Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy chính tả ở lớp 5...

Tài liệu Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy chính tả ở lớp 5

.DOC
25
114
85

Mô tả:

PHÒNG GD & ĐT LƯƠNG SƠN TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀ SƠN A SÁNG KIẾN Năm học 2007-2008 Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở lớp 5 HỌ VÀ TÊN: CHỨC VỤ: Trịnh Thị Thu Ha Giáo viên ĐƠN VỊ : Trường tiểu học Hoa Sơn A Phần thứ nhất ĐẶT VẤN ĐỀ. Chúng ta đều biết rằng: “ Nhân cách của con người chỉ có thể được hình thanh thông qua hoạt động giao tiếp”. Để xã hội tồn tại va phát triển, để giao tiếp được thuận tiện, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt la một ngôn ngữ thống nhất trên toan bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc sống hang ngay của chúng ta không chỉ lúc nao cũng giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ viết đóng vai trò quan trọng của Tiếng Việt nói riêng va trong tiếng nói của các quốc gia nói chung. Yêu cầu đầu tiên va quan trọng của ngôn ngữ viết la phải viết đúng chính tả. Có nghĩa la khi thể hiện ngôn ngữ viết cần phải tuân theo hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ. Hay nói cách khác, chính tả la những chuẩn mực của ngôn ngữ viết được thừa nhận trong ngôn ngữ toan dân. Mục đích của nó la phương tiện thuận tiện cho việc giao tiếp bằng chữ viết bảo bảo cho người viết va người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ mới không bị cản trở giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước va đời sau Vì vậy việc dạy chính tả đúng phải được coi trọng ngay đối với học sinh các lớp của trường Tiểu học. Việc dạy chính tả được hiểu như rèn luyện việc thực hiện những chuẩn mực của ngôn ngữ viết. ở các lớp Tiểu học, chính tả sẽ tạo điều kiện ban đầu trong hanh trang ngôn ngữ cả một đời người trong các em. Qua được học chính tả, các em nắm bắt được các quy tắc chính tả va hình thanh kỹ năng, kỹ xảo chính tả. Từ đó có thói qnen viết đúng chính tả, giúp cho sự hoan thiện nhân cách của học sinh. Nó bắt đầu từ việc thuận tiện trong tiếp thu trí thức qua các môn học ở Tiểu học đến việc xây dựng các văn bản trong quá trình giao tiếp trong học tập. Chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều phân môn. Phân môn chính tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn cho học sinh nắm các quy tắc va các thói quen viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm lĩnh văn hoá, la công cụ để giao tiếp, tư duy để học tập, trau dồi kiến thức va nhân cách lam người. Ngay từ đầu ở bậc Tiểu học trẻ cần phải được học môn chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có thể sử dụng công cụ nay suốt những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nha trường cũng như trong suốt cả cuộc đời. Chính tả có tầm quan trọng như vậy nên môn học nay cần phải được coi trọng ở các trường Tiểu học. Nhưng trên thực tế ở một số vùng miền núi, hiện tượng học sinh viết sai chính tả la khá phổ biến. Cụ thể trên địa ban xã Hoa Sơn nơi tôi đang giảng dạy, hiện tượng học sinh viết sai chính tả nhất la những âm dễ lẫn lộn như: l – n; s – x; tr – ch va dấu ngã. Vấn đề nay có thể do học sinh phát âm sai dẫn đến hiểu sai va viết sai chính tả. Bên cạnh đó hệ thống sách giáo khoa, bai tập chính tả chưa xây dựng theo vùng, miền. Nên việc dạy va học chính tả còn gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình như vậy, việc nhìn nhận lại thực trạng về việc dạy chính tả để từ đó tìm ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng học chính tả cho học sinh vùng phương ngữ la hết sức cần thiết. Đặc biệt la việc cải tiến cách dạy chính tả sao cho khoa học, cho hiệu quả hơn. Coi trọng phương pháp dạy chính tả có ý thức để việc viết đúng chính tả trở thanh kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh ngay từ lớp đầu cấp. Xuất phát từ những quan điểm trên, bản thân lại la một giáo viên dạy học ở vùng có nhiều đối tượng học sinh có vấn đề về chính tả , tôi mạnh dạn tiến hanh nghiên cứu đề tai: “ Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở lớp 5” để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học phân môn Chính tả. Phần thứ hai NỘI DUNG I.CƠ SỞ LÝ LUẬN A. Cơ sở về ngữ âm học. a. Mối quan hệ giữa âm chữ và nghĩa. - Chữ viết của Tiếng Việt la chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ yếu của Tiếng Việt la nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa la mỗi âm vị được thể hiện bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng la cơ sử viết đúng. Để phát huy một cách có ý thức. đặc biệt la những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải theo sát nguyên tắc nay. Nghĩa la phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết b. Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ. Ở Tiếng Việt, nguyên tắc cơ bản la nguyên tắc ngữ âm học, ngoai ra chính tả Tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc như: Nguyên tắc truyền thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt....Những nguyên tắc nay không đồng nhất với ngữ âm học, do vậy chính tả Tiếng Việt vẫn còn những bất hợp lý. Chính tả chữ viết (quốc ngữ) vừa đơn giản lại vừa phức tạp. Đơn giản vì chữ quốc ngữ la chữ viết ghi âm ở dạng ổn định văn bản hợp lý, phát âm thế nao thì viết thế ấy. Nhưng phức tạp ở chỗ: trong Tiếng Việt có hiện tượng cách phát âm ở những vùng miền khác nhau (phương ngữ), trong khi đó hệ thống ghi âm tiêu chuẩn của Tiếng Việt lại chưa được xác định một cách chính thức. Do đó khó có thể phổ biến rộng rãi hệ thống ấy được. Hơn nữa trong Tiếng Việt hiện đại, bên cạnh việc phát âm không phù hợp với tiêu chuẩn lại có trường hợp trong đó một từ đồng thời mang hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nao la chuẩn. Ví dụ: tròng tranh – chòng chanh nhún nhẩy - dún dẩy trời – giời Hoặc có khi cùng một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết. d: dải lụa Ví dụ: /z/ gi: giải thích i: lí luận /i/ y: Lý Thường Kiệt Bản thân hệ thống âm vị Tiếng Việt còn một số vị âm không ghi thống nhất, một âm có thể ghi bằng nhiều con chữ. /k/ c (con cuốc) k (cái kim) q (tổ quốc) Hoặc trong bộ chữ cái Tiếng Việt còn chữ “h” la một hiện tượng đặc biệt. Nó vừa sử dụng độc lập lam đại diện cho phụ âm /h/ thể hiện bằng con chữ “h”, vừa được sử dụng theo cách ghép với các con chữ khác lam đại diện cho 7 âm nữa đó la: ch, gh. kh, nh, ngh, ph, th. Do vậy khi sử dụng cần chú ý không nên lầm tưởng la trong Tiếng Việt có phụ âm kép. Dù “h” đứng một mình hay “h” đứng sau các chữ khác (c, g, k, n, ng, p, t) thì ch, gh, kh, nh, ngh, ph, th đều có giá trị như nhau. Mỗi hình thức trong 7 hình thức đó đều chỉ thay thế cho 1 âm ma thôi. Do vậy có quan niệm g đơn, g kép, ng đơn, ng kép la bất hợp lý. Cách nhận biết tốt nhất về “ng” va “ngh” la dựa vao khả năng kết hợp chung với nguyên âm. Trước những bất hợp lý trên, việc xác định những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng những biến thể phát âm địa phương, đồng thời phải nghĩa để sử dụng dựa vao các văn cảnh cụ thể để ghi nhớ cho học sinh cách phân biệt chính tả. Do vậy hai nhiệm vụ chủ yếu của việc đề cao nguyên tắc dạy học chính tả có ý thức la: giải quyết những vấn đề tồn tại của chữ quốc ngữ. Tôn trọng nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực, phải chú ý cách phát âm của địa phương. B. Cơ sở thực tế. Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học nhận thức hiện thực khách quan mang đậm mau sắc cảm tính. Các giác quan như tai, mắt được sử dụng nhiều trong nhận thức sự vật, cho nên trực quan cụ thể la những yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên nhận thức va tư duy của học sinh Tiểu học. “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” câu nói nổi tiếng của Lê- nin khi người giải thích quy luật nhận thức hiện đại, đặc biệt được thể hiện ở học sinh Tiểu học. Khi dạy chính tả cho học sinh Tiểu học cần vận dụng triệt để đặc điểm, nhận thức của trẻ em ở lứa tuổi nay. VD: Nghe va quan sát cách phát âm đúng để phát âm đúng. Quan sát cách viết đúng để viết đúng , dần dần học sinh sẽ tích luỹ được những kinh nghiệm, lam giau thêm tri thức chính tả cho bản thân. Kết quả la các em nhận thức được những vốn kinh nghiệm một cách có ý thức, tạo nên kĩ năng kĩ xảo cho các em. Từ đó giúp các em dề dang trong việc tiếp thu các tri thức của các môn học, nhất la trong phân môn Tập lam văn. II. NỘI DUNG 1.Thực tế trình độ chính tả của học sinh Tiểu học. Qua thực tế giảng dạy va nghiên cứu khảo sát sách vở chính tả, vở tập lam văn của học sinh trường Tiểu học Hoa Sơn A, bản thân tôi nhận thấy: Vở chính tả, tập lam văn của các em va các vở khác mắc khá nhiều lỗi chính tả. Thống kê số lỗi chính tả của các em tôi thấy có 3 lỗi cơ bản sau. - Lỗi chính tả do không nắm vững chính tả: lỗi nay thường gặp khi viết các phụ âm đầu: d/gi; ch/tr; ng/ngh - Lỗi do không nắm vững cấu trúc âm tiết của Tiếng Việt va không hiểu cấu trúc nội bộ của âm tiết Tiếng Việt nên học sinh viết sai. VD: quanh co; khúc khuỷ; ngoằn nghèo. - Lỗi chính tả do viết theo lối phát âm địa phương hoặc do không nắm vững âm chính. Đây la lỗi cơ bản nhất ma qua khảo sát tôi nhận thấy ở trường Tiểu học Hoa Sơn A nói riêng va ở xã Hoa Sơn nói chung. Cụ thể la âm: l – n, dấu ngã va dấu chấm. Học sinh thường nhầm lẫn va viết sai chính tả trong các bai viết của mình. Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng sai trên tôi thấy chủ yếu la do học sinh phát âm sai. Thường các em còn phát âm lẫn lộn giữa âm l – n nên không phân biệt được khi viết. Để sửa lỗi nay giáo viên trường Hoa Sơn A đã cố gắng dạy cho học sinh nắm vững âm chính trong Tiếng Việt. Muốn viết đúng chính tả thì phải phát âm đúng vì chính âm đi trước chính tả. Do vậy ta phải chú trọng việc phát âm chuẩn cho học sinh trong các giờ tập đọc. Mặt khác mỗi giáo viên phải la một chuẩn mực sống động để học sinh bắt trước va noi theo. Ngoai ra việc đổi mới các phương pháp dạy học va áp dụng qui trình soạn giáo án theo hướng đổi mới, giúp học sinh nắm bắt các mẹo luật chính tả cũng hết sức cần thiết để giúp học sinh viết đúng chính tả. Trong phạm vi nghiên cứu đề tai, tôi xin được thống kê số liệu học sinh mắc lỗi chính tả ở khối 5 thu được đầu năm như sau. Lớp Tổng số học sinh 5A 5B 30 28 Các lỗi chính tả thường mắc l - n; ~/./ d/gi/r; tr/ch; s/x; Cấu trúc âm 11 em 8 em g/gh 5 em 6 em tiết 4 em 4 em Thực tế về chất lượng dạy chính tả của giáo viên Tiểu học trước hết phải nói đến trình độ đã được đao tạo của giáo viên không đồng đều va việc tổ chức dạy va học môn chính tả Tiếng Việt chưa được khoa học. Hai la trong các nha trường sư phạm việc dạy phương pháp môn Tiếng Việt nói chung, phương pháp dạy chính tả nói riêng còn coi nhẹ. Do đó nhiều giáo viên ra trường còn gặp nhiều lúng túng về nội dung va phương pháp va cách rèn kỹ năng cho học sinh. Những tồn tại trên dẫn đến chất lượng học chính tả của học sinh còn nhiều hạn chế. Đặc biệt với những vùng phương ngữ thì đây la một thiệt thòi rất lớn vì các em không có điều kiện để đạt tới một chuẩn mực chính tả như mong muốn. Để khắc phục tình trạng nay thì trước hết cần phải chuẩn hoá giáo viên để giáo viên có đủ kinh nghiệm, trình độ giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả, hình thanh kỹ năng, kỹ xảo chính tả, bỏ được thói quen phát âm sai, viết sai. 2. Về chương trình sách giáo khoa (SGK) Trước hết phải khẳng định rằng môn Tiếng Việt ở Tiểu học SGK đã xác định được những trọng điểm chính tả cơ bản cần dạy cho học sinh. Các bai tập trong SGK cũng khá đa dạng, phù hợp với từng khối lớp va cấu trúc đi từ dễ đến khó. Tuy nhiên về hạn chế SGK còn đánh đồng nội dung dạy học trong cả nước cho nên có thể nói nội dung dạy chính tả trong SGK Tiếng Việt vừa thừa lại vừa thiếu do chưa sử lý được việc dạy chính tả theo khu vực. Thừa ở các em vừa phải luyện tập ở cả những nội dung ma các em đã biết, không mấy khi sai sót. Thiếu ở chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn, luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi ma các em thường mắc phải. Nội dung chính tả được trình bay trong SGK Tiểu học còn mang tính ngẫu nhiên, chủ quan, áp đặt, không được xây dựng dựa trên sự điều tra khảo sát tình hình chính tả ở từng vùng, từng khu vực. Chính tả trong SGK chưa thống nhất, điều nay cũng gây không ít khó khăn cho việc dạy học chính tả ở Tiểu học, đặc biệt ở những vùng phương ngữ. III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn tôi nhận thấy rằng trọng điểm chính tả ma học sinh Hoa Sơn mắc phải chính la do lỗi phát âm địa phương không phân biệt được giữa l với n, dấu thanh ~/./ Trước thực tế như vậy, bản thân người giáo viên phải hết sức cố gắng nỗ lực nhiều mặt như: tâm lý học lý luận dạy học, các kiến thức về ngữ âm, về văn học.... lam sao phải để học sinh “tâm phục khẩu phục”. Có như vậy chất lượng giáo dục chính tả vùng phương ngữ mới thu được kết quả như mong muốn. Muốn lam được đìêu đó, trước hết người giáo viên phải đặt phân môn chính tả nắm trong mối quan hệ giữa các phân môn khác của Tiếng Việt, đặc biệt la phân môn tập đọc va từ ngữ. Học sinh muốn viết đúng được thì phải hiểu được nghĩa va phát âm đúng từ đó. Nếu học sinh phát âm sai, tuỳ tiện sẽ dẫn đến hiểu sai va viết sai hoặc do thói quen lâu ngay không được sửa chữa. Trong các giờ tập đọc, chúng ta danh nhiều thời gian hơn cho việc sửa lỗi phát âm cho học sinh, đặc biệt la hai âm l va n, dấu ~ /./. Giáo viên phát âm mẫu cho học sinh học tập va hướng dẫn cách phát âm tỉ mỉ. Đặc biệt giáo viên không bao giờ được phạm sai lầm về lỗi phất âm nay. Nếu không việc sửa lỗi của giáo viên sẽ mất tác dụng. Ngoai ra giáo viên hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả trên cơ sở hiểu đúng nghĩa của từ. Muốn viết đúng một từ, học sinh phải biết đặt từ đó trong mối quan hệ với cụm từ va các văn bản. Nếu ta tách từ đó ra khỏi văn bản có thể học sinh sẽ không hiểu được nghĩa va do đó dẫn đến việc viết sai chính tả. VD: Khi đọc tiếng “cuốc” nếu không đặt nó trong mối quan hệ, cụm từ, câu thì rất khó xác định nghĩa để viết đúng. Nhưng nếu đặt nó trong câu: “Mẹ em vác cuốc ra đồng” hoặc trong từ “Tổ quốc” thì học sinh dễ dang viết đúng. Bên cạnh đó muốn học sinh viết đúng giáo viên phải cho học sinh nắm được khả năng kết hợp của các kí hiệu từ trong các trường hợp sau: + Các con chữ phụ âm kết hợp với các con chữ nguyên âm để tạo nên phụ âm đơn như “gi”, “qu”. Con chữ phụ âm đi trước, con chữ nguyên âm đi sau. Trong thực tế chính tả, khi xuất hiện “q” thì nhất thiết sẽ có “u” đi kề liền. Đây la luật yêu cầu học sinh cần nắm vững. + Các con chữ phụ âm kết hợp với nhau để tạo nên phụ âm đơn. VD “ngh”, “ng”, “gh”, “tr”. Trong Tiếng Việt dùng 9 kí hiệu từ đơn: ph, th,ch, kh, nh, ng, gh, ngh, tr. Với hình thức chuỗi như vậy không bao giờ được phép kết chuỗi đảo ngược các thứ tự sắp xếp như rt, hn... + Các con chữ nguyên âm kết hợp với nhau để tạo nên một kí tự nguyên âm đôi. VD: iê, ia, ươ, uô, ua, uâ... Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần cung cấp kiến thức nay cho các em. Tổng kết lại /V/ chỉ kết hợp các âm không tròn môi, không nên kết hợp với các nguyên âm tròn môi. Một điều rất quan trọng trong dạy chính tả cho học sinh vùng phương ngữ la dạy cho các em biết được một số mẹo luật chính tả. “Mẹo” được hiểu như cách lam độc đáo giúp học sinh phân biệt, ghi nhớ được cách viết đúng những chữ cái hay nhầm lẫn trong khi viết chính tả. Sự tìm ra các mẹo chính tả dựa vao: + Sự kết hợp: Trong cấu trúc âm tiết. + Sự láy âm, điệp âm. + Mẹo từ hán việt. + Mẹo nghĩa của từ. + Mẹo phân biệt l/n. - Mẹo 1: Một chữ ta không biết la l hay n, nhưng nó đứng đầu một từ láy âm, không phải la điệp âm thì dứt khoát la “l” chứ không phải “n”. VD: “l” láy với “c”: lò cò, la ca, lục cục... “l” láy với “b”: lệt bệt, lùng bùng, lõm bõm.. “l” láy với “d”: líu díu, lò dò... “l” láy với “h”: lúi húi, lay hoay... “l” láy với “n”: lơ mơ, liên miên... - Mẹo 2: Khả năng kết hợp âm: Âm /l/ đứng trước âm đệm nhưng /n/ không đứng trước âm đệm. Do đó /n/ không bao giờ đứng trước một vần bắt đầu: oa, uê, uy... trái lại /l/ lại đứng trước các vần đó như: loa, luân.. - Mẹo 3: mẹo luật láy âm, điệp âm. /l/ láy âm rất rộng rãi, trái lại /n/ không láy âm với một âm nao ma chỉ điệp âm với chính nó. Đồng thời lại không có hiện tượng /l/ láy âm với /n/. Từ đó suy ra quy tắc: Nếu gặp một từ láy ma hai âm đầu đọc giống nhau thì nhất định la một điệp âm đầu va cả hai chữ phải cùng có âm đầu la /l/ hoặc /n/. Vì vậy ta chỉ cần biết một chữ la đủ. VD: Lấp loáng, long lanh, lanh lảnh.... No nê, ninh ních, nõn na... - Mẹo 4: Đối với trường hợp “l” va “n” đứng ở chữ thứ 2. Trong từ láy thì”n” khi láy âm chỉ láy với “gi” va không láy với âm nao khác. Trái lại “l” lại không láy với “gi” ma láy với các âm khác . (Ngoại lệ có: khúm núm, khệ nệ) kh – l : khéo léo, khoác lác... ch – l : cheo leo... /n/ láy với những âm tiết không có âm đầu như: ảo não, áy náy... - Mẹo 5: Những chữ không biết được “l” hay “n” nhưng đồng nghĩa với một từ khác viết với “nh” thì chữ ấy la “l”. VD: lăm le (nhăm nhe) lỡ lang (nhỡ nhang) Trên đây la một số mẹo luật nhận diện chữ cái phân biệt l/n trong khi viết chính tả ma mỗi giáo viên thuộc phươngdiện phương ngữ Bắc bộ nói chung va giáo viên Hoa Sơn nói riêng cần nắm được để hướng dẫn các em viết chính tả. Ngoai ra còn một số mẹo phân biệt “ch” với “tr”, “s” với “x”. Những lỗi nay học sinh Hoa Sơn cũng mắc phải nhưng ít hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp học sinh vẫn có thể mắc lỗi. Do vậy giáo viên cần nắm được để hướng dẫn cho các em. Chẳng hạn “tr” không đứng trước những chữ bắt đầu bằng âm đệm nhưng “ch” thì có.VD: ôm choang, bị choáng... “tr” không bao giờ láy với “ch” va ngược lại. Do đó chỉ có những từ láy cùng láy âm “tr” hoặc “ch” như: Chăm chỉ, trâng tráo, trân trân... Hoặc phân biệt s/x như: Các từ chỉ tên thức ăn hoặc đồ dùng liên quan đến thức ăn thì viết la “x”. VD: Xôi, xao, xoong... Những từ chỉ thiên nhiên hoặc chỉ tên cây cối, các loại quả thì viết la “s” VD: Ngôi sao, giọt sương, sen, súng... Tuy nhiên tất cả những mẹo luật trên chỉ ở mức độ tương đối. Người giáo viên phải biết áp dụng linh hoạt để giảng dạy cho các em. * Một số điểm cần lưu ý khi dạy theo quy trình một tiết chính tả theo hướng đổi mới. - Bước “câu hỏi gợi ý tìm hiểu nội dung đoạn viết” la bước hiệu quả chính tả thấp. Vì nội dung hầu hết các em đã nắm được thông qua các bai tập đọc. Bước nay không kéo dai sẽ lãng phí thời gian, tăng cường cho luyện tập (với những bai chính tả so sánh ma nội dung bai không có trong danh sách tập đọc thì giáo viên có thể hỏi qua về nội dung đoạn viết). - Bước “luyện viết chữ khó, phân biệt các cặp từ so sánh” va bước “luyện tập” có thể nhập lam thanh một. Đây la bước quan trọng để giúp học sinh không mắc lỗi chính tả, giáo viên cần lưu ý. - Bước “chấm va chữa bai” nên đặt ở cuối cùng trong tiết học vì việc đánh giá kết quả học sinh phải đặt sau quá trình luyện tập. Để tiết dạy chính tả đạt kết quả cao, gây hứng thú trong học tập cho học sinh, giáo viên có thể tổ chức hoạt động học dưới hình thức trò chơi như tìm nhanh các cặp từ so sánh đối lập, tìm những bai hát ở Tiểu học có phụ âm đầu la n/l. Mục đích cuối cùng của bai chính tả la phải ghi nhớ các trường hợp viết đúng một cách có ý thức ma trong đó thực chất của loại bai so sánh la: giúp học sinh nắm vững nội dung ngữ, nghĩa của từ gắn với chữ viết. Giáo viên so sánh để phân biệt những trường hợp dễ lẫn lộn cho các em. Mặt khác giáo viên cần năng động, sáng tạo trong giảng dạy. Soạn ra những bai luyện tập phù hợp với các em ở địa phương mình. Cho học sinh đặt câu với những từ dễ mắc lỗi hoặc có thể đưa ra những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh tự mình phát hiện lỗi, tìm hiểu nguyên nhân sai va chữa lại cho đúng. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân la: tìm được những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh trên xã Hoa Sơn. Qua một thời gian thực hiện, kết quả thu được như sau: Lớp Các lỗi chính tả thường mắc Số T.số TT học 1 2 sinh 30 28 5A 5B l/n; ~/./ tr/ch; s/x; cấu trúc âm tiết gh/g 2 em 1 em 2 em 1 em không 1 Phần thứ ba KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT I. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC. Việc xác định các trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh vùng phương ngữ la việc lam hết sức cần thiết va quan trọng. Chúng ta đang thực hiện luật phổ cập giáo dục Tiểu học để tạo nên một mặt bằng dân số, trình độ dân trí nhất định trong cả nước. Tuy nhiên trình độ nay có đồng đều hay không điều đó tuỳ thuộc vao chất lượng giảng dạy va học tập ở mỗi địa phương. La một giáo viên vùng phương ngữ, tôi nhận thấy phải trang bị cho các em những kiến thức chuẩn mực để các em có đầy đủ năng lực để học tiếp lên các lớp trên va giao tiếp với xã hội một cách tự tin, chững chạc. Đây la một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên giảng dạy ở các vùng phương ngữ. Nhiệm vụ nay không chỉ tiến hanh trong một thời gian ngắn ma cho ta kết quả tốt ngay được ma phải tiến hanh trong một thời gian dai. II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN. Để chủ trương đổi mới phương pháp dạy học nói chung, việc dạy chính tả cho học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao hơn tôi có một số đề xuất như sau sau: - Đối với công tác quản lý:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan