu dẫn ( bao hàm chỉ các thông tin cần thiết để trả lời
câu hỏi và tránh hiện tượng "đánh lừa”.
3- Tính tập trung đối với các khẳng định dương tính (tránh các từ " ít nhất” " không” "
ngoại trừ”.v.v...)
III. Các đặc tính quan trọng đối với các câu lựa chọn
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
5
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
1- Tính chính xác của câu trả lời (chỉ có một câu trả lời chính xác – đúng).
2- Tính hấp dẫn của câu nhiễu (cần phải tỏ ra là có vẻ hợp lí đối với những người không
am hiểu hoặc hiểu không đúng)
3- Tính tương tự trong cấu trúc trả lời ( cần phải để mỗi phần có độ dài, lượng từ ... tương
tự như nhau).
4- Tránh được các từ đầu mối ( "luôn luôn” " không bao giờ” " chỉ có” " tất cả”.vv...)
IV. Hai mươi quy tắc để viết các câu hỏi nhiều lựa chọn
1. Sự tinh thông nội dung môn học của giáo viên chính là giấy thông hành để viết câu hỏi
trắc nghiệm.
2. Sử dụng thành thạo các biểu đồ, sơ đồ, bảng, đồ thị.
3. Xác lập mức và độ phức tạp đối với các học sinh và thời gian cần thiết.
4. Các từ ngữ sử dụng cần phải rõ ràng, ngắn gọn và chính xác.
5. Các vấn đề hoặc câu hỏi cần phải được trình bày rất rõ ràng trong phần câu dẫn của
câu hỏi trắc nghiệm.
6. Hạn chế sử dụng các tập hợp từ cho phần câu dẫn như: " Điều gì trong các điều sau
đây là yếu tố... yếu tố quan trọng nhất là...
7. Những từ sử dụng nếu lặp lại chung cho tất cả các câu lựa chọn nên chuyển sang phần
câu dẫn.
8. Thông tin trong câu dẫn cần phải xác thực và các câu lựa chọn không được phủ nhận
câu dẫn.
9. Các câu lựa chọn cần phải đồng nhất, song song và được sắp xếp một cách logic hoặc
được đánh số thứ tự.
10. Tránh các đầu mối có nội dung xa lạ với câu trả lời.
11. Tránh các tình hướng lựa chọn 3 khả năng " tăng, giảm, giữ nguyên”.
12. Nhất thiết trong các lựa chọn phải có một câu trả lời đúng, rõ ràng.
13. Phần dẫn của câu hỏi trắc nghiêm có thể viết dưới dạng đưa ra nhiều yếu tố giúp cho
học sinh lựa chọn câu trả lời. Các yếu tố đó được tổ hợp lại thành các câu lựa chọn sao cho
chỉ có một câu lựa chọn ( câu trả lời) đúng.
Ví dụ, người đưa ra các yếu tố trong câu dẫn như:
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
6
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
I - Yếu tố x, II - Yếu tố y, III - Yếu tố z
Và các lựa chọn đưa ra là:
(A) chỉ có I đúng (B) chỉ có I và II đúng (C) chỉ có I và III đúng
(D) chỉ có II và III đúng
(E) cả ba I, II và III đều đúng.
14. Phải phân bố một cách ngẫu nhiên câu trả lời đúng.
15. Hiếm khi sử dụng: "Không có cái nào đúng trong số kể trên” và sử dụng " nó” là câu
trả lời trong câu trắc nghiệm có " nó” xuất hiện.
16. Phải tính đến các đơn vị đánh số trong câu lựa chọn.
17. Các câu nhiễu cần phải có vẻ hợp lí, phù hợp với câu dẫn
18. Các câu hỏi trắc nghiệm, trong một tập hợp phụ thuộc vào thông tin giới thiệu (mở
đầu) thì không phụ thuộc vào nhau.
19. Đôi khi có xu hướng câu hỏi trắc nghiệm được soạn theo kiểu có 5 lựa chọn, có quan
hệ mật thiết với nhau dưới dạng các từ, câu, phương trình, đồ thị, sơ đồ được đưa ra ngay từ
đầu và người ta dùng các lựa chọn đó cho một loạt các câu trắc nghiệm tiếp theo. (Một lựa
chọn có thể được sử dụng làm một câu trả lời một lần hay nhiều lần hoặc chẳng được dùng
làm câu trả lời lần nào trong một loạt các câu trắc nghiệm có liên quan đến nhau).
20. Các câu hỏi trắc nghiệm cần được phân bố sao cho có thể đo lường được năng lực
nhận thức ở các thứ bậc khác nhau như:
Bậc 1. Nhớ - nhắc lại các sự kiện, quan điểm, nguyên lí cơ bản
Bậc 2. Hiểu - Truyền đạt, làm sáng tỏ, ngoại suy
Bậc 3. Áp dụng - vào vấn đề mới
Bậc 4. Phân tích - Cấu trúc cơ sở dữ liệu được phân tích
Bậc 5. Tổng hợp - Tạo nên một chỉnh thể mới
Bậc 6. Đánh giá - Khi phải sử dụng các tiêu chuẩn phụ thêm như tính kinh tế, tốc độ, độ
chính xác, độ an toàn... để đánh giá mà quyết định lựa chọn cho chính xác một yêu cầu nào
đó.
V. Những gợi ý khi chuẩn bị các câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn
1. Câu hỏi trắc nghiệm
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
7
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
a. Lựa chọn khái niệm hay ý tưởng quan trọng mà chỉ với học sinh cần phải biết hoặc
hiểu.
b. Thiết kế câu trắc nghiệm xoay quanh một ý tưởng hay một vấn đề trung tâm được trình
bày rõ ràng trong câu dẫn. Toàn bộ các lựa chọn có quan hệ với câu dẫn được xây dựng trên
cùng một phương thức.
c. Phải bảo đảm chắc chắn để mỗi một câu hỏi trắc nghiệm chỉ có một câu trả lời đúng.
d. Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng và tránh tối nghĩa. Không nên thiết kế câu trắc
nghiệm như là một kiểu kiểm tra của khả năng đọc hiểu, trừ khi đây là mục đích câu hỏi.
e. Khi nhiều câu hỏi trắc nghiệm được xây dựng dựa trên cùng một thông tin đưa ra ở
câu trắc nghiệm đầu dưới dạng một đoạn văn, đồ thị hoặc biểu đồ thì cần phải chọn câu hỏi
sao cho đảm bảo chắc chắn các câu trắc nghiệm có liên quan đến cùng một loại thông tin
đưa ra sau đó thì câu này phải độc lập với câu kia. Câu trả lời đúng của người thi phải bắt
nguồn từ thông tin chung đã cho chứ không phụ thuộc câu trả lời đúng của câu trắc nghiệm
trước. Không được sử dụng các câu nhiễu trong một câu hỏi làm đầu mối cung cấp thông tin
cho câu trả lời của câu trắc nghiệm khác.
f. Phải có ý thức rõ ràng về mục đích của câu hỏi trắc nghiệm. Điều này có nghĩa là nếu
như giáo viên có ý định trắc nghiệm năng lực nhận thức ở bậc nhớ thì không được "ngụy
trang” câu hỏi trắc nghiệm dưới dạng một thể hiện khác đi. Hoặc nếu như giáo viên có ý
định trắc nghiệm tư duy phê phán thì phải làm thế nào để câu hỏi không thể được trả lời khi
chỉ đơn thuần dựa vào thông tin thực tế đã thu được.
g. Nếu có ý định làm một câu hỏi trắc nghiệm khó phải chắc chắn rằng nó sẽ khó bởi vì
nó đòi hỏi những lí luận sắc bén hoặc sự hiểu biết ở mức cao chứ không vì nó trắc nghiệm
vấn đề bí mật hoặc chưa rõ ràng ở môn học.
h. Không được sử dụng phủ định kép trong một câu hỏi trắc nghiệm. Nếu như giáo viên
đề nghị học sinh trả lời bằng cách nhận ra một lựa chọn là không đúng, hoặc là không chính
xác thì các lựa chọn phải được trình bày dưới dạng khẳng định dương tính. Có thể nêu ra
một ví dụ về điều này là học sinh có thể bị lúng túng khi phải nhận ra một lựa chọn thuộc
loại không đúng.
2. Phần câu dẫn của câu hỏi trắc nghiệm
a. Bạn có thể xây dựng câu dẫn dưới dạng câu hỏi, dưới dạng câu chưa hoàn chỉnh mà nó
sẽ được hoàn thành bằng liên kết với câu lựa chọn, hoặc dưới dạng một nội dung hoàn chỉnh
của vấn đề cần được giải quyết.
b. Xác định rõ ràng trong câu dẫn nhiệm vụ mà bạn xác định cho học sinh và bao hàm tất
cả các thông tin cần thiết cho học sinh để hiểu được ý đồ của câu trắc nghiệm. (Các câu hỏi
được xây dựng thành từng cụm một nên cần có sự chỉ dẫn, đặc biệt viết cho cuộc trắc
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
8
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
nghiệm được phân thành nhóm và đòi hỏi các chỉ dẫn đặc thù và chúng được dùng cho các
nhóm mà không cần nhắc lại mỗi lần).
3. Các lựa chọn cho câu hỏi trắc nghiệm
(Câu trả lời đúng và các câu trả lời không chính xác, hoặc câu nhiễu)
a. Các câu lựa chọn cũng quan trọng như nội dung của vấn đề được trình bày trong câu
dẫn. Lựa chọn và tạo lập nội dung của vấn đề trong phần thân câu trắc nghiệm, sau đó tiến
hành lựa chọn và tạo lập các câu nhiễu thật cẩn thận, thể hiện ở chỗ tính không đúng là tiêu
chuẩn duy nhất.
Các nguồn để tạo câu nhiễu tốt là:
- Những quan điểm sai và những sai lầm thường gặp trong kỹ thuật.
- Nội dung bản thân nó là đúng nhưng lại không thỏa mãn các yêu cầu của câu hỏi.
- Nội dung hoặc là quá rộng hoặc là quá hẹp so với yêu cầu của câu hỏi.
- Một nội dung không đúng của câu nhiễu được diễn đạt về từ ngữ cẩn thận tới mức nó
có vẻ có lí đối với những người không am hiểu.
b. Độ khó của câu hỏi trắc nghiệm phụ thuộc nhiều vào các câu lựa chọn. Sự khác biệt
giữa các câu lựa chọn đúng sai càng tinh tế bao nhiêu thì câu trắc nghiệm càng trở nên khó
bấy nhiêu.
c. Đặt câu đối với tất cả các câu lựa chọn như thế nào để chúng duy trì được mối quan hệ
như nhau đối với ý tưởng của câu dẫn và diễn đạt các câu lựa chọn một cách rõ ràng và xúc
tích.
d. Đề phòng việc đưa ra các gợi ý vào câu trả lời đúng. Nếu như có sự tương tự giữa câu
dẫn với câu trả lời đúng về một từ, câu hoặc cấu trúc ngữ pháp, và nếu như sự tương tự này
là không có đối với các câu lựa chọn khác thì chỉ trên cơ sở này học sinh cũng đã đủ nhận ra
câu trả lời nào là đúng. Đồng thời cũng tránh khuynh hướng sử dụng cách viết như sách
trong các câu lựa chọn khác.
e. Tránh mọi xu hướng làm cho câu trả lời đúng luôn dài hơn các câu nhiễu, khuynh
hướng này thông thường là kết quả của việc lập câu trả lời đúng một cách hoàn chỉnh và
hoàn toàn chính xác, đồng thời lập các câu nhiễu với nội dung đơn giản và không đủ chất
lượng. Hãy viết các câu nhiễu với sự cẩn thận và độ chính xác như là đối với câu trả lời
đúng, như vậy để tất cả các câu lựa chọn đề có ái lực như nhau đối với các học sinh chỉ hay
trả lời phỏng đoán.
f. Tránh các "sơ hở” trong các câu nhiễu, ví dụ "luôn luôn”, "chỉ”, "mọi”, "tất cả”,
"không bao giờ”.v.v... Các câu trắc nghiệm cần kiểm tra một điều gì đó tinh tế hơn chứ
không phải chỉ là năng lực nhận biết ra những gì khác thường ở học sinh.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
9
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
g. Không được để lộ câu trả lời đúng do sử dụng tất cả các từ của câu nhiễu có ý nghĩa
không thiện chí, điều này sẽ tương phản mạnh đối với các từ có ý nghĩa thiện chí trong câu
trả lời đúng và ngược lại.
8. Không được nhắc lại trong mỗi câu lựa chọn thông tin mà có thể để ở trong câu dẫn.
Trường hợp này dứt khoát phải đưa nội dung về câu dẫn.
h. Nếu cần một sự đánh giá ở câu dẫn (thí dụ: "tốt nhất” hoặc "cực kỳ”) thì phải đảm bảo
được rằng quả thật giáo viên đòi hỏi học sinh nhận ra cái "tốt nhất” hoặc "cực kỳ” của vài
câu lựa chọn chứ không phải là phân biệt giữa cái chính xác và không chính xác.
4. Các vấn đề khác
a. Đối với một bài trắc nghiệm điển hình thì cần có bộ câu hỏi được sắp xếp theo mức độ
từ dễ đến khó đối với lớp mà cuộc trắc nghiệm được tiến hành (một câu trắc nghiệm dễ là
câu mà có ít nhất 70% học sinh trả lời đúng, một câu khó là câu có dưới 30% học sinh trả lời
đúng). Tuy nhiên, phần lớn các câu hỏi trắc nghiệm nằm trong phạm vi đúng thường là 30 70%. Điều quan trọng phải luôn phải nhớ rằng thời gian làm bài mới là một vấn đề khó khăn
đối với học sinh hơn là giáo viên dự tính.
b. Có sự linh hoạt trong sự lập ra các câu trắc nghiệm để đáp ứng các tiêu chí của bài trắc
nghiệm. Điều cần thiết là có được các câu hỏi cho một chủ đề nào đó ở các mức độ khó khác
nhau và kiểm tra được các năng lực.
c. Khi duyệt các câu trắc nghiệm, hãy chỉ ra câu trả lời đúng hoặc ở mặt sau hoặc ở một
tờ giấy riêng biệt. Cần phải đảm bảo rằng những người duyệt đề có thể trả lời đúng các câu
hỏi một cách độc lập mà không chịu ảnh hưởng bởi câu trả lời của bạn được viết ngay dưới
câu hỏi trắc nghiệm.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
10
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
B. NHỮNG GỢI Ý KHI VIẾT CÁC CÂU HỎI TỰ LUẬN
1. Câu hỏi cần phải rõ ràng: những hướng dẫn không được làm học sinh lúng túng với
các vấn đề nêu ra. Chủ đề nhằm mục đích kiểm tra năng lực trả lời chứ không phải là khả
năng đoán được những gì mà người lập trắc nghiệm dự định. Bên cạnh đó người học sinh chỉ
có một lượng thời gian hạn chế, do đó thời gian cần phải dùng cho việc viết chứ không cần
cho việc phân tích đề một cách không cần thiết.
2. Câu hỏi ngắn gọn vừa đủ để vấn đề được trình bày rõ ràng: sự diễn đạt lại đôi khi là
cần thiết để tránh hiểu nhầm, vậy nên xem xét sự diễn đạt được sử dụng có cần đúng nguyên
gốc hay không, bởi vì sự lặp lại thì không cần làm sáng tỏ thêm.
3. Cách hướng dẫn cần phải được xác định rõ ràng: học sinh cần phải biết điều gì được
yêu cầu, ví dụ: thảo luận, trích dẫn, ví dụ cụ thể từ một luận thuyết, hoặc hướng sự chú ý đến
sự chuẩn xác của một nội dung khái niệm hoặc hãy khẳng định là đã sử dụng các câu hoàn
chỉnh.
4. Tránh các câu hỏi chỉ đòi hỏi câu trả lời "Có” hoặc "Không”
5. Học sinh trung bình phải có khả năng viết câu trả lời ở mức độ trung bình, còn người
học sinh giỏi có khả năng thể hiện trí thông minh của mình. Một chủ đề tốt sẽ cho phép phân
loại tất cả các học sinh theo năng lực của họ.
6. Từ vựng được sử dụng và những khái niệm được thể hiện trong chủ đề không được
quá khó đối với người học sinh bình thường để có thể hiểu được nhanh chóng mà làm bài.
Một chủ đề khó chỉ phân biệt được giữa những học sinh rất giỏi với số còn lại. Bên
cạnh đó việc đọc hiểu khó khăn sẽ biến cuộc trắc nghiệm thành trắc nghiệm khả năng đọc.
7. Câu hỏi không được tạo ra cách viết một cách khuôn sáo trong các câu trả lời. Chủ
đề sẽ bị nhàm chán do sử dụng quá mức các câu trả lời dài dòng, mặt khác một số câu hỏi tốt
chính lại là các câu biến báo các khuôn sáo hay dùng.
8. Nếu là kiểm tra tự luận: Bản thân câu hỏi cần phải cung cấp một nguyên lý tổ chức
để viết tự luận.
Ví dụ: Hãy so sánh và đối chiếu....
Hãy mô tả ngắn gọn và sau đó phân tích....
Hãy thảo luận qua câu trả lời của anh (chị) cho câu hỏi này, trình bày nguyên nhân
đưa ra câu trả lời của anh (chị) và đưa ra các ví dụ cụ thể để minh họa cho những nguyên
nhân này...
9. Nếu là kiểm tra tự luận: Câu hỏi không được gợi ra những phản ứng làm ảnh hưởng
đến sự phán đoán của người viết hoặc người đọc. Chính trị, chủng tộc và những chủ đề nhạy
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
11
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
cảm khác cần tránh nhắc đến. Đồng thời, cũng nên tránh những chủ đề gây nên sự tối nghĩa;
chủ đề dường như vô thưởng vô phạt. Nếu như một học sinh viết về một nhân vật chính trị
không đúng (theo quan điểm của người đọc, người chấm), thì điểm số hoặc là quá cao vì
người đọc đồng tình với chính kiến của học sinh, hoặc quá thấp vì người đọc không chấp
nhận chính kiến này. Mặt khác, khi chấm bài tự luận thứ 5 cùng nội dung, chất lượng như
nhau chắc chắn cũng sẽ không được điểm như là đối với bài đầu tiên. Những người chấm
cũng là con người và họ đã trở nên nhàm chán.
10. Nếu là kiểm tra tự luận: Người viết câu hỏi nên viết luôn đáp án và xác định xem đề
ra có thực sự đòi hỏi câu trả lời đó hay không. Người viết câu hỏi cũng nên cố gắng trả lời
câu hỏi trong khoảng thời gian giới hạn cho phép, điều này giúp cho thấy được tính hợp lý
của thời gian dành cho học sinh để viết câu trả lời. Câu hỏi cần phải được chỉnh lý nếu có
những phát hiện ra những điều không hợp lý.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
12
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM TRONG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
THÀNH QUẢ HỌC TẬP
A. CÁC LOẠI CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
I. Phân loại trắc nghiệm:
Các bài kiểm tra hay thi, học sinh phải viết khi làm bài được chia thành hai loại: Loại tự
luận và loại trắc nghiệm khách quan. Cả hai loại đều được gọi là trắc nghiệm, chứ không chỉ
là loại thứ hai như nhiều người vẫn lầm lẫn. Loại trắc nghiệm tự luận đòi hỏi học sinh viết
câu trả lời, thường nhiều dòng, tương ứng với mỗi câu hỏi, hay mỗi phần câu hỏi. Chữ "
khách quan” dùng để chỉ loại trắc nghiệm có phương pháp chấm điểm khá đều tay và đáng
tin cậy khi có nhiều người chấm, nhờ ở "khóa” cho điểm đã chuẩn bị trước. Chỉ trong loại
trắc nghiệm "điền vào chỗ trống” học sinh được tự do diễn đạt câu trả lời trong một giới
hạn nào đó để chấp nhận đúng; còn trong loại trắc nghiệm khách quan khác, học sinh sẽ
được điểm như nhau với bất kỳ người chấm là ai, ngoại trừ sai số do sự vô ý nhất thời của
người chấm. Vậy nên loại trắc nghiệm này được gọi là khách quan, do tính chất hai hay
nhiều người cùng chấm bài kiểm tra hay thi sẽ cho điểm như nhau hoặc khác nhau rất ít.
Trắc nghiệm khách quan có thể chia làm 4 loại:
1. Loại đúng sai. Trong loại này học sinh đọc những câu phát biểu và phán đoán xem
nội dung hay hình thức của câu ấy đúng hay sai. Loại câu hỏi này phù hợp nhất cho việc
khảo sát trí nhớ các sự kiện, hay nhận biết các sự kiện.
2. Loại câu hỏi có nhiều câu trả lời để chọn, MCQ. Loại này gồm một câu phát biểu
căn bản, gọi là câu dẫn, hay câu hỏi, đi với nhiều câu trả lời để học sinh lựa chọn thi làm bài.
Các câu trả lời cho mỗi câu hỏi có dạng giống nhau, gồm một từ, một cụm từ, hay một câu
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
13
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
hoàn chỉnh. Học sinh phải chọn một câu trả lời đúng hay hợp lý nhất. Đây là loại trắc
nghiệm khách quan thông dụng nhất. Các câu hỏi loại này có thể dùng thẩm định trí nhớ,
mức hiểu biết, khả năng áp dụng, phân tích, tổng hợp hay ngay cả khả năng phán đoán cao
hơn.
3. Loại ghép đôi (hay xứng hợp). Trong loại này, học sinh tìm cách ghép mỗi từ hay
câu trả lời trong một cột với một từ hay câu xếp trong cột khác. Số câu hoặc từ trong cột thứ
1 có thể ít, bằng hay nhiều hơn các câu hoặc từ trong cột thứ 2. Các hỏi loại này mang nhiều
tính chất của loại câu hỏi có nhiều câu trả lời để lựa chọn, MCQ.
4. Loại điền vào ô trống hay cần câu trả lời ngắn. Trong loại này, học sinh viết câu trả
lời khoảng 1 đến 8 hay 10 chữ, các câu trả lời thường thuộc loại đòi hỏi trí nhớ. Tuy nhiên,
trong trường hợp môn Toán hay Khoa học Tự nhiên, câu trả lời có thể đòi hỏi óc suy luận
hay sáng kiến.
II. So sánh trắc nghiệm tự luận hay luận đề và trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm riêng tùy theo mục
tiêu cần kiểm tra, đánh giá, yêu cầu đề cập nhiều mục tiêu hay tiết mục nội dung.
Khi được soạn kỹ, loại trắc nghiệm tự luận có thể tạo cho học sinh cơ hội để phân tích
và tổng hợp dữ kiện theo lời lẽ riêng của mình dựa trên kinh nghiệm học tập hay kinh
nghiệm ngoài đời. Trong loại trắc nghiệm này học sinh có thể thi thố khả năng giải quyết
vấn đề hay khả năng suy luận trong việc: sắp xếp các dữ kiện hay sự kiện; so sánh các tính
chất hay ý kiến; giải thích rõ ràng các định luật và quy tắc; ứng dụng các nguyên tắc vào
những vấn đề riêng biệt cần giải quyết; suy diễn từ những sự kiện đã biết; giải thích hay thiết
lập những mối tương quan khi có được một số yếu tố hay dữ kiện; phê bình các đoạn văn, tư
tưởng, dựa trên các tiêu chuẩn đã cho; phác họa những đường lối mới để giải quyết những
vấn đề cần thiết.
Ngược lại, loại trắc nghiệm khách quan có thể dùng kiểm tra đánh giá khả năng nhớ
những sự kiện hay kiến thức hữu hiệu hơn loại tự luận. học sinh phải lựa chọn câu trả lời
đúng trong số nhiều câu trả lời cho sẵn hoặc phải biết thêm 1 từ, 1 câu, 1 đoạn ngắn để trả
lời câu hỏi. Tuy nhiên với khả năng, kinh nghiệm dùng thẩm định các khả năng suy luận,
giải quyết vấn đề ở những mức trí lực cao hơn.
Trong khi loại trắc nghiệm tự luận thường cho phép khảo sát một số ít kiến thức trong
thời gian hạn định, loại trắc nghiệm khách quan có thể giúp chúng ta khảo sát một số kiến
thức rộng rãi, bao quát hơn. Sự khác biệt này do câu hỏi tự luận cần nhiều thời gian hơn để
trả lời một câu hỏi, trong lúc câu hỏi loại trắc nghiệm khách quan có thể được trả lời nhanh
hơn. học sinh nào có lời văn lưu loát sẽ có được lợi thế hơn khi viết phần trả lời tự luận, vì
họ có thể nhấn mạnh các điểm họ biết và bỏ qua những điểm chưa chắc chắn. Nhờ vào các
phần họ biết nhiều, học sinh có thể gây ấn tượng thuận lợi để che lấp một vài phần yếu kém
khác trong bài thi. Điều này không thể xảy ra với trắc nghiệm khách quan.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
14
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
Học sinh nào thích được tự do diễn đạt tư tưởng sẽ thích câu hỏi tự luận hơn để có dịp
trình bày ý tưởng một cách hữu hiệu. Trái lại, các học sinh thích thu thập nhiều dữ kiện và
kiến thức sẽ lựa chọn một câu trả lời trong số những câu cho sẵn nên có khuynh hướng thích
loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Mỗi giáo viên nên báo trước cho học sinh biết sẽ dùng
câu hỏi nào để họ chuẩn bị một cách thích ứng.
Việc chấm điểm loại trắc nghiệm khách quan sẽ nhanh hơn và chính xác hơn, do các câu
trả lời đã được chọn sẵn khi ấn định khóa chấm điểm. Nhờ đó, với cùng một thời gian chấm
bài như nhau, loại trắc nghiệm khách quan thường có độ tin cậy cao hơn loại luận đề. Loại
trắc nghiệm tự luận đòi hỏi nhiều thời gian hơn để chấm bài, và điểm của cùng một bài thi
do nhiều giám khảo khác nhau, chấm sẽ khác nhau; ngay cả một giám khảo chấm cùng một
bài vào những lúc khác nhau sẽ có những đánh giá khác nhau. Tuy nhiên, độ tin cậy của loại
trắc nghiệm tự luận có thể gia tăng nếu chúng ta soạn trước những điểm nào cần đề cập đến
trong một câu trả lời đúng.
Một bài trắc nghiệm loại tự luận dễ soạn hơn loại trắc nghiệm khách quan và chỉ cần ít
câu hỏi. Tuy nhiên, nội dung mỗi câu hỏi nên được diễn tả một cách rõ ràng, chính xác để có
thể so sánh các câu trả lời một cách dễ dàng hơn. Mỗi câu hỏi cần có nội dung tương đối
tổng quát để những học sinh có sáng kiến có dịp tư duy và lí luận. Việc soạn các câu hỏi trắc
nghiệm khách quan cũng đòi hỏi nhiều công phu để các từ dùng được chính xác cũng như độ
khó của mỗi câu ở mức thích hợp, vừa phải. Với kinh nghiệm, thường ở một lớp 25 học sinh
hay ít hơn nên dùng loại câu hỏi tự luận để có lợi thời giờ hơn; trong lúc một lớp đông hơn,
việc dùng câu hỏi trắc nghiệm khách quan sẽ có lợi hơn.
Câu hỏi tự luận hay câu hỏi trắc nghiệm khách quan có những điểm đáng chú ý sau đây:
1. Về khả năng cho được:
-
Loại tự luận:
+ Học sinh có thể tự diễn đạt tư tưởng, câu văn, kiến thức và kinh nghiệm học tập đã
có.
+ Có thể đo lường khả năng suy luận, sắp xếp ý tưởng, suy diễn, so sánh và phân biệt.
+ Không đo lường kiến thức về sự kiện một cách hữu hiệu.
-
Loại trắc nghiệm khách quan:
+ Học sinh chọn một câu đúng nhất trong số các phương án trả lời cho sẵn hoặc viết
thêm một từ đến một câu để trả lời.
+ Có thể đo được những khả năng suy luận như sắp đặt ý tưởng, suy diễn, so sánh và
phân biệt.
+ Có thể kiểm tra và đánh giá kiến thức của học sinh về các sự kiện một cách hữu
hiệu.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
15
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
2. Lĩnh vực kiểm tra, đánh giá được:
-
Loại tự luận:
+ Có thể kiểm tra, đánh giá được một lĩnh vực nhỏ trong mỗi bài thi. Các câu trả lời
thường dài, tốn thời giờ, nên trong khoảng thời gian hạn định một bài thi chỉ có thể gồm một
ít câu hỏi. học sinh có thể tránh đề cập những điểm họ không biết rõ.
-
Loại trắc nghiệm khách quan:
+ Có thể bao gồm nhiều lĩnh vực rộng rãi trong mỗi bài thi. Với những câu hỏi bao
quát khắp nội dung chương trình giảng dạy, độ tin cậy trắc nghiệm tăng lên.
3. Ảnh hưởng đối với học sinh:
- Loại tự luận: khuyến khích học sinh sắp đặt và diễn đạt ý tưởng một cách hiệu quả.
- Loại trắc nghiệm khách quan: khuyến khích học sinh tích nhiều kiến thức, khả năng.
4. Công việc soạn thảo đề thi:
- Loại tự luận: Chỉ cần viết một ít câu hỏi cho mỗi bài kiểm tra hay bài thi. Đề bài phải
rõ ràng, phải cho học sinh một ít tự do diễn đạt ý tưởng, nhưng phải có một giới hạn cho câu
trả lời được chính xác.
- Loại trắc nghiệm khách quan: Có thể viết nhiều câu hỏi cho mỗi bài thi. Tránh dùng
những từ mơ hồ. Các câu trả lời để lựa chọn phải nhằm phần nào vào việc tìm hiểu những
việc học sinh thường ngộ nhận.
5. Công việc chấm điểm:
- Loại tự luận: việc chấm điểm thường mất nhiều thời giờ. Giáo viên có thể viết những
lời nhận xét trên bài làm của học sinh. Câu trả lời có thể được điểm khác nhau khi có nhiều
giám khảo khác nhau chấm.
- Loại trắc nghiệm khách quan: công việc chấm điểm nhanh chóng. Các câu trả lời
thường đọc chấm theo tiêu chuẩn đúng hay sai nên việc chấm điểm rất chính xác và thuần
nhất.
B. TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN
I. Đặc tính của trắc nghiệm tự luận
Loại câu hỏi tự luận hay luận đề gồm những câu hỏi có câu trả lời tự do hay tự do hạn
chế. học sinh được tự do diễn đạt tư tưởng và kiến thức nên phát huy được óc sáng kiến và
suy luận.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
16
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
Loại này thường được dùng khi giáo viên muốn học sinh tập viết văn, phán đoán và sắp
đặt ý tưởng. Nhưng khuyết điểm của loại này là khó chấm điểm, có độ tin cậy thấp nếu học
sinh được tự do viết câu trả lời.
Loại câu trắc nghiệm tự luận thứ hai giới hạn phần nào phạm vi và nội dung câu trả lời.
Thường câu trả lời là một đoạn văn ngắn. Việc chấm điểm sẽ dễ dàng hơn, và độ tin cậy cao
hơn loại câu hỏi tự luận cho học sinh nhiều tự do trả lời. Ví dụ 1:
a. Thử nêu vài giả thuyết để giải thích tại sao dựng nước phải đi đôi với giữ nước, phát
triển kinh tế phải kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh. Cho biết lí do tại sao anh ( hay
chị) nêu các giả thuyết ấy.
b. Bằng phương pháp suy luận, anh ( hay chị) hãy lựa chọn trong số các giả thuyết đã đề
nghị xem giả thuyết nào giải thích mối quan hệ kết hợp đúng nhất.
Trong ví dụ trên, học sinh phải lập nên các giả thuyết để giải thích tại sao dựng nước
phải đi đôi với giữ nước, phát triển kinh tế phải kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh
phải biện minh cho các giả thuyết, đề nghị phương pháp kiểm chứng, chọn lựa giả thuyết
hay nhất, và cho biết lí do lựa chọn. Như vậy, lúc chấm bài, giáo viên biết được câu trả lời
phải gồm những phần gì một cách rõ ràng hơn, và việc phán đoán để cho điểm cũng dễ dàng
hơn.
Tùy theo mục tiêu của mỗi chương trình hay môn học, và tùy theo mỗi trường hợp riêng
biệt, trắc nghiệm loại tự luận hay trắc nghiệm loại khách quan sẽ được chọn lựa sau khi cân
nhắc ưu khuyết điểm trong từng trường hợp.
1. Ưu điểm của loại câu hỏi tự luận hay luận đề
Dựa trên ý kiến của những nhà soạn câu hỏi trắc nghiệm, loại câu hỏi tự luận có những
ưu điểm sau:
a. Có thể dùng để kiểm tra, đánh giá:
+ Khả năng sắp đặt hay phác họa
+ Khả năng thẩm định
+ Khả năng lựa chọn các ý tưởng quan trọng và tìm mối quan hệ giữa các ý tưởng ấy
+ Khả năng sáng tạo
Loại câu hỏi luận có thể dùng kiểm tra đánh giá các mục tiêu liên quan đến thái độ, sự
hiểu biết những ý niệm, sở thích và tài diễn đạt tư tưởng.
b. So với loại trắc nghiệm khách quan, loại câu hỏi tự luận dễ soạn hơn. Tuy nhiên, một
câu hỏi tự luận rõ ràng, nhằm đo mục tiêu trí lực ở mức độ cao cũng đòi hỏi nhiều công phu
và thời gian soạn thảo.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
17
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
c. Các câu hỏi tự luận có thể dùng để trắc nghiệm thái độ. Thái độ ở đây được định hướng
như khuynh hướng của học sinh hành động theo một cách nào đó trong một trường hợp cụ
thể. Như vậy, thái độ phản ánh tính chất của một người khi được tự do viết, học sinh có thể
có thể cho biết họ đồng ý, phản đối hay không cần quan tâm đến một vấn đề, một ý tưởng,
một nhóm người, hay một tổ chức trong xã hội. Ví dụ:
Anh ( hay chị) hãy viết một bài khoảng 600 từ nói về truyền thống chống giặc ngoại xâm
của dân tộc ta..
Câu hỏi này chẳng những đòi hỏi học sinh sắp đặt ý tưởng còn cho họ một dịp để trình
bày về chủ nghĩa yêu nước, về lòng dũng cảm và lòng tự tôn dân tộc.
d. Loại câu hỏi tự luận khuyến khích cho học sinh có thói quen tập suy diễn, tổng quát
hóa, tìm mối tương quan giữa các sự kiện khi học bài hay soạn bài. Học sinh cũng tập làm
dàn bài hay tóm lược bài học. Tuy nhiên, các thói quen này cũng có thể đạt được với loại
trắc nghiệm khách quan nếu giáo viên biết đặt câu hỏi để đo lường những khả năng tư duy
thuộc những mức trí lực cao.
e. Loại trắc nghiệm tự luận khuyến khich sự phát huy óc sáng kiến. Khi học sinh tự mình
sáng tạo, giải quyết vấn đề theo đường hướng mới, hoặc tự do sắp đặt ý tưởng, óc sáng kiến
có cơ hội phát triển nhiều hơn khi chỉ chọn lựa những câu trả lời cho sẵn.
f. Loại câu hỏi tự luận còn tạo cơ hội cho học sinh luyện tập kỹ năng viết. học sinh có dịp
trao dồi lời văn, phương pháp chấm câu, sắp đặt ý tưởng để có thể diễn đạt tư tưởng một
cách hữu hiệu hơn.
2. Hạn chế của loại câu tự luận
- Độ tin cậy thấp. Độ tin cậy của một bài trắc nghiệm thấp khi số câu hỏi ít và việc chọn
mẫu câu hỏi thiếu tính chất tiêu biểu. Do đó, trong cùng khoảng thời gian để kiểm tra, hay
thi như nhau thì một bài trắc nghiệm tự luận có độ tin cậy thấp hơn một bài thi trắc nghiệm
khách quan. Thêm vào đó tính chất chủ quan khi cho điểm, cũng như thời gian đòi hỏi khi
chấm bài khiến độ tin cậy giảm.
Giá trị làm bài của mỗi học sinh cũng chịu ảnh hưởng của các bài thi giám khảo vừa đọc
trước đó ( quá hay hoặc quá dở), và tùy thuộc vào tâm trạng cùng sức khỏe của giám khảo
khi chấm bài. Chúng ta sẽ bàn đến những kĩ thuật cho điểm để làm tăng độ tin cậy của bài
kiểm tra hay bài thi loại tự luận trong phần sau.
- Đo giá trị thấp. Một bài trắc nghiệm có giá trị nhiều hay ít tùy thuộc theo bài ấy đo
được đúng những điều chúng ta muốn kiểm tra đánh giá hay không. Với loại câu hỏi tự luận,
yếu tố làm giảm độ giá trị của bài trắc nghiệm nhiều nhất là tính chủ quan lúc chấm bài. Ví
dụ: học sinh có thái độ đối với giáo viên như thế nào, chữ viết, lời văn hay dở cũng ảnh
hưởng đến điểm của bài kiểm tra, bài thi của học sinh ấy. Điểm của bài kiển tra trắc nghiệm
khách quan không bị những yếu tố này chi phối. Chúng ta có thể thử chấm một tập bài trong
hai lần cách nhau chừng hai tháng, hoặc nhờ một số giáo viên chấm lại tập bài, nhưng điểm
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
18
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
số mỗi lần chấm trên một tờ giấy riêng, chúng ta sẽ thấy yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến
điểm số như thế nào.
Do vậy, chúng ta cần nắm một số quy tắc căn bản để làm giảm bớt khuyết điểm của các
câu hỏi loại tự luận.
II. Phương pháp soạn câu hỏi tự luận hay luận đề
1. Trước khi bắt đầu viết câu hỏi phải định trước loại khả năng hay mức lực
cần thẩm định. Nếu loại mục tiêu nhằm đến có thể đo được nhờ trắc nghiệm khách quan thì
nên dùng trắc nghiệm khách quan để có độ giá trị và độ tin cậy cao hơn. Nên dùng câu hỏi tự
luận để trắc nghiệm khả năng của học sinh áp dụng những điều đã học để giải quyết vấn đề
mới, hay lập những hệ thức chưa trình bày trong lớp, hoặc khả năng viết văn, diễn đạt ý
tưởng.
2. Nên báo cho học sinh biết trước loại câu hỏi nào sẽ được dùng. Học sinh sẽ học
bài, ôn bài, hay soạn bài một cách thích ứng tùy theo loại câu hỏi sẽ dùng trắc nghiệm.
3. Nên định trước các mục tiêu và nội dung sẽ bao gồm trong bài kiểm tra, bài
thi. học sinh cần biết trước bài kiểm tra, bài thi sẽ gồm những câu hỏi về bài giảng, sách
giáo khoa, bài học thêm, bài thuyết trình, hay các bài thực hành trong phòng thí nghiệm.
4. Nên nhằm đến việc kiểm tra, đánh giá các mục tiêu quan trọng ở mức trí lực
cao. Nên dùng các từ " so sánh” " liên quan” " cho biết lí do” " trình bày các lí lẽ ủng hộ hay
chống lại” " cho một ví dụ mới về...” " giải thích tại sao” " làm thế nào” để học sinh lựa
chọn, sắp đặt và áp dụng những điều đã học, hơn là đòi hỏi những điều vụn vặt chỉ cần tí
nhớ. Không nên dùng các từ " người nào” " cái gì” "kể” " kê khai”. Các điều cần đến trí nhớ
có thể kiểm tra, đánh giá hữu hiệu bằng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
5. Không nên nhầm lẫn một bài trắc nghiệm để kiểm tra, đánh giá khả năng viết
văn với một bài để thẩm định các mục tiêu khác trong các môn khác.
6. Không nên dùng các từ " Anh ( chị) nghĩ gì " theo ý kiến của anh (chị)...” " anh
(chị) biết gì về...” để kiểm tra, đánh giá thành quả học tập của học sinh hay đánh giá khả
năng lí luận của học sinh như thế nào. Trong trường hợp này, điểm của bài thi sẽ không
căn cứ trên lập trường của học sinh mà chỉ tùy thuộc khả năng biện minh và chống đỡ cho
lập trường của mình.
7. Mỗi học sinh phải làm một số câu hỏi giống nhau. Việc để học sinh chọn năm,
sáu câu hỏi đã cho chẳng hạn sẽ gây khó khăn khi chúng ta cần so sánh khả năng các học
sinh trong cùng một lớp hay cùng nhóm, cùng học một chương trình như nhau.
8. Các câu hỏi loại tự luận phải rõ ràng và phải giới hạn các điểm cần trình bày
trong câu trả lời. Một câu hỏi quá tổng quát hay cần câu trả lời quá dài nên được phân chia
thành nhiều câu hỏi ngắn.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
19
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
Mét sè néi dung trong x©y dùng h×nh thøc kiÓm tra b»ng ph¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
bé m«n GDQP trong Nhµ trêng THPT
9. Nên tăng số câu hỏi. Số câu hỏi của mỗi bài thi có thể tăng lên bằng cách giảm
chiều dài của phần trả lời. Số câu hỏi nhiều hơn sẽ làm tăng độ tin cậy của bài trắc nghiệm.
10. Phải trù liệu cho học sinh có đủ thời giờ trả lời tất cả các câu hỏi. Một bài thi
loại tự luận không phải là một bài thi tốc độ viết nhanh. học sinh phải có thời giờ tìm hiểu,
suy nghĩ về câu hỏi và viết câu trả lời. Ngoại trừ các bài trắc nghiệm khả năng đọc hiểu, hay
khả năng đọc nhanh, phải dành đủ thời gian cho học sinh trả lời tất cả các câu hỏi trong bài
thi hay bài kiểm tra khác.
11. Các lời chỉ dẫn phương cách làm bài phải rõ ràng. Lời chỉ dẫn càng đơn giản
càng tốt, giáo viên phải nhắc học sinh đọc kỹ trước khi làm bài.
12. Không nên dùng cả trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan trong
cùng một bài kiểm tra hay bài thi khi thời gian làm bài có hạn. Việc dùng cả hai loại câu
hỏi sẽ khiến học sinh không đủ thời gian trả lời, và việc ghép điểm của hai phần cũng rất khó
khăn. Nên viết câu hỏi để đánh giá khả năng học sinh ở các mức trí lực khác nhau (biết,
hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, thẩm định).
III. Phương pháp chấm điểm loại câu tự luận
Để giảm bớt tính chủ quan và sai lệch trong khi chấm bài câu hỏi loại tự luận cần lưu ý:
1. Ấn định trước các yếu tố cần được kiểm tra, đánh giá. Giáo viên phải ấn định trước
sẽ chấm bài theo cấu trúc tổng quát, toàn diện hay phân tích từng yếu tố. Phương pháp chấm
bài dựa trên cấu trúc tổng quát, toàn diện hay phân tích từng yếu tố. Phương pháp chấm bài
dựa trên cấu trúc tổng quát, toàn diện thường được áp dụng để đánh giá các bài biên khảo,
niên luận, khóa luận hay luận văn tốt nghiệp... Trong phương pháp chấm bài theo lối phân
tích, giám khảo sẽ chú ý riêng từng yếu tố như bố cục, lời văn, nội dung... Giám khảo sẽ
phân loại các bài trên từng yếu tố theo phương pháp trình bày ở phần trên. Cho điểm trên
một yếu tố xong, giám khảo sẽ xáo các bài lại và đánh giá mỗi bài theo yếu tố khác.
Điểm cần lưu ý là nếu bài kiểm tra, hay bài thi có đích đánh giá sự hiểu biết, kiến thức
về các sự kiện, hay khả năng áp dụng, phân tích, tổng hợp phán đoán, chúng ta đừng để các
yếu tố như cách chấm câu, lỗi chính tả... ảnh hưởng hay che lấp các điều đang được khẳng
định.
2. Đánh giá câu trả lời tương ứng với mỗi câu hỏi trên tất cả các bài làm trước khi
chấm sang câu trả lời khác. Khi chỉ xét một câu hỏi mỗi lúc chúng ta sẽ cho điểm các bài
làm theo một tiêu chuẩn đều tay hơn. Chúng ta sẽ có dịp so sánh câu trả lời của học sinh này
với câu trả lời của học sinh khác trên cùng một vấn đề. Đồng thời, với mỗi học sinh, chúng
ta tránh để giá trị của câu trả lời trước (quá hay hoặc quá kém) ảnh hưởng đến sự đánh giá
câu trả lời sau.
3. Nên soạn trước câu trả lời mẫu, nêu rõ những điểm nào cần được trình bày và
định trước số điểm cho mỗi yếu tố. Câu trả lời mẫu được dùng làm chuẩn để đánh giá các
câu trả lời của học sinh, nhưng có thể được thay đổi ít nhiều sau khi đọc một số bài làm.
Giáo viên: Lê Xuân Vũ
20
Tổ: Thể dục –QP
Trường THPT Vĩnh Định
- Xem thêm -