Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật thơ điền viên đời đường...

Tài liệu Một số nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật thơ điền viên đời đường

.PDF
62
320
87

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN THỊ HƢƠNG MAI MỘT SỐ NÉT ĐẶC SẮC NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT THƠ ĐIỀN VIÊN ĐỜI ĐƢỜNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN THỊ HƢƠNG MAI MỘT SỐ NÉT ĐẶC SẮC NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT THƠ ĐIỀN VIÊN ĐỜI ĐƢỜNG Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: Ths. Hà Thị Hải SƠN LA, NĂM 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ Văn (đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lí luận - Văn học nước ngoài) đã tạo điều kiện ủng hộ và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, ThS. Hà Thị Hải đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và động viên, tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể lớp K54 Đại học Sư phạm Ngữ Văn, các cán bộ ở bộ phận thư viện Trường Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ em trong quá trình sưu tầm tài liệu để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, nghiên cứu khoa học. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2017 Tác giả Nguyễn Thị Hƣơng Mai MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 2.1. Ở Trung Quốc ......................................................................................... 2 2.2. Ở Việt Nam ............................................................................................. 4 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................. 6 3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 6 3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6 3.3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 7 3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7 4.1. Phương pháp khảo sát thống kê ............................................................... 7 4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp ............................................................ 7 4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu .............................................................. 7 5. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 8 6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 8 CHƢƠNG 1. ĐẶC SẮC NỘI DUNG THƠ ĐIỀN VIÊN ĐỜI ĐƢỜNG ......... 9 1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 9 1.1.1. Nội dung tác phẩm văn học .................................................................. 9 1.1.2. Hình tượng nghệ thuật ........................................................................ 10 1.1.3. Thơ điền viên ..................................................................................... 11 1.2. Những hình tượng tiêu biểu trong thơ điền viên đời Đường ..................... 12 1.2.1. Cánh đồng .......................................................................................... 13 1.2.1.1. Cánh đồng lúa ....................................................................... 14 1.2.1.2. Cánh đồng cỏ ......................................................................... 16 1.2.2. Vườn .................................................................................................. 18 1.2.2.1. Vườn hoa ............................................................................... 18 1.3.2.2. Vườn cây ăn quả .................................................................... 20 1.3.3. Ao ...................................................................................................... 22 1.2.4. Con vật ............................................................................................... 24 1.2.5. Con người .......................................................................................... 26 Tiểu kết ........................................................................................................ 28 CHƢƠNG 2. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT THƠ ĐIỀN VIÊN ĐỜI ĐƢỜNG . 29 2.1. Khái niệm hình thức tác phẩm văn học ..................................................... 29 2.2. Những phương diện nghệ thuật cơ bản của thơ điền viên đời Đường ....... 30 2.2.1. Điểm nhìn........................................................................................... 30 2.2.2. Ngôn ngữ ........................................................................................... 32 2.2.2.1. Hàm súc ................................................................................. 33 2.2.2.2. Hệ thống từ vựng phong phú .................................................. 34 2.2.2.3. Giàu tính nhạc, họa ............................................................... 37 2.2.2.4. Một số biện pháp nghệ thuật khác.......................................... 41 2.2.3. Thể loại .............................................................................................. 45 2.2.3.1. Thể bát cú ............................................................................. 45 2.2.3.2. Thể tuyệt cú............................................................................ 48 2.2.3.3. Thể cổ thi ............................................................................... 50 Tiểu kết ........................................................................................................ 51 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 56 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Gần 3000 năm trước đây, ở đất nước tươi đẹp nơi phù sa hai con sông vĩ đại Hoàng Hà và Dương Tử bồi đắp nên, người ta đã nghe văng vẳng những lời ca nồng đượm mà thanh tao, ngọt ngào mà trang nhã, tình tứ mà phiêu du: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” (Quan thư Kinh thi). Phải chăng vì thế mà nhân loại gọi đất nước ấy là xứ sở của thi ca. Nói đến thơ cổ điển Trung Quốc, người ta chỉ hay nói đến thơ Đường. Thơ ca đời Đường như một vườn hoa trăm sắc nở rộ với nội dung phong phú, đa dạng, hoàn mỹ và nghệ thuật thơ trác việt. Trong thế giới Đường thi ấy, thơ điền viên là mảng thơ khá nổi bật với tên tuổi của những thi nhân kiệt xuất như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… Mảng thơ này cùng với thơ biên tái, thơ sơn thủy, thơ du tiên, du hiệp, thơ vịnh vật, vịnh sử… đã tạo nên diện mạo kính vạn hoa thống nhất, đa dạng và sức sống mãnh liệt, sinh khí tràn trề của thi ca đời Đường. Tìm hiểu về thơ điền viên đời Đường không những giúp mỗi chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về nội dung và nghệ thuật của mảng thơ này nói riêng mà còn mở rộng được kiến thức đối với thơ ca đời Đường nói chung, từ đó phần nào hiểu được tại sao thơ ca thời Đường lại có vai trò quan trọng trong việc “làm nên thời đại hoàng kim” của thơ ca cổ điển Trung Quốc. 1.2. Lí do thứ hai thôi thúc khiến tôi lựa chọn đề tài này xuất phát từ sự yêu thích của tôi đối với thơ điền viên đời Đường. Thơ điền viên đời Đường hay và trong sáng, hình ảnh được miêu tả cũng như không gian trong thơ vô cùng gần gũi, thân thuộc nên khi đọc ta dễ dàng hình dung, tưởng tượng và cảm nhận được những vẻ đẹp của thiên nhiên, của cảnh vật hay đơn giản là vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống sinh hoạt hằng ngày từ đó thấy được thông điệp tư tưởng, tình cảm trong sáng mà tác giả muốn gửi gắm vào trong đó. Càng đọc ta lại càng thấy yêu thích nó hơn, càng muốn chìm đắm thêm chút nữa trong không gian điền viên lãng mạn tươi đẹp ấy. Chiêm ngưỡng, cảm nhận cái đẹp cũng là một cách để ta thư giãn, hưởng thụ cuộc sống. 1 1.3. Thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình văn học ở trường Phổ thông, Cao đẳng, Đại học và ngày càng trở nên hấp dẫn đối với các thế hệ độc giả. Đó chính là động lực khiến người viết tiếp tục tiếp bước cuộc hành trình văn học đến với thơ ca đời Đường qua đề tài “Thơ điền viên đời Đường”. Đặc biệt là đã có một số bài thơ điền viên đời Đường được tìm hiểu trong chương trình Đại học và Trung học phổ thông, đồng thời cũng có nhiều bài thơ trong văn học Việt Nam có liên quan đến đề tài điền viên cho nên việc tìm hiểu đề tài này sẽ giúp ta có thêm kiến thức bổ sung vào sự am hiểu về thơ ca Trung Quốc, liên hệ và bổ sung thêm kiến thức mở rộng cho văn học trung đại Việt Nam, lấy đó làm tư liệu để tham khảo giảng dạy trong nhà trường phổ thông sau này. 2. Lịch sử vấn đề Với nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc, thơ điền viên đời Đường đã trở thành đối tượng tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu ở Trung Quốc cũng như Việt Nam: 2.1. Ở Trung Quốc Trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc của Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc (Dư Quan Anh - Tiền Chung Thư - Phạm Ninh chủ biên) các tác giả chỉ mới dừng lại ở việc khái quát về sự phân chia trường phái và tính kế thừa của phái sơn thủy điền viên: “Sự phân chia các trường phái theo đề tài… như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ sơn thủy điền viên” và nhận định: “Các nhà thơ sơn thủy điền viên kế thừa truyền thống nghệ thuật của Tạ Linh Vận và Đào Uyên Minh. Trong việc phản ánh vẻ đẹp thiên nhiên cũng như trong kỹ xảo miêu tả họ có phát triển thêm và làm cho phong phú hơn” [1, 415]. Ở đây các tác giả cho rằng sự phân biệt giữa hai đề tài sơn thủy (sông núi) và điền viên (ruộng vườn) là không rõ nét vì chúng đều nói về thiên nhiên, về cảnh vật tự nhiên của thế giới khách quan. Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc (Ngô Vinh Chính - Vương Miện Quý chủ biên) xác định thời Thịnh Đường thơ Trung Quốc có hai phái thơ chính trong đó một phái là “phái điền viên do Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy làm chủ 2 chốt, chuyên miêu tả cảnh ruộng vườn nhàn tản…” [4, 205]. Như vậy, ở đây tác giả đã đề cập tới đối tượng chính mà thơ điền viên đời Đường hướng tới. Chuyên luận Đường thi học dẫn luận của Trần Bá Hải khẳng định: “Trên thi đàn Thịnh Đường quần tinh lấp lánh, có hai trào lưu đặc biệt thu hút sự chú ý của mọi người, một là trào lưu thơ biên tái… hai là trào lưu thơ sơn thủy điền viên do Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Trừ Quang Hy làm đại diện. Thơ sơn thủy điền viên tổng hợp truyền thống vịnh tả điền viên của Đào Uyên Minh và tả cảnh sơn thủy của Tạ Linh Vận nhưng biến đổi thêm, lấy tình thú điền viên thưởng thức sơn thủy, lại lấy nhãn quan sơn thủy để thưởng thức điền viên” [11, 141]. Như vậy ở đây tác giả vừa nói lên được vị trí của thơ điền viên trong dòng chảy thơ Đường vừa đề cập đến cảm hứng khi miêu tả và cảm nhận thiên nhiên của các thi nhân đời Đường. Các tác giả của sách Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc nhận xét về các nhà thơ điền viên: “Về mặt nghệ thuật, thơ họ ngày càng tinh tế. Thông qua việc miêu tả cảnh sắc điền viên, họ bộc lộ tấm lòng tha thiết đối với cuộc sống yên tĩnh và lòng mến yêu phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Qua đó họ cũng nói lên nỗi buồn khi có tài mà không gặp vận và sự oán ghét đối với bọn quan trường hủ bại” [17, 1177]. Tác giả cuốn Khái yếu văn học lịch sử Trung Quốc cho rằng tác phẩm của các thi nhân điền viên “phần lớn phản ánh tâm tư tình cảm nhàn tản, ẩn dật, màu sắc thanh đạm, tình ý sâu xa, sử dụng nhiều hình thức cổ thể năm chữ và thơ luật năm chữ” [16, 242]. Lâm Ngữ Đường trong Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa còn đặc biệt đề cao nghệ thuật ấn tượng của thi phái điền viên đến mức cho rằng riêng kỹ thuật tả cảnh của thi phái này đã thâu gọn cả đặc trưng nghệ thuật của thơ Trung Hoa. Khi nhận xét về đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ điền viên, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đều có ý kiến tương đối thống nhất, họ đánh giá rất cao về dòng thơ này trong việc biểu hiện đời sống tinh thần con người thông qua những phương tiện nghệ thuật độc đáo. 3 2.2. Ở Việt Nam Về mảng thơ điền viên đặc sắc đời Đường mà Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đại diện, các nhà nghiên cứu Việt Nam phần nhiều đều dựa theo quan niệm của các tác giả Trung Quốc: Nhận xét về thơ điền viên đời Đường, Lê Nguyễn Lưu trong cuốn Đường thi tuyển dịch đã viết: “Một số nhà thơ có khuynh hướng thoát ly nhìn nông thôn bằng con mắt Lão - Trang, vẽ ra khung cảnh ruộng vườn phù hợp với tâm trạng nhàn dật của họ. Thiên nhiên ở đó chưa chan khí vị đạo học, trong sáng êm đềm… Những cảnh sinh hoạt nông thôn cũng được họ miêu tả đầy đủ, nhưng công việc điền gia không có gì lam lũ, vất vả mà xem ra lại nhẹ nhàng, hấp dẫn” [22, 126 -127]. Trong cuốn giáo trình Lịch sử văn học Trung Quốc các tác giả Trương Chính, Trần Xuân Đề, Nguyễn Khắc Phi cũng nhận xét thơ tả cảnh của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là “thứ thơ sơn thủy điền viên của những người siêu thoát, nhàn nhã, tách rời cuộc sống xã hội” [3, 11]. Trần Trung Hỷ trong chuyên luận Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc cho rằng: “Thơ điền viên là thơ lấy cảnh nông thôn, loại cảnh quan nhân vi (tức cảnh vật do bàn tay con người tái tạo sắp xếp) làm đối tượng thẩm mỹ chính, về tâm lý tỏ ra an nhiên, tự tại, ổn định” [18, 11]. Và theo tác giả, đối tượng chủ yếu của thơ điền viên là cảnh nông thôn mang tính nhân tạo, thể hiện ý thức quy ẩn theo mô hình xã hội nông nghiệp cổ truyền, bình lặng và ổn định. Trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 1), Lê Huy Tiêu có nhắc tới thơ điền viên đời Đường nhưng vẫn chỉ là ở vấn đề phân chia trường phái thơ này theo phương diện về đề tài và phương pháp sáng tác. Trong đó theo đề tài, ông nhận thấy thơ điền viên đời Đường được chia làm hai nhánh, một nhánh tiến bộ, tích cực gần với thơ xã hội miêu tả đúng thực trạng nghèo nàn, khốn khổ của hiện thực nông thôn, một nhánh bao gồm một số tác giả có tư tưởng tiêu cực có khuynh hướng thoát ly, ông viết: “Các nhà thơ của thời kỳ này như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên… là nhà thơ sơn thủy điền viên…tư tưởng của họ lại mang nhân tố tiêu cực trốn tránh hiện thực…” [28, 415]. Còn dựa 4 trên phương pháp sáng tác thì ông lại chia thành hai nhánh: trường phái thơ lãng mạn với đại diện tiêu biểu là Lí Bạch và trường phái thơ hiện thực mà đại diện tiêu biểu là Đỗ Phủ. Chuyên luận đầu tiên ở nước ta nghiên cứu có chiều sâu về riêng mảng thơ điền viên đời Đường đó là luận án Thơ điền viên đời Đường của tác giả Đỗ Thị Hà Giang. Luận án này đã đưa ra khái niệm “thơ điền viên đời Đường”, nhấn mạnh những đặc điểm riêng biệt của nó, khác với thơ điền viên Trung Hoa nói chung, cũng khác với thơ điền viên đời Tấn và thơ điền viên đời Tống của những tên tuổi trứ danh như Đào Uyên Minh, Phạm Thành Đại trong lịch sử thơ điền viên Trung Quốc: “Thơ điền viên đời Đường là thơ miêu tả cảnh sắc tự nhiên và không gian sinh hoạt của chủ thể trữ tình chủ yếu ở nơi ruộng vườn thôn dã nhằm biểu đạt tâm thức ẩn dật, an nhiên, thanh thản, thoát tục” [9, 49]. Từ hướng tiếp cận văn hóa, luận án này cho thấy cội nguồn sâu xa làm nảy sinh một hiện tượng có thể xem là “đặc sản” của nền văn hóa và văn học Trung Hoa - thơ điền viên - từ lúc phôi thai đến thời kỳ phát triển thành một dòng thơ nổi tiếng đời Đường. Những quan niệm về thiên nhiên và chốn điền viên từ triết học, tôn giáo, phong tục tập quán và tâm linh của người Trung Hoa đã có ảnh hưởng khá sâu đậm tới đặc trưng thơ điền viên và tâm thức của thi nhân. Ở nước ta nhìn chung cho tới nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu mang tính chuyên biệt đề cập đến thơ điền viên đời Đường với tư cách một loại hình độc đáo dù người ta đã bàn rất nhiều đến thơ điền viên như một trường lưu không thể thiếu trong nguồn chảy bất tận của Đường thi. Đa số các nhà nghiên cứu ghép thơ điền viên với thơ sơn thủy thành một dòng gọi là thơ sơn thủy điền viên và đánh giá nó là một dòng thơ nổi bật đời Đường với nhiều thành tựu xuất sắc. Luận án của tác giả này đặc biệt quan tâm tới sự kết hợp hài hòa của nội dung và nghệ thuật thơ điền viên để tạo nên những cảnh giới nghệ thuật độc đáo, đi sâu khám phá đặc trưng cơ bản, cốt lõi của thơ điền viên trên ba phương diện: miêu tả cảnh sắc điền viên, phác họa cuộc sống ẩn dật và tâm thức của thi nhân. Cảnh sắc tự nhiên và không gian sinh hoạt trong thơ điền viên đời Đường không 5 đơn thuần chỉ giới hạn ở phạm vi nông thôn mà bao hàm cả cảnh sắc điền viên như ruộng, vườn, đồng, bãi… và cảnh sắc sơn thủy như sông, núi, suối, khe… Hầu hết các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và Việt Nam đều ghi nhận sự xuất hiện nổi bật của phái thơ điền viên đời Đường. Các ý kiến đều đánh giá cao đặc trưng nội dung, nghệ thuật của thơ điền viên, khẳng định đóng góp quan trọng của thi phái này trong sự phát triển rực rỡ của thơ Đường. Song những khẳng định đó mới chỉ dừng ở mức độ khái quát về trường phái thơ điền viên đời Đường, nếu có tìm hiểu cụ thể hơn về thơ điền viên đời Đường thì cũng chỉ theo đúng bút pháp thủy mặc trứ danh trong hội họa Trung Hoa, nghĩa là chỉ chấm phá vài nét. Mặc dù đã có công trình nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam về thơ điền viên đời Đường, đó là luận án của tác giả Đỗ Thị Hà Giang, song luận án này lại không đi sâu phân tích những đặc điểm nội dung và nghệ thuật cơ bản của thơ điền viên đời Đường. Chính vì vậy, với quy mô của một khóa luận, chúng tôi xin được khảo sát, tìm hiểu cụ thể hơn về vấn đề này để người đọc có thể nắm bắt được chi tiết hơn về nội dung đặc sắc và nghệ thuật thơ trác việt của thơ điền viên đời Đường. 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nội dung và nghệ thuật thơ điền viên đời Đường qua các bài thơ đã được dịch ra tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu một số nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thơ điền viên đời Đường. Phạm vi khảo sát là cuốn Đường Thi tuyển dịch, tập I, II của Lê Nguyễn Lưu (NXB Thuận Hóa, 1997). Dòng thơ điền viên đời Đường có nhiều đại diện xuất sắc nhưng ở khóa luận này người viết chỉ chọn thơ của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch làm đối tượng nghiên cứu chính bởi vì đây là những đại diện xuất sắc nhất của dòng thơ này, ngoài ra chúng tôi còn nghiên cứu và khảo sát thêm một số tác giả khác: Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vi Ứng Vật, Lí Thân… 6 3.3. Mục đích nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu thơ điền viên đời Đường nhằm khám phá con đường tạo ra sức hấp dẫn bền bỉ không phai nhạt trong tâm thức độc giả. Qua việc tìm ra nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thơ điền viên đời Đường, người viết hi vọng giúp các bạn có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về mảng thơ nổi tiếng này. 3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận có nhiệm vụ làm sáng rõ những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong thơ điền viên đời Đường. Trong quá trình thực hiện khóa luận chúng tôi sẽ đi vào phân tích những bài thơ tiêu biểu về đề tài điền viên và mang giá trị nghệ thuật cao trong thơ điền viên đời Đường. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu theo các phương pháp sau: 4.1. Phƣơng pháp khảo sát thống kê Đây là phương pháp quan trọng, cần thiết được người viết tiến hành trong quá trình thực hiện đề tài dựa vào những khảo sát cụ thể để chứng minh cho những nhận định đánh giá về thơ điền viên đời Đường. Phương pháp này cho phép chúng ta tập hợp, phân loại được hệ thống dẫn chứng, những chi tiết có giá trị nghệ thuật cao, các hình ảnh qua đó làm sáng tỏ, tăng sức thuyết phục cho luận điểm. 4.2. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Đây là phương pháp được sử dụng thường xuyên trong quá trình triển khai khóa luận. Phương pháp này được xem là chủ đạo giúp phân biệt một cách rạch ròi và làm sáng tỏ các luận điểm lớn, nhỏ rồi từ đó đi sâu và từng chi tiết cụ thể. 4.3. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu So sánh sự tương đồng, khác biệt, so sánh đồng đại - lịch đại, đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ đối chiếu nhau để bổ sung, hỗ trợ làm nổi bật đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong thơ điền viên đời Đường. 7 5. Đóng góp của khóa luận Khóa luận góp phần chỉ ra cụ thể hơn, đầy đủ hơn một số đặc sắc nội dung và nghệ thuật thơ điền viên đời Đường. Khóa luận sẽ là một trong những tài liệu học tập và nghiên cứu về thơ ca điền viên đời Đường cho các bạn quan tâm và yêu mến thơ ca Trung Quốc. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận bao gồm 2 chương: Chương 1: Đặc sắc nội dung thơ điền viên đời Đường Chương 2: Đặc sắc nghệ thuật thơ điền viên đời Đường 8 CHƢƠNG 1. ĐẶC SẮC NỘI DUNG THƠ ĐIỀN VIÊN ĐỜI ĐƢỜNG Trong thơ điền viên đời Đường, các thi nhân khi miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và không gian sinh hoạt của chủ thể trữ tình chủ yếu ở nơi ruộng vườn thôn dã nhằm biểu đạt tâm thức ẩn dật, an nhiên, thanh thản, thoát tục đã triển khai thông qua rất nhiều hình tượng tiêu biểu của vùng quê nông thôn, những hình ảnh mà ta chỉ có thể bắt gặp, chỉ tìm thấy nơi làng quê. Trong chương này, sau khi trình bày một số khái niệm và khái quát chung về thơ điền viên đời Đường, chúng tôi tiến hành tìm hiểu một số hình tượng tiêu biểu trong thơ điền viên đời Đường. 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Nội dung tác phẩm văn học Theo Lê Bá Hán - Trần Đình Sử: “Tác phẩm văn học là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, hình tượng, ngoài ra còn có thể kể thêm các yếu tố: nhân vật, cốt truyện… đối với tác phẩm tự sự và kịch. Ở những tác phẩm văn học có giá trị có sự kết hợp hài hòa và tác động qua lại giữa các yếu tố ấy khiến tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật mang tính thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa nội dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật” [14, 290]. Nội dung tác phẩm văn học là sự giải thích cuộc sống, làm sao cho nó tốt hơn bằng cách chỉ ra cái đúng, cái sai của cuộc sống đó, song song với việc tái hiện lại hiện thực đó để đạt tới mục đích tiến bộ, cải tạo hiện thực. Truyện Kiều của Nguyễn Du giải thích bi kịch của nàng Kiều là vì xã hội. Đó là xã hội phong kiến thối nát, quan lại bóc lột, đồng tiền lũng đoạn, lấn át mọi giá trị đạo đức. Chỉ khi nào xã hội bất công đó bị xóa bỏ thì con người mới có được cuộc sống hạnh phúc. Nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau, trong đó có phần nhà văn khái quát, tái hiện đời sống khách quan vừa có phần bắt nguồn từ cảm xúc huyết mạch, lý tưởng của tác giả. Ví dụ: những tác phẩm về đề tài người nông dân của 9 Nam Cao phản ánh chân thực, sâu sắc tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường phá sản, bần cùng hóa, không lối thoát vào những năm 1930 - 1945. Những gia đình nông dân không nhà nào yên ấm, nhà nào cũng tan tác, chia lìa, bất hạnh gõ cửa từng nhà… với những cái chết trong sự ngột ngạt của cuộc sống nghẹt thở đã đến mức tận cùng của sự bế tắc. Nội dung tác phẩm văn học không phải là phép cộng giản đơn của hai phương diện khách quan và chủ quan mà là một quan hệ biện chứng xuyên thấm lẫn nhau của chúng. Người sáng tác “phải làm sao cho người đọc không phải phát phiền với các tư tưởng trên sân khấu, mà là mang theo được những tư tưởng khi rời khỏi nhà hát” [23, 251]. Người đọc khi đọc xong vở kịch Rômêô và Juliet của Sêcxpia, cái dư vị của tình yêu cao đẹp vượt lên trên thù hận giữa Rômêô và Juliet, dư vị của tình người, tình đời theo lý tưởng của chủ nghĩa nhân văn của tác giả sẽ lắng mãi trong tâm hồn độc giả. Như vậy nội dung của tác phẩm văn học là sự nhuần nhuyễn giữa nhận thức và tình cảm với tư tưởng. Đó là mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa khách quan và chủ quan. 1.1.2. Hình tƣợng nghệ thuật Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, hình tượng nghệ thuật là “các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật”, nghĩa là việc người nghệ sĩ “làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình đời, tình người qua một chất liệu cụ thể” [14, 147]. Hình tượng là một dạng kí hiệu đặc biệt, siêu ngôn ngữ ẩn chứa những tầng ý nghĩa phong phú, muôn màu về cuộc sống xung quanh. Con người không thể tách mình ra khỏi thế giới ấy, vì thế hình tượng luôn tồn tại trong tiềm thức mỗi cá nhân, cộng đồng dân tộc. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của thế giới hình tượng trong đời sống văn học nghệ thuật từ lâu đã cắm sâu vào gốc rễ nhận thức của con người. Do đó để khám phá ra thế giới tâm hồn của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu về thế giới hình tượng, ví dụ như hình tượng cánh đồng Nga gợi lên hình ảnh của nước Nga, vẻ đẹp Nga, tâm hồn 10 Nga... Để qua từng tác phẩm ta lại cảm nhận được nét văn hóa độc đáo lẫn tâm sự kìm nén của người viết. Có thể nói những hình ảnh biểu tượng trong thơ điền viên đời Đường đã góp thêm vào vẻ đẹp văn hóa rất riêng của đất nước Trung Hoa. Tất cả được tái hiện một cách chân thực, sinh động qua cách xây dựng biểu tượng từ phương diện nội dung đến hình thức. Hình tượng không chỉ tồn tại trong quan điểm, suy nghĩ, nhận thức của con người, mà dường như qua các trang viết của nhà thơ nó trở thành một sinh vật sống động, đa chiều trước thế giới muôn màu, đa dạng. 1.1.3. Thơ điền viên Trước kia người ta dùng thuật ngữ thơ điền viên để chỉ tác phẩm nói về cuộc sống nhàn dật, đó là theo nghĩa hẹp, ngày nay có rất nhiều ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu văn học về thơ điền viên nhưng theo nghĩa rộng hơn. Hai từ “điền viên” nếu triết tự thì điền là ruộng, viên là vườn, suy ra thơ điền viên theo nghĩa đen được hiểu là thơ viết về đồng ruộng và vườn tược, song thơ điền viên có đơn giản là thơ viết về đề tài ruộng vườn? Về nội hàm khái niệm thơ điền viên, có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Lê Nguyễn Lưu cho rằng thơ điền viên là thơ “miêu tả sinh hoạt nông thôn hay cảnh ngộ nông dân”, ông chia ra thơ điền viên có hai loại, loại tiến bộ gần với thơ xã hội, miêu tả đúng thực trạng nghèo nàn, khốn khổ của hiện thực nông thôn, loại tiêu cực của các thi nhân “có khuynh hướng thoát ly nhìn nông thôn bằng đôi mắt Lão - Trang, vẽ ra khung cảnh ruộng vườn phù hợp với tâm trạng nhàn hạ của họ” [22, 116]. Tác giả cuốn Trung Quốc phân thể văn học sử thì không cho rằng thơ điền viên đơn giản chỉ nói về sinh hoạt nông thôn hay cảnh ngộ nông dân. Họ khẳng định điền viên thi khác với nông sự thi ở chỗ có nhiều hứng thú thẩm mỹ hơn, nó từ phong cảnh ruộng vườn và sinh hoạt nông thôn mà hấp thu tư liệu cuộc sống và linh cảm vào trong sáng tác, biểu hiện vẻ đẹp của cảnh quan ruộng vườn, sông núi, ngợi ca mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên… Các tác giả bộ Lịch sử văn học Trung Quốc của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cũng cho rằng thơ điền viên là loại thơ “ca vịnh cảnh sắc và cuộc 11 sống nông thôn” [1, 290]. Ở đây các tác giả khẳng định thơ điền viên cũng miêu tả cảnh vật tự nhiên nhưng là cảnh vật gắn liền với không gian nông thôn và sinh hoạt lao động của người nông dân. Trần Trung Hỷ thì cho rằng thơ điền viên lấy cảnh quan nông thôn (loại cảnh quan nhân vi, có bàn tay tạo dựng của con người) làm đối tượng thẩm mỹ chính, biểu hiện tâm lý an nhiên, tự tại. Tác giả nói rõ hơn đó là những cảnh “ruộng vườn”, “nhà cỏ”, “chó sủa”, “gà gáy”… [18, 12]. Trên đây là những ý kiến, quan niệm của một số nhà nghiên cứu về thơ điền viên trong thơ Đường. Trên cơ sở tiếp thu và chọn lọc những quan niệm đó, người viết cũng mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình về thơ điền viên đời Đường, đó là thơ miêu tả cảnh sắc tự nhiên và không gian sinh hoạt của chủ thể trữ tình, chủ yếu ở nơi ruộng vườn thôn dã nhằm biểu đạt tâm thức ẩn dật, an nhiên, thanh nhàn, thoát tục của các thi nhân đời Đường. 1.2. Những hình tƣợng tiêu biểu trong thơ điền viên đời Đƣờng Thơ điền viên là một mảng thơ lớn trong dòng chảy thi ca đời Đường, nó không chỉ được biết đến với số lượng tác giả đông đảo, thành tựu gắn liền với những tên tuổi thi nhân kiệt xuất mà nó còn để lại ấn tượng đối với độc giả trong nước và trên thế giới về hệ thống hình tượng vô cùng đa dạng, phong phú và sinh động. Những hình tượng tiêu biểu trong thơ điền viên đời Đường chính là những hình tượng tiêu biểu ở nông thôn mà ta thường hay bắt gặp, đó là: những cánh đồng, những mảnh vườn, ao, những con vật quen thuộc, những người nông dân. Chúng tôi khảo sát 1049 bài thơ trong cuốn Đường thi tuyển dịch của Lê Nguyễn Lưu, NXB Thuận Hóa (1997) tập 1, 2 và thu được kết quả như sau: Hình tƣợng Tổng số thơ điền viên 159 bài Cánh đồng 53 bài Vƣờn Ao Con vật Con ngƣời 84 bài 22 bài 42 bài 30 bài 12 Trong đó: Tổng số lƣợng Nhà thơ điền viên tiêu thơ điền viên/ Cánh biểu tổng số bài khảo đồng Vƣờn Ao Con vật Con Ngƣời sát Mạnh Hạo Nhiên 8/23 bài 2 4 2 3 4 Vương Duy 11/51 bài 3 6 2 4 8 Lý Bạch 20/116 bài 5 11 4 8 5 Đỗ Phủ 35/167 bài 16 18 1 7 8 Bạch Cư Dị 19/84 bài 7 9 3 9 7 Vi Ứng Vật 6/18 bài 2 4 2 1 1.2.1. Cánh đồng Trong thơ điền viên đời Đường, hình tượng cánh đồng trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của các thi nhân, nhất là trong các sáng tác của phái điền viên mà đỉnh cao là hai nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên và Vương Duy. Trong 159 bài thơ điền viên có 53 bài viết về cánh đồng. Vẻ đẹp thôn quê là đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc và hình tượng cánh đồng là một biểu hiện của vẻ đẹp thôn quê đó. Cánh đồng trong thơ điền viên đời Đường thường hiện lên với vẻ đẹp mênh mông, bát ngát, xanh tươi và tràn trề sức sống: Sống trong sự che chở của sông Kỳ, Cánh đồng phía đông rộng mênh mông không có núi Mặt trời ẩn ngoài vùng trồng dâu Sông phân rõ khoảng giữa những xóm thôn Mục đồng hướng về làng mà đi, Chó săn theo sát bên người trở về. Người nhàn cũng nào có việc gì, Cửa tre theo đó mà đóng cả ban ngày. (Kỳ thượng điền viên tức sự - Vương Duy) 13 Cảnh vật ở đây mang vẻ đẹp tự nhiên, hòa điệu cùng với những sinh hoạt bình dị của con người. Sông bao bọc lấy xóm làng, quấn quýt với cánh đồng, hài hòa êm ả, dịu dàng cùng nhịp sống nhàn hạ thong dong của con người. Chúng tôi khảo sát cánh đồng trong thơ điền viên đời Đường thấy hình tượng cánh đồng chủ yếu gắn với cánh đồng lúa bên cạnh đó còn có cánh đồng cỏ, cánh đồng rau, cánh đồng ngô… Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung vào hai loại cánh đồng: cánh đồng lúa và cánh đồng cỏ xuất hiện với tần số lớn trong thơ điền viên đời Đường. 1.2.1.1. Cánh đồng lúa Trong 53 bài thơ điền viên đời Đường viết về cánh đồng mà người viết khảo sát được có 15 bài thơ nhắc trực tiếp đến hình ảnh cây lúa, chưa kể những bài thơ khác viết về cánh đồng lúa một cách chung chung. Cây lúa được các thi nhân đời Đường đưa vào trong trang thơ của họ một cách tự nhiên, được nhắc đến trong nhiều hình ảnh khác nhau như: lúa mạ, mạ, lúa chín vàng, lúa mùa, lúa mạch, lúa nếp, hạt thóc, hạt lúa, gốc lúa… Cánh đồng lúa trong thơ Vương Duy là cánh đồng lúa mạch tươi tốt, cây lúa đang thì con gái, mơn mởn, tràn trề nhựa sống: Chim trĩ kêu, lúa mạch tươi tốt, Tằm đã ngủ lá dâu lưa thưa. Người làm ruộng vác cuốc tới, Gặp nhau trò chuyện như mọi khi. (Vị xuyên điền gia - Vương Duy) Đó là một bức tranh điền viên êm đềm mang đậm chất dân dã nông thôn. Bốn câu thơ trên đưa ta tới một không gian thoáng đãng, khoáng đạt, thanh bình của một cánh đồng lúa mạch. Cảnh vật, âm thanh ở đây toát lên vẻ ấm no, yên bình, hạnh phúc từ tiếng chim kêu quen thuộc cho đến hình ảnh những con tằm đã no lá và đặc biệt hơn là xuất hiện hình ảnh những người nông dân với phong thái ung dung, nhàn nhã. Những sinh hoạt ở nông thôn cũng được miêu tả đầy đủ, nhưng công việc điền gia không có gì lam lũ, vất vả mà xem ra lại nhẹ 14 nhàng, hấp dẫn. Bốn câu thơ miêu tả nông thôn mang nét đẹp bình dị, trong sáng và thật tươi đẹp. Bạch Cư Dị cũng nhắc đến hình ảnh cây lúa trong sáng tác thơ điền viên của mình: Lúa nếp sớm như những sợi lụa trên những tấm thảm biếc, Lớp cỏ bồ mới nảy lộc như dải quần lụa xanh. (Xuân đề hồ thượng - Bạch Cư Dị) Ở hai câu thơ này, tác giả viết về một giống lúa: lúa nếp, hình ảnh này được thi nhân đưa vào trang thơ của mình cùng với biện pháp so sánh, liên tưởng độc đáo, tài tình. Bạch Cư Dị đã so sánh những bông lúa nếp như “những sợi lụa” khiến cho hình ảnh những bông lúa sớm còn chưa mẩy hạt hiện lên thật mềm mại, mỏng manh, những bông lúa luôn chủ động nghiêng mình theo gió một cách nhịp nhàng, uyển chuyển. Với hình ảnh so sánh này, hình ảnh cây lúa hiện lên thật lãng mạn và nên thơ hơn bao giờ hết, mang đến cho ta cảm nhận về một cánh đồng lúa tràn trề sức sống. Vẫn miêu tả cánh đồng lúa gắn với mùa, nhưng nhiều khi cánh đồng lúa trong thơ Bạch Cư Dị lại mang vẻ tiêu điều, buồn bã: Lúa mạch hỏng vì xuân không mưa, Lúa mùa kém vì thu sương sớm. Cuối năm không có gì bỏ vào miệng, Ra ngoài đồng đào kiếm củ địa hoàng. (Thái địa hoàng giả - Bạch Cư Dị) Trong bài Cổ phong hình ảnh cánh đồng hiện lên chân thực: Cày xới lúa đang lúc giữa trưa Mồ hôi giọt xuống đất dưới cây lúa (Cổ phong - Lí Thân) Vẻn vẹn chỉ có mấy câu nhưng Lí Thân đã miêu tả sinh động nỗi cực nhọc, vất vả của người nông dân quanh năm một nắng hai sương làm ra hạt gạo nuôi đời. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất