Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Một số nội dung giảng dạy chuyên sâu chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chi...

Tài liệu Một số nội dung giảng dạy chuyên sâu chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 1939) cho học sinh giỏi

.DOC
29
1428
143

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ THAM DỰ HỘI THẢO TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ NỘI DUNG GIẢNG DẠY CHUYÊN SÂU CHUYÊN ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919 - 1939) CHO HỌC SINH GIỎI 1 A. MỞ ĐẦU *** I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các trường THPT Chuyên là công tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi. Có thể nói đây là công việc thường xuyên và cũng là nhiệm vụ đầy khó khăn của khối các trường THPT Chuyên; ngược lại, số lượng và chất lượng giải HSG là tiêu chí hàng đầu đánh giá năng lực của các cá nhân và tập thể (các trường), các địa phương, các vùng, miền… Bởi vậy, bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung, bồi dưỡng HSG môn Lịch sử nói riêng cho các kì thi chọn HSG là vấn đề luôn được các cấp quản lí, các giáo viên trực tiếp giảng dạy quan tâm và trăn trở.… Đối với bộ môn Lịch sử, do mang tính đặc thù bộ môn và do các yếu tố khách quan mà nhiệm vụ bồi dưỡng HSG càng trở nên khó khăn và phức tạp. Trong những năm qua chúng tôi đã nỗ lực hết sức để nâng cao số lượng và chất lượng HSG, những thành quả bước đầu chúng tôi đạt được tuy còn khiêm tốn song đã mang tính khả quan. Qua thực tiễn giảng dạy chúng tôi rút ra những nhận định và tổng kết được một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG. Theo tôi, để hoạt động bồi dưỡng HSG có hiệu quả thì phải tự đánh giá những thuận lợi và khó khăn, ưu điểm và hạn chế; phải tìm được giải pháp, phải coi trọng yếu tố con người (thầy – trò), trên cơ sở đó lựa chọn các phương pháp phù hợp. Trên cơ sở giảng dạy, bồi dưỡng cho học sinh tôi nhận thấy Quan hệ quốc tế là một trong những nội dung quan trọng của chương trình lịch sử, là phần giới hạn không thể thiếu của nội dung ôn thi tốt nghiệp THPT, thi đại học và thi học sinh giỏi các cấp. Vì vậy, vấn đề phương pháp dạy và ôn tập cho học sinh giai đoạn lịch sử này cần được hết sức chú trọng đặc biệt là kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tôi cũng như nhiều anh chị em đồng nghiệp khác đều gặp khó khăn bởi đây là nội dung khó, kiến thức hàn lâm nhiều mà trong chương trình sách giáo khoa Lịch sử 11 phần Quan hệ quốc tế từ 1919 - 1945 không được biên soạn thành bài hay một chương cụ thể mà nội dung nằm rải rác trong các mục nhỏ ở các chương VII: Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921 - 1941), chương VIII: Các nước tư bản chủ nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 - 1939) và chương X: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) với rất nhiều sự kiện chồng chéo…Do vậy, khi giảng dạy và bồi dưỡng đội tuyển HSG, người giáo viên phải tập hợp và hệ thống kiến thức từ những chương trên, chọn lọc những nội dung liên quan để làm rõ cho học sinh Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939) căng thẳng, chồng chéo và phức 2 tạp như thế nào. Đây là lí do tôi lựa chọn đề tài: “Một số nội dung chuyên sâu khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 1939) cho học sinh giỏi” trong Hội thảo các trường THPT Chuyên khu vực Duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ lần XIX. 2. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ: Nội dung của đề tài này không nằm ngoài mục đích đưa ra một số giải pháp thực hiện việc lựa chọn nội dung giảng dậy, xây dựng hệ thống câu hỏi ôn tập trong dạy học Lịch sử chuyên đề “Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 -1939)” để nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức chuẩn, chuyên sâu về, nguyên nhân của các cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX, về mối quan hệ giữa các quốc gia …và tác động của tình hình thế giới đến Việt Nam trong giai đoạn này. Từ đó, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh, nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Sử, góp phần quan trọng trong việc trang bị kiến thức cần thiết cho học sinh. Hình thành cho học sinh niềm vui thích khi học Lịch sử từ đó có thể tự học tự tìm hiểu một vấn đề lịch sử, qua đó phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh đặc biệt là khối học sinh chuyên Sử. 3 B/NỘI DUNG I/ MỘT SỐ NỘI DUNG CHUYÊN SÂU CỦA CHUYÊN ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919 – 1939. 1. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ nhất Trước hết chúng ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế sau chiến tranh thế giới I. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục của chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới đặc biệt là đối với châu Âu. Chiến trường chính của cuộc chiến tranh diễn ra ở châu Âu, vì thế các cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của Mĩ. Italia, một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, áo - Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc Đức và Áo - Hung bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.  Trong khi đó các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật, không bị tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây.  Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế giới tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội nghị hoà bình được triệu tập. Hệ thống hoà ước Véc-xai và sau đó là Hệ thống hiệp ước Oa-sinh-tơn đã được ký kết nhằm tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới. 1.1. Hệ thống hòa ước Véc – xai : Hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ngày 18 - 1 - 1919 các nước thắng trận đã họp Hội nghị hoà bình tại Véc – xai (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp). Tham dự hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điều khiển hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là Tổng thống Mĩ Wilson, Thủ tướng Anh Lloyd George và Thủ tướng Pháp Clemenceau. Đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để kí vào các hoà ước do 4 các nước thắng trận quyết định. Riêng nước Nga không được mời tham gia hội nghị. Vấn đề Nga không được đưa vào chương trình nghị sự nhưng nó là nỗi ám ảnh đối với các nước đế quốc. Ngay từ trước khi hội nghị bắt đầu, các nước đã thảo luận vấn đề Nga và đi đến thỏa thuận sẽ tăng cường can thiệp vũ trang và ủng hộ lực lượng phản động để chống lại chính quyền Xô viết. Hội nghị Véc - xai kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ Wilson đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ với những nội dung cơ bản như sau: 1. Đưa ra những hiệp định rõ ràng, không bí mật. 2. Tự do thông thương của các đại dương. 3. Bãi bỏ các rào cản kinh tế. 4. Cắt giảm vũ khí. 5. Dàn xếp các yêu sách của thuộc địa theo quyền lợi của các dân tộc bị trị. 6. Quân Đức rút khỏi Nga, quyền tự do về chính sách quốc gia cho Nga. 7. Quân Đức rút khỏi Bỉ, Bỉ là nước độc lập. 8. Quân Đức rút khỏi Pháp, Alsace-Loraine thuộc về Pháp. 9. Điều chỉnh biên giới Italia. 10. Các dân tộc của đế quốc Áo có quyền tự quyết. 11. Quân Đức rời khỏi Rumani, Serbia và Montenegro, Serbia có một lối đi ra biển. 12. Các dân tộc của đế quốc Ottoman có quyền tự quyết, eo biển Dardanelless cho phép tàu của mọi quốc gia. 13. Ba Lan độc lâp, có một lối đi ra biển. 14. Thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ như “Các hòa ước kí kết công khai”, “Hoàn toàn tự do đi lại trên mặt biển”, “Hạn chế vũ khí tới mức tối thiểu”, “Tôn trọng quyền phát triển tự lập của các dân tộc”... Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối 5 thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Wilson được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Véc xai. Các nước Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản đòi được thay thế Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc, dự định chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu á Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Balkan. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những yêu cầu mở rộng lãnh thổ của mình. Là chủ tọa của hội nghị và vốn là một chính khách lão luyện, thủ tướng Pháp Clêmăng-xô đã nhìn thấy sự phức tạp và quyết liệt trong cuộc tranh giành, phân chia quyền lực giữa các cường quốc. Với nước Pháp, ông nhấn mạnh: “Chiến tranh ta đã thắng rồi. Giờ hòa bình ta cũng phải thắng lợi, không chừng khó khăn hơn”. Mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giữa các nước tham dự Hội nghị Véc - xai, đặc biệt là giữa các cường quốc trở nên gay gắt, có tới 3 lần Hội nghị có nguy cơ tan vỡ. Đây là hòa ước có sự sắp đặt rất khắc khe của các cường quốc đối với 1 một nước Đức bại trận. Lê -nin đã bình luận hết sức mỉa mai về Hội nghị này: "Chúng muốn quyết định xem cho ai nhiều than hơn, thế là chúng cãi cọ trong suốt 5 tháng nay, chúng không còn kiềm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại cái đuôi". Cuối cùng vào tháng 3/1919, các văn kiện của Hội nghị đã lần lượt được ký kết với 15 phần gồm 432 điều. Phần I gồm 26 điều nói về Hội Quốc liên, các phần còn lại gồm 406 điều nói về các hòa ước kí với Đức và các nước bại trận khác. a. Sự thành lập hội Quốc liên . Một trong những vấn đề cơ bản đầu trên được các nước tham dự Hội nghị Véc-xai nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên, được thành lập theo tinh thần và nội dung của Điểm 14 trong "Chương trình 14 điểm" của Wilson. Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế... Ngày 10 - 1 - 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập. Về cơ cấu tổ chức: 6 Hội Quốc liên có 3 tổ chức chính: + Đại hội đồng (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9) + Hội đồng thường trực (gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần) + Ban thư ký thường trực (do Tổng thư ký đứng đầu) thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên, đóng trụ sở ở Geneve. + Ngoài ra các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn (HCR) Về mục đích hoạt động: Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện pháp quân sự. Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Véc-xai. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Wilson nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực hiện trong Hội nghị Véc - xai. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này. b. Hoà ước Véc – xai với Đức. 7 Hoà ước Véc - xai với Đức kí ngày 28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của hệ thống hoà ước Véc – xai, đã quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng định nước Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Andat - Loren (mà Pháp cắt nhượng cho Đức trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ 1870 - 1871); nhường cho Bỉ khu Ơpen Man-mơ-đi và Moresnet; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sơlexvit (Sleswig) - mà Thủ tướng Đức Bismarck chiếm được trong cuộc chiến tranh Đức - Đan Mạch 1864; cắt cho Ba Lan vùng Pomerania và một “hành lang chạy ra biển”..., một số nơi khác tùy thuộc vào trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm được trong cuộc phân chia Ba Lan vào thế kỷ XVIII. Đồng thời, thành phố cảng Đăngdich (nay là Gdansk, Ba Lan) và đảo Hengôlan sẽ do Hội quốc liên quản trị. Đây là một trong những điều khoảng khiến người dân Đức tức giận nhất, họ không chỉ bất mãn vì việc tách vùng Đông Phổ ra khỏi nước Đức bằng một "hành lang" cho Ba Lan thông ra biển, mà còn ghét bỏ người Ba Lan - người mà họ xem như "người hạ đẳng" - không hơn, không kém. Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy Hòa ước (điều 231) buộc tội họ là nước duy nhất phải chịu trách nhiệm chính là người gây ra cuộc chiến này, và đòi họ phải giao Wilhelm II (người phát động cuộc chiến) và khoảng 800 tội phạm chiến tranh khác cho các nước Hiệp ước để họ xét xử, còn các nước đế quốc khác thì dường như "vô tội". Ngoài ra, hạt Xa rơ của Đức cũng giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết định hạt Xa-rơ sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Xa-rơ đã thuộc về nước Đức). Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí. Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền (do Hội nghị Luân Đôn tháng 4 - 1921 qui định) là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước Vécxai đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Véc-xai không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với 8 sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30. Việc hòa ước Véc - xai được công bố vào ngày 7/5/1919 đã gây ra một sự phản ứng mạnh mẽ không chỉ trong chính phủ, quân đội, mà còn lan ra toàn thể người dân Đức. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận nó và cho rằng nó là hòa ước "vô lý"; còn nhân dân Đức thì ủng hộ, hậu thuẫn chính phủ nhiệt tình trong cuộc đấu tranh này. Vài ngày sau, khi bị Đồng minh bắt phải ra ngay quyết định cuối cùng, Chính phủ đã họp lại nội các và quân đội và 4 ngày sau, quốc hội Đức mới chính thức ký vào văn kiện Hòa ước Véc - xai. Việc ký kết hòa ước này gây sự phản ứng rất mạnh mẽ ở nhiều nơi. Ở Liên Xô, khi nghe tin hòa ước được ký kết, Lê-nin đã nhận xét: "Đấy là một thứ hòa ước kỳ quái, một thứ hòa ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những con người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận". Đồng thời ở Pháp, Thống chế Foch, viên tướng Pháp có nhiều công lao lớn trong Thế chiến I, đã không ngừng phản đối Clê – măng-xô rất kịch liệt và không bằng lòng với những nội dung Hòa ước đã ký với Đức, ông ta cũng dự báo về những thất bại của Hòa ước đó. Ông cho rằng "Đây không phải là một Hòa ước. Đây là một Thỏa ước ngừng bắn trong vòng 20 năm” c. Các hoà ước khác. Cùng với hoà ước Véc - xai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt được kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920. - Hoà ước Xanh – Giecmanh: kí với Áo ngày 10 - 9 - 1919 - Hoà ước Trianong kí với Hunggari ngày 4-6-1920 Với những hòa ước này, đế quốc Áo - Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc áo - Hung cũ đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc Áo - Hung: Rumani được thêm vùng Bukovine và Transylvanie, Italia được thêm vùng Trentin - Istrie, Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galicia thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga. Ở bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc Ôttôman cũng được quyết định. - Với hoà ước Nơi - y kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, 9 cắt vùng Thrace cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng Dédéagatch và lối ra biển Egée và cắt tỉnh Dobroudja cho Rumani. Ngoài ra, Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp cho các nước láng giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư, Hi lạp, Rumani) 37.000 gia súc lớn, 33.000 gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá 20.000 người. - Hoà ước Xevrơ với Thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 - 8 - 1920 đã chính thức xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc Ottoman. Syria, Libăng, Palextin và Irắc tách khỏi thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và Pháp. Ai Cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh. Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ Istambul và vùng ngoại ô). Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm soát của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản. Như vậy, toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Véc - xai. Đây là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Trật tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh. Anh chẳng những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển vẫn được giữ vững. Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên, những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Véc - xai đối với các nước chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của giới cầm quyền Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo ở Washington. 1.2. Hệ thống Hiệp ước Oa-sinh-tơn (1921 – 1922): Hội nghị Véc-xai kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa các cường quốc thắng trận đặc biệt là mâu thuẫn trong quan hệ Anh - Mĩ và Mĩ - Nhật. Các nguyên nhân dẫn đến việc ký hòa ước này là: - Hòa ước Véc-xai không giải quyết được mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, ngay cả trong nội bộ các nước đế quốc. + Trên thực tế, Anh là nước có nhiều quyền lợi hơn cả, được giữ vững hệ thống thuộc địa và không cho một đế quốc nào khác mạnh hơn và qua mặt mình. + Pháp và Nhật cũng giành được nhiều quyền lợi qua Hệ thống hòa ước Véc-xai. + Mỹ chưa giành được quyền lợi nào đáng kể. Vấn đề phân chia quyền lực và phạm vi ảnh hưởng ở khu vực Viễn Đông và Thái Bình Dương còn chưa được giải quyết. 10 Cụ thể, Mỹ rất bất bình trước việc Anh, Pháp làm cho Đức quá suy yếu. Về bồi thường chiến tranh, trong khi Anh, Pháp đòi Đức bồi thường 480 - 600 tỉ mac, Đức chấp nhận 100 tỉ mac, thì Mỹ chỉ chấp nhận có 200 tỉ mac mà thôi. Chính giới Mỹ cũng bất bình khi Hiệp ước Véc-xai quyết định trao Sơn Đông cho Nhật, là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mỹ ở Viễn Đông. Ngày 12 - 11 - 1921, Hội nghị Washington được khai mạc với sự tham gia của 9 nước: Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Nước Nga Xô viết - một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự hội nghị. Quyền lãnh đạo hội nghị nằm trong tay bốn nước: Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị Washington được thể hiện trong ba hiệp ước: Hiệp ước 4 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật) , Hiệp ước 9 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc) và Hiệp ước 5 nước (Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia). a) Hiệp ước 4 nước: Được gọi là Hiệp ước “không xâm lược ở Thái Bình Dương” kí ngày 13-12-1921 và có giá trị trong 10 năm. Các bên thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở vùng Thái Bình Dương” thực ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu vực rộng lớn này. Đồng thời cũng nhân dịp này Mĩ gây áp lực với Anh để liên minh Anh - Nhật (được kí kết từ năm 1902) không còn hiệu lực nữa (điều 4). Với Hiệp ước này, Mĩ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh - Nhật mà còn trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương. b) Hiệp ước 9 nước kí ngày 6 - 2 - 1922, gồm 9 điều, công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa” và “khả năng đồng đều” cho các nước trong các hoạt động thương mại và công nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, một công ước đặc biệt được ký kết thống nhất thuế hải quan của Trung Quốc với tỉ lệ bằng 5% giá trị hàng hóa, và Trung Quốc không được tăng thuế lên mức 12,5%. Tóm lại với hiệp ước này, Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Đặc biệt là Mĩ đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung Quốc. c) Hiệp ước 5 nước kí kết cùng ngày 6-2-1922, được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương theo tỉ lệ: 5 - 5 - 3 - 1,75 - 1,75 (cụ thể: Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000 tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn). Đồng thời các nước này cũng qui định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và tầu tuần dương hạm. 11 Với hiệp ước này, Mỹ giành được quyền bình đẳng hải quân với Anh với nguyên tắc "sức mạnh gấp đôi" bị phá vỡ, Nhật cũng giành được thắng lợi quan trong khi 5 nước tuyên bố không xây dựng các căn cứ quân sự ở Thái Bình Dương, giúp nó nắm ưu thế trên vùng biển rộng lớn này. Hội nghị Oa-sinh-ton hoàn toàn có lợi cho Mĩ, trong khi nước Anh phải chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc “sức mạnh quân sự gấp đôi” đã có từ năm 1914, theo đó hải quân Anh phải có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại, đồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh - Nhật. Từ đây hải quân Mĩ ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ còn thực hiện được việc xâm nhập vào thị trường viễn Đông và Trung Quốc thông qua chính sách “mở cửa”. Như vậy, với hệ thống Hiệp ước Oa-sinh-tơn, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở Châu Á - Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. Kết hợp với hệ thống Hoà ước Véc -xai, các hiệp ước của Hội nghị Oasinh-tơn đã tạo nên Hệ thống Véc xai – Oa sinh tơn. Đó là trật tự thế giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mĩ giành được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch” theo cách nói của Lênin. Nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành những nước thoả mãn và những nước bất mãn với hệ thống này, tạo nên mầm mống của những cuộc xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài bốn năm (1914 - 1918) với những tổn thất nặng nề cho toàn nhân loại, hoà bình đã được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn. 2. Quan hệ quốc tế trong thập niên 20 của thế kỉ XX a) Các hội nghị quốc tế về hoà bình, an ninh tập thể và giải trừ quân bị Bước vào thập niên 20, nhìn chung các nước tư bản đều bước vào thời kì ổn định và đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế (1924 - 1929). Sự ổn định về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản đã tác động không nhỏ đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế. Sau Hội nghị Véc xai - Oasinhton, hàng loạt các hội nghị quốc tế về các vấn đề hoà bình, an ninh tập thể, giải trừ quân bị... đã diễn ra trong khuôn khổ hệ thống Véc xai Oasinhton. * Hội nghị Giênova: Một trong những hội nghị quốc tế lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đến lúc bấy giờ, diễn ra từ 4 -10 đến 19 5 - 1922 với sự tham gia của đại biểu 29 nước trên thế giới (Mĩ không chính thức tham gia mà chỉ cử quan sát viên tham dự). Nước Nga Xô viết lần đầu tiên chính thức được mời tham dự. Hội nghị bàn về những vấn đề kinh tế - tài chính của tất cả các nước Châu Âu sau chiến tranh, trong đó “vấn đề Nga” là vấn đề gây tranh cãi nhiều 12 nhất. Do những bất đồng về việc giải quyết những khoản nợ của Nga hoàng và chính phủ lâm thời tư sản Nga (các nước đế quốc đòi Nga bồi thường đến 18 tỉ rúp vàng là khoảng nợ của Sa hoàng và chính phủ lâm thời Nga đã nợ mình), cùng với vấn đề bồi thường chiến tranh cho nước Nga xô viết (Nga Xô viết tính toán, đưa ra con số mà đế quốc phải bồi thường là 39.450.000 rúp vàng, nhưng bị Anh bác bỏ), Hội nghị Gienova hầu như không đạt được kết quả đáng kể nào. Trong khi đó, bên lề hội nghị Gienova, hai nước Đức và Nga đã kí kết Hiệp ước Rapallo (16 - 4 - 1922) nhằm khôi phục lại các quan hệ ngoại giao, cam kết từ bỏ các khoản nợ và bồi thường chiến tranh (điều 116 của hòa ước Vecxai), quốc hữu hóa các tài sản sở hữu nhà nước, đồng thời áp dụng chính sách tối huệ quốc cho các quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Mặc dù bị đồng minh phản đối kịch liệt, nhưng Đức vẫn quyết tâm thực hiện vì chỉ có nó mới giúp Đức tồn tại, đứng vững và tạo đà phát triển mạnh về sau này. * Hội nghị Lô –dan: cuối năm 1922, trước những chuyển biến quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở Thổ Nhĩ Kì, các nước tư bản phương Tây triệu tập một Hội nghị quốc tế ở Lô-dan (Thuỵ Sĩ) để bàn về việc kí kết một hiệp ước hoà bình mới với Thổ Nhĩ Kì và những vấn đề khác liên quan đến các eo biển ở vùng biển Hắc Hải. Hội nghị khai mạc ngày 20 - 11 - 1922 với sự tham gia của các quốc gia có liên quan đến những vấn đề khác nhau của hội nghị. Liên quan đến vấn đề kí hoà ước mới với Thổ Nhĩ Kì có sự tham gia của các nước Anh, Pháp, ý, Nhật, Rumani, Hi Lạp, Nam Tư và Thổ Nhĩ Kì. Là một cường quốc ở vùng biển Hắc Hải, nước Nga xô viết đã chủ trương phải đảm bảo an ninh chung, cấm tất cả các tàu thuyền các nước không được qua lại thường xuyên ở 2 eo biển Đác đa nen và Bôxpho trong thời chiến lẫn thời bình, nhưng tự do hóa cho các tàu buôn. Dưới sự chi phối của các nước Anh, Pháp, Ý, Hiệp ước về eo biển Đác đa nen và Bôxpho ở vùng biển Hắc Hải đã được ký kết, theo đó vùng eo biển sẽ được phi quân sự hoá và các loại tàu thuyền được tự do qua lại. Hiệp ước này trên thực tế đã ảnh hưởng đến an ninh của các nước vùng biển Hắc Hải nói chung và nước Nga xô viết nói riêng chính vì vậy chính quyền Xô viết đã phủ quyết hòa ước này. Hòa ước hoàn toàn mất hiệu lực. * Hội nghị Lôcacnô : được tổ chức từ ngày 5 đến 16 - 10 – 1925 với mục đích xây dựng một nền an ninh tập thể ở châu Âu trong khuôn khổ hệ thống Véc xai Oasinhton, một hội nghị quốc tế giữa các nước tư bản châu Âu đã được triệu tập. Hội nghị đã kí kết hệ thống hiệp ước Locarno (143 điều), bao gồm: + Hiệp ước đảm bảo chung (còn gọi là hiệp ước đảm bảo Rhenanie) giữa Anh, Pháp, Đức, Italia và Bỉ + Các hiệp ước Pháp - Đức, Đức - Bỉ, Đức - Tiệp, Đức - Ba Lan về trọng tài và các hiệp ước đảm bảo Pháp - Ba Lan và Pháp - Tiệp. 13 Các hiệp ước nói trên là sự cam kết đảm bảo đường biên giới giữa các nước có liên quan; phi quân sự hóa vùng Rhenanie theo những điều khoản của Hệ thống Vecxai. Trong trường hợp Đức xâm chiếm vùng phi quân sự này, các nước ký hiệp ước có toàn quyền, kể cả dùng vũ lực để chống lại (điều 2). Đồng thời, cũng tại hội nghị này các nước đã đi đến thoả thuận đồng ý để nước Đức tham gia Hội Quốc Liên (tuy nhiên phải đến tháng 9 - 1926 Đức mới trở thành viên chính thức của Hội Quốc Liên). Tất cả các hiệp ước trên đây hợp thành Hệ thống Hiệp ước Lôcarno được tổ chức ký chính thức ở London vào ngày 1 - 12 – 1925 Với việc kí kết hệ thống hiệp ước Lôcacno và việc nước Đức tham gia Hội Quốc Liên, mâu thuẫn giữa các cường quốc phương Tây dường như dịu đi và các chính khách tư sản, các nhà báo đã tán tụng nó và người ta đã nói tới việc mở đầu “một kỉ nguyên xích lại gần nhau trên thế giới”. Hiệp ước trên đã giáng cho các liên minh của Pháp những thất bại nặng nề và Pháp cũng từ đó mất hết hy vọng làm suy yếu Đức sau hiệp ước Vecxai. Với việc ký hiệp ước trên, Đức đã thoát dần ra khỏi vị trí là nước bại trận, vươn lên bình đẳng về chính trị - kinh tế với các nước và "hợp pháp hóa" địa vị trên trường quốc tế. Còn Anh và Mỹ thì tỏ ra hài lòng về Hệ thống hiệp ước này, bởi một mặt, hệ thống này khống chế được Pháp, buộc Đức ràng buộc vào các cam kết nhất định đối với các cường quốc phương Tây, mặc khác nó tạo điều kiện để sử dụng Đức trong các ý đồ chống Liên Xô. Như vậy, sự kiện các hiệp ước Xô - Đức, Lôcacno, Thổ Nhĩ Kì và Đức gia nhập Hội Quốc Liên...đã làm sáng lên những tia hy vọng về một nền hòa bình có cơ may được xác lập ở châu Âu và trên toàn thế giới. Trong bối cảnh lòng tin vào an ninh tập thể lên đến đỉnh cao mà tháng 4 - 1927, Ngoại trưởng Pháp Aristide Briand đề nghị với Ngoại trưởng Mĩ Frank B. Kellogg về việc Pháp và Mỹ ký một hiệp ước "hữu nghị vĩnh viễn, theo đó hai nước cam kết từ bỏ việc chiến tranh như là một phương tiện chính trị quốc gia". Ngày 27 - 8 - 1928 tại Pari đã diễn ra lễ ký kết Hiệp ước từ bỏ chiến tranh nói chung. Hiệp ước này đã được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng và có tới 57 quốc gia kí kết tham gia, trong đó có Liên Xô. Mặc dù được đánh giá là “đánh dấu đỉnh cao của làn sóng hoà bình trong thập niên 20,” nhưng thực tế cho thấy việc đặt niềm tin vào hiệp ước này là “một ảo tưởng nguy hiểm” bởi lẽ chỉ vài ngày sau khi kí kết hiệp ước Briăng – Ken lốt giơ, Anh và Pháp đã tiến hành kí kết ngay một thoả hiệp riêng rẽ vấn đề vũ khí Hòa bình và an ninh tập thể trong khuôn khổ trật tự Vecxai – Oa sinh tơn, Hội Quốc Liên là rất mong manh, xa vời. Những diễn biến tiếp theo trong quan hệ quốc tế thập niên 30 sẽ tiếp tục chứng minh điều đó. b) Vấn đề thực hiện Hoà ước Vecxai kí với Đức. 14 Việc thực hiện các điều khoản của Hoà ước Versailles kí với Đức chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm 20 của thế kỉ XX. Về vấn đề bồi thường chiến tranh, Hội nghị Luân Đôn ngày 30 - 4 - 1921 đã qui định số tiền bồi thường của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả từ mùa hè năm 1921. Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng diễn ra ở Đức đã khiến cho nước này không có khả năng thực tế để trả món nợ đó. Sau việc liên quân Pháp - Bỉ chiếm đóng vùng Rua (11 - 1 - 1923), nơi sản xuất 90% sản lượng than và 70% sản lượng gang của nước Đức, không mang lại hiệu quả trong vấn đề bồi thường của Đức, một Hội nghị quốc tế đã được triệu tập ở Luân Đôn để xem xét lại vấn đề này. Hội nghị Luân Đôn khai mạc ngày 16 - 7 - 1924 với sự tham gia của các đại diện Anh, Pháp, Italia, Nhật, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Rumani, và Mĩ (về danh nghĩa Mĩ chỉ tham gia với một số quyền hạn chế nhưng trên thực tế Mĩ có ảnh hưởng lớn trong Hội nghị). Hội nghị Luân Đôn đã thông qua kế hoạch Đao-oét có giá trị trong vòng 5 năm với nội dung chủ yếu là Mĩ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục hồi và phát triển kinh tế - tài chính để nước này có khả năng trả được các khoản bồi thường chiến tranh theo lịch trình được Uỷ ban 5 nước Anh, Pháp Mĩ, Italia qui định như sau:  Năm thứ nhất trả 1 tỉ mác vàng  Năm thứ hai: 1,22 tỉ mác vàng  Năm thứ 3: 1,2 tỉ mác vàng  Năm thứ tư: 1,75 tỉ mác vàng  Từ năm thứ năm: mỗi năm 2,5 tỉ mác vàng. Với kế hoạch Đao-oét, Pháp đã phải có những nhượng bộ quan trọng: + Pháp phải rút khỏi vùng Rua (năm 1925) việc giải quyết vấn đề bồi thường chiến tranh đã tuột khỏi tay Pháp chuyển sang tay người Mĩ. Mĩ và Anh có điều kiện mở rộng ảnh hưởng về kinh tế - tài chính vào nước Đức. Kế hoạch Đao-oét đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức. Những trận “mưa đô la” từ Mĩ và Anh qua kế hoạch này đã tạo điều kiện trang bị những kĩ thuật hiện đại và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức. Từ khi bắt đầu thực hiện kế hoạch đến năm 1929, Đức đã nhận viện trợ của Mĩ, Anh để vay, tín dụng và đầu tư vào công nghiệp khoảng 20 - 25 tỉ mac vàng. Số tiền viện trợ đó không những đủ để trả nợ cho các đế quốc thắng trận (Đức trả lại cho họ tới 11 tỉ mac) mà còn đủ để phát triển kinh tế của mình. Năm 1929, tổng sản lượng công nghiệp Đức đạt 113% mức trước chiến tranh, vượt qua Anh, Pháp. Cũng trong năm 1929, kế hoạch Đao-oét lại được điều chỉnh theo hướng giảm bớt gánh nặng bồi thường chiến tranh cho Đức. Sau một thời gian dài thảo luận, 15 tháng 8 - 1929, Hội nghị quốc tế của 12 nước tư bản họp ở La Hay đã chính thức thông qua kế hoạch Young. Theo đó số tiền bồi thường của Đức giảm xuống còn 113,9 tỉ mác vàng và được trả trong thời hạn kéo dài tới 60 năm, đồng thời quân đội chiếm đóng của Pháp, Bỉ sẽ phải rút khỏi vùng Rênani trước ngày 30 - 6 - 1930. Đến đây, uỷ ban bồi thường đã chấm dứt hoạt động, thay vào đó Ngân hàng thanh toán quốc tế sẽ chịu trách nhiệm theo dõi việc trả tiền bồi thường chiến tranh của Đức. Như vậy, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Anh và Mĩ với ý đồ sử dụng Đức như một con đập ngăn làn sóng cách mạng có khả năng tràn sang phía Tây từ Liên Xô, chỉ trong một thời gian ngắn nước Đức chẳng những đã phục hồi nhanh chóng mà còn tăng cường tiềm lực kinh tế - quân sự của mình. c. Quan hệ quốc tế của nước Nga Xô viết sau Cách mạng tháng Mười Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Xô viết non trẻ đã chủ trương thực hiện một chính sách đối ngoại hoà bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ giữa các quốc gia. Vấn đề nóng bỏng trước mắt là phải nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến tranh thế giới mà trước đây Nga hoàng tham gia. Trong đêm 26 - 10 - 1917, vào lúc 23 giờ, tại phiên họp thứ hai Đại hội II các Xô viết toàn Nga, Sắc lệnh hoà bình đã được thông qua. Với Sắc lệnh này, Nhà nước Xô viết tuyên bố “Chiến tranh đế quốc là tội ác lớn nhất chống lại loài người” và “đề nghị nhân dân tất cả các nước tham chiến và các chính phủ của họ tiến hành ngay những cuộc đàm phán về một hoà ước dân chủ và công bằng ”. Đồng thời, trong công hàm gửi tới Đại sứ của các nước Đồng minh ở Nga ngày 8 - 11 - 1917, Chính phủ Xô viết “một lần nữa khẳng định về đề nghị ngừng bắn và ký kết một hoà ước dân chủ, không có thôn tính và bồi thường trên cơ sở quyền tự quyết của các dân tộc”. Tuy nhiên, các Chính phủ Anh, Pháp, Mĩ đã bác bỏ đề nghị hoà bình và quyết định không quan hệ với chính quyền Xô viết, thậm chí còn đe dọa có hành động quân sự nếu nước Nga kí hòa ước riêng với Đức. Về phía mình, nước Nga xô viết chủ trương nhanh chóng rút ra khỏi chiến tranh đế quốc vì đất nước đã bị tàn phá nặng nề, nhân dân quá mệt mỏi và điều có ý nghĩa quyết định là phải có hòa bình để củng cố chính quyền non trẻ. Chính quyền Xô viết không thể chờ đợi sự đồng tình của các nước Anh, Pháp, Mĩ và quyết định đàm phán riêng với Đức. Về phía Đức: cũng như các nước đế quốc, nước Đức không chấp nhận sự tồn tại của nhà nước Xã hội chủ nghĩa nhưng vào lúc này, nước Đức đang gặp nhiều khó khăn trên cả hai mặt trận phía Đông và phía Tây; ở trong nước phong trào phản đối cách mạng dâng cao mạnh mẽ... Đức nhận lời đàm phán với nước Nga xô viết. 16 Sau những diễn biến căng thẳng và phức tạp của tình hình chiến sự, ngày 3 - 3 1918 Hoà ước Bret – Litốp đã được kí kết với những điều kiện hết sức nặng nề đối với nước Nga. Theo đó, nước Nga phải cắt đi một bộ phận lãnh thổ rộng lớn (diện tích 750.000 km2 với hơn 50 triệu dân, bao gồm Ba Lan, Latvia, Litva, Estonia, Belarus, Ucraina, Phần Lan) và phải trả khoản tiền bồi thường 6 tỉ mác cho Đức. Lênin gọi đây là “một hoà ước bất hạnh”, nhưng nhờ đó mà nước Nga đã rút ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc để đương đầu với những thử thách ác liệt nhằm bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ. Cũng trong thời gian này, các nước đế quốc đã tập hợp lực lượng, phối hợp hành động với mưu đồ bóp chết nước Nga Xô viết. Cuối tháng 11 - 1917 đại diện của các nước đế quốc, trong đó bốn nước Mĩ, Anh, Pháp, Nhật giữ vai trò chủ yếu, đã họp tại Pari để bàn bạc về biện pháp thực hiện mưu đồ đó. Đại diện các nước tư bản đã thông qua nghị quyết không công nhận nước Nga Xô viết, thoả thuận về việc ủng hộ cho các lực lượng phản cách mạng ở Nga và phân chia nước Nga thành các khu vực ảnh hưởng của mình. Theo đó, Anh sẽ nắm quyền kiểm soát vùng Kavkaz, Armenia, Gruzia và vùng sông Đông; Pháp chiếm Bessarabia, Crưm và Ucraina; Mĩ và Nhật nắm khu vực Xibia và Viễn Đông... Trải qua ba năm chiến đấu cực kì gian khổ và khốc liệt, quân đội và nhân dân Xô viết đã lần lượt đánh bại các lực lượng thù trong, giặc ngoài, giữ vững nền độc lập, tự chủ của đất nước. Cũng trong thời gian này, nhà nước Xô viết đã công nhận quyền tách ra của Ucraina, công nhận độc lập của Phần Lan, Ba Lan ; xoá bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng của Chính phủ Nga hoàng trước đây đối với Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư (Iran) và nhiều nước khác. Trong quan hệ quốc tế, Chính phủ Xô viết đã phản đối gay gắt tính chất nô dịch của các hoà ước, nhất là Hoà ước Véc-xai. Lênin cho rằng: “Đấy không phải là hoà ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận”. Bị thất bại trong việc dùng lực lượng quân sự, các nước phương Tây quay sang thực hiện chính sách cô lập về chính trị và bao vây về kinh tế với Nga. Theo sáng kiến của Anh, năm 1922 một hội nghị kinh tế thế giới được triệu tập với sự tham gia của 29 nước tư bản. Mục đích của hội nghị là bàn việc phục hồi nền thương mại quốc tế, nhất là đối với kinh tế các nước Trung và Đông Âu, nhưng cuối cùng vấn đề Nga và việc bồi thường lại trở thành nội dung chủ yếu của hội nghị. Lần đầu tiên được mời chính thức tham dự Hội nghị quốc tế Gienova, đoàn đại biểu Xô viết đã đưa ra đề nghị về việc thiết lập các quan hệ ngoại giao và kinh tế, thực hiện chung sống hoà bình và tiến hành giải trừ quân bị. Nước Nga Xô viết sẵn 17 sàng bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hợp tác cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình. Các nước phương Tây đòi nước Nga xô viết phải thanh toán các khoản nợ trước đây của chính phủ Nga hoàng và cả chính phủ tư sản lâm thời Kê ren xki, trả lại các tài sản đã bị quốc hữu hóa cho các nhà đầu tư nước ngoài...tổng số khoản nợ là 18,4 tỉ Rúp vàng. Phía nước Nga xô viết tuyên bố sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đó, nhưng các nước phương Tây phải bồi thường những khoản thiệt hại do cuộc vũ trang can thiệp của họ gây ra trong những năm 1918 – 1920, ước tính 39 tỉ Rúp vàng. Hội nghị Gienova bế tắc và thất bại. Tuy vậy, việc Nga và Đức ký kết Hiệp ước Rapallo đã giáng một đòn chí mạng vào âm mưu bao vây, cô lập nước Nga của các cường quốc phương Tây, đồng thời đánh dấu một thắng lợi ngoại giao cực kỳ quan trọng của Nhà nước Xô viết. Đức trở thành nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Nga. Những năm tiếp theo, nước Nga Xô viết (từ tháng 12 - 1922 là Liên Xô) đã từng bước phá vỡ chính sách cô lập của các nước phương Tây và khẳng định vị trí quốc tế của mình. Đến năm 1925, trải qua hơn 7 năm tồn tại và khẳng định vị thế của mình, Liên Xô đã được hơn 20 quốc gia trên thế giới, trong đó có các cường quốc Anh, Pháp, Italia, Nhật chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao. Mặc dù mối quan hệ này còn phải trải qua nhiều bước thăng trầm đầy khó khăn, căng thẳng nhưng thực tế đã khẳng định vai trò, uy tín ngày càng cao của Liên Xô và những thắng lợi to lớn của nền ngoại giao Xô viết non trẻ 3.2. Con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai Vào cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục phát xít do Đức, Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch chiến tranh từ đầu những năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ bắt đầu quá trình này vào những năm cuối thập niên 30. Hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề thị trường và quyền lợi nhưng đều thống nhất với nhau trong mục đích chống Liên Xô, tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Điều đó được thể hiện trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản với chủ nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng thế giới. Như vậy trong quan hệ quốc tế đã diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng căng thẳng và chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xô, Khối trục phát xít và Khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã 18 lan tràn khắp từ Âu sang Á, từ Thượng Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi. a) Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình thức là cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng phát xít Phrancô, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế. Vấn đề không chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban Nha. Đức và Italia đã trực tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancô chống lại Chính phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược cho kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi, châu Á và Đại Tây Dương. Trong bối cảnh đó, các chính phủ Anh, Pháp đã thi hành chính sách cực kỳ nguy hại - “không can thiệp”, tuyên bố cấm xuất khẩu vũ khí và vật liệu chiến tranh sang Tây Ban Nha. Họ đã bỏ mực nước Cộng hòa Tây Ban Nha trước bè lũ phát xít. Ngày 9 - 9 - 1936, “Uỷ ban về vấn đề không can thiệp” được thành lập. Mĩ không chính thức tham gia vào Uỷ ban này nhưng trên thực tế cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha. Trong khi không áp dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức và Italia ở Tây Ban Nha, chính sách “không can thiệp” của Anh, Pháp, Mĩ về thực chất là hành động thoả hiệp với các lực lượng phát xít chống nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Liên Xô là nước đứng về phía nước Cộng hoà Tây Ban Nha trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Mặc dù lúc đầu Liên Xô đã tham gia Uỷ ban về các vấn đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và Italia đã khiến Liên Xô phải hành động. Cả đất nước Xô viết tham gia phong trào ủng hộ nước Cộng hoà Tây Ban Nha: số tiền quyên góp đã lên tới 47 triệu rúp. Đồng thời, Liên Xô còn tham gia trong lực lượng tình nguyện quốc tế chiến đấu bảo vệ nước Cộng hoà đến từ 53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so sánh lực lượng quá chênh lệch, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc với thất bại của Chính phủ Cộng hoà. Ngày 28 - 3 - 1939, lực lượng Franco với sự hỗ trợ của quân đội Italia đã chiếm thủ đô Madrid. Sự sụp đổ của nền Cộng hoà Tây Ban Nha cho thấy mối đe doạ đối với nền hoà bình ở châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng hơn. b) Hội nghị Muynich (9 - 1938) Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị chiến tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc quân sự. Tháng 3 - 1938, Đức tiến hành thôn tính Áo và thông qua đạo luật sáp nhập Áo vào Đức, vi phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Vecxai. Hành động ngang ngược của Hitler đã không 19 gặp phải trở ngại nào đáng kể từ phía các cường quốc tư bản phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị không được khuyến khích Áo kháng cự, trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt. Liên Xô là nước duy nhất lên án hành động xâm lược trắng trợn đó của phát xít Đức. Sau khi chiếm Áo, Đức chĩa mũi súng đe dọa và chuẩn bị thôn tính Tiệp Khắc, một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị lục địa châu Âu. Để thôn tính Tiệp Khắc, Hitle đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Xuyđét" - vùng đất ở Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những diễn biến phức tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng Xuyđét ra khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu Âu. Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của Hitler. Điều này đã gây nên một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp Khắc và đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng tham mưu Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung quân ở biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc Liên thảo luận những biện pháp để bảo vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị các chính phủ Anh, Pháp gạt bỏ. Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và Italia đã tham dự Hội nghị Muynich (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc. Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến để nghe kết quả. Hiệp ước Muynich qui định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Xuyđét (trong vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp, chính phủ tư sản Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Muyních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với nhiều công trình quân sự quan trọng. Để đổi lại, Hítle đã kí với Anh bản Tuyên bố không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6 12 - 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Từ đó, cụm từ “chính sách Muyních” đã đi vào lịch sử quan hệ quốc tế như một chính sách tiếp tay cho bọn xâm lược, phản bội lại lợi ích sống còn của các dân tộc để đổi lấy một nền hòa bình ích kỷ với bọn xâm lược. Hiệp ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. Trên thực tế, “chính sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản thân hai 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan