Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục truyền thống tại ...

Tài liệu Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục truyền thống tại khu di tích Kim Liên

.PDF
122
103
123

Mô tả:

1 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. - về mặt lý luận + Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển, công nghiệp hóa cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những thay đổi lớn trong đời sống xã hội. Bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển đã dẫn đến hệ quả của nó là việc nảy sinh những hiện tượng xã hội đáng lo ngại. Đó là những thói quen, hành vi, nhận thức lệch lạc được hình thành, hiện tượng phôi pha dần với lịch sử dân tộc, không biết đến hoặc quên đi công lao, sự cống hiến vĩ đại của các anh hùng dân tộc đã trở thành phổ biến. Như Ma- cau-lay từng nói: “Người nào không tự hào về những thành tựu cao quý của tổ tiên mình, sẽ không đạt được điều gì để con cháu mình ghi nhớ”. Chính vì thế, tìm về cội nguồn là nhu cầu bức thiết. Văn hoá là động lực cho sự phát triển, truyền thống lịch sử oai hùng của dân tộc với những chiến công hiển hách, với những nhân vật lịch sử đã đi vào huyền thoại đã đang và sẽ tiếp thêm sức mạnh, dũng khí, niềm tin cho các thế hệ hôm nay và mai sau. + Ngày nay, sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng làm chúng ta thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận thông tin và tri thức ngày càng phổ biến, nhưng bảo tàng với vai trò là một thiết chế văn hóa đặc thù vẫn không hề suy giảm khả năng đưa thông tin vào công chúng, những tri thức chân thực đáng tin cậy và lý thú từ các bộ sưu tập hiện vật gốc vốn thấm đượm và phản ánh sâu sắc trí tuệ, tài năng, tinh thần và vật chất của thế hệ Việt Nam, của hồn thiêng sông núi và dân tộc. + Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức sáng ngời là vĩ nhân của dân tộc đã đi vào huyền thoại, Nghị quyết của tổ chức Giáo dục khoa học Liên Hợp Quốc (UNESCO) về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biếu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cổng hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc 2 vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chử và tiến bộ xã hội... sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thong văn hoá hàng nghìn năm của nhân dân ĩ 7ệt Nam và những tư tưỏng của Người là hiện thân cửa những khát vọng cửa các dân tộc trong việc khắng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biếu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau " Vì vậy, cần tìm hiểu về người thông qua nơi khởi thủy, nơi cội nguồn của Người ở KDTKL là điều vô cùng bổ ích. Khu di tích lịch sử lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quê hương là nơi lưu giữ kỷ niệm tuổi thơ của Chủ tịch Hồ chí Minh cùng người thân trong gia đình và kỷ niệm hai lần Người về thăm quê. v ề với KDTKL là về với vùng đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa, là để được tìm hiểu, được nghe , và thấy ngọn nguồn văn hóa đã sinh ra và nuôi dưỡng một Con Người “ đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta”. Vói quần thể cụm di tích Hoàng Trù, Làng Sen, Khu mộ bà Hoàng Thị Loan, Và các di tích về thòi niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và hai lần Người về thăm quê. Hơn 10 di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa Việt Nam và từng bước xây dựng Khu di tích Kim Liên trở thành trung tâm GDTT và du lịch. + Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với chủ nghĩa Mác Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, vì vậy, công tác nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước càng trở nên cấp thiết. Ngày 27-3-2003, Ban bí thư TW Đảng đã ra chỉ thị số 23/CP về việc tăng cường học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Đáp ứng yêu cầu này là nhiệm vụ quan trọng của đội ngũ quản lí và cán bộ viên chức đang đảm nhiệm việc giữ gìn và phát huy tác dụng của các di sản Hồ Chí Minh trong toàn bộ hệ thống bảo tàng, di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên toàn quốc nói chung và KDTKL nói riêng. 3 về thực tiễn + Từ ngày mở cửa đón tiếp khách đến nay, KDTKL đã đón tiếp gần 30 triệu lượt khách, trung bình hàng năm đón được từ 1,5 đến 1,8 triệu lượt người về tham quan, nghiên cứu và học tập tại KDTKL. KDTKL đã, đang và sẽ luôn là địa chỉ đó cho các đoàn tham quan học tập. + Sau khi tham quan và được nghe giới thiệu du khách hiểu rõ về mảnh đất Xứ Nghệ, hiểu về lịch sử văn hóa, truyền thống hiếu học, những tấm gương dũng cảm, kiên cường bất khuất của con người quê hương xứ Nghệ. Hiểu rõ cuộc đời cao đẹp của những người thân trong gia đình Hồ Chí Minh - cái nôi sinh thành dưỡng dục nên con người Hồ Chí Minh. Hiểu rõ cuộc đời, thân thế sự nghiệp, sự cống hiến vĩ đại của Người. Từ đó giúp thanh lọc tâm hồn, hình thành những cảm xúc tình cảm thẩm mỹ, lòng tự tôn dân tộc và ý thức xây dựng quê hương. + KDTKL ý thức rõ vai trò to lớn của đơn vị trong công tác GDTT, đây là nhiệm vụ chính trị, cũng là vinh dự to lớn mà Đảng và Nhà Nước giao phó. Những năm qua đơn vị đã có nhiều cố gắng trong quản lí công tác GDTT, tuy nhiên, vẫn chưa phát huy hết giá trị của di tích trong công tác bồi dưỡng tình cảm đạo đức, truyền thống cách mạng cho các thế hệ. Đe phát huy hết giá trị to lớn của khu di tích nhất là về mặt giáo dục ở đề tài này chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng GDTT tại KDTKL 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác GDTT tại KDTKL 3. Khách thể và đối tuợng nghiên cứu 3.1. Khách thể: Công tác quản lý GDTT ở Hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo dục truyên thống tại KDTKL. 4. Giả thuyết khoa học 4 Nếu xây dựng và thực hiện được những giải pháp có cơ sở khoa học phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi, thì sẽ có thế nâng cao chất lượng giáo dục truyển thống tại KDTKL 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứ a 5.1. Nhiệm vụ. - Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý nâng cao chất lượng công tác GDTT tại Hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý nâng cao chất lượng công tác GDTT tại KDTKL. - Đe xuất các giải pháp quản lý nâng cao năng lực công tác GDTT tại KDTKL 5.2. Phạm vi nghiên cứu. - Vì điều kiện thòi gian nên chúng tôi chỉ tổ chức thăm dò đánh giá về tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp chứ không tổ chức thực hiện. 6. Phương pháp nghiên cứ a 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận. - Phân tích, tổng họp, hệ thống hoá các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp điều tra bằng ankét: - Phỏng vấn trực tiếp: - Phương pháp quan sát: nhằm thu thập thông tin về các vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, khảo nghiệm sư phạm. 6.3. Phương pháp thống kê toán học. Nhằm xử lý số liệu thu được. 7. Đóng góp của luận văn Khẳng định vai trò của KDTKL trong công tác GDTT cho quần chúng nhân dân nhất là ở thế hệ trẻ. 5 Đe xuất những giải pháp mang tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng quản lý công tác GDTT tại KDTKL, phát huy hơn nữa vai trò của KDTKL trong đời sống văn hóa của cộng đồng - xã hội thu hút đông đảo khách tham quan. 8. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu , kết luận, kiến nghị, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nâng cao chất lượng GDTT ở các khu di tích, bảo tàng về Hồ Chí Minh. Chương 2: Cơ sở thực tiễn của giải pháp quản lí nâng cao chất lượng GDTT tại KDTKL Chương 3: Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng GDTT tại KDTKL 6 CHƯƠNG 1. C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUYÈN THÓNG Ở HẸ THÓNG BẢO TÀNG HÒ CHÍ MINH 1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu. Xác định ý nghĩa, tầm quan trọng của gia đình, quê hương đối với sự hình thành nhận thức, nhân cách, con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và ý nghĩa của nó trong cuộc sống đương đại, nhiều tác giả đã chú tâm nghiên cứu về KDTKL. Nhiều cuộc hội thảo liên quan đến KDTKL đã được tổ chức. Hội thảo nghiên cứu khoa học về KDTKL năm 1983 có 25 tham luận khoa học liên quan đến các nội dung của KDTKL. Tuy nhiên, các tham luận nghiên cứu về KDTKL ở góc độ văn hóa và nghiệp vụ bảo tàng, đề cập đến các vấn đề bảo tồn di tích sân vườn, các vấn đề về mối quan hệ xã hội của gia đình ông Phó bảng Nguyễn Sinh sắc, và có một tham luận đề cập đến “Truyền thống của gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Minh Siêu, đã làm rõ truyền thống yêu nước, thương dân, truyền thống văn hóa của gia đình Người. Hội thảo khoa học “Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, quê hương Nghệ Tĩnh với Bác Hồ ” do Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh tổ chức năm 1989 có 58 bài báo cáo khoa học, trong đó có những đề tài đề cập đến việc đánh giá truyền thống xứ Nghệ và ảnh hưởng của nó đối với Chủ Tịch Hồ Chí Minh, như: “Chất Nghệ Tĩnh trong nhà văn hóa lớn Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh” của giáo sư Phan Văn Các; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với truyền thống văn hóa quê hương Nghệ Tĩnh” của Nguyễn Sỹ cẩn; “Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước và việc xác định hướng đi tìm chân lí cứu nước cứu dân” của Trần Ngọc Giản; “Bác Hồ với quê hương” của giáo sư Phong Lê; “Bảo vệ phát huy tác dụng KDTKL” của Trương Văn Đức... Kỷ niệm 40 năm thành lập KDTKL (1996) và 50 năm thành lập KDTKL (2006) có hai cuộc hội thảo về KDTKL trong đó có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề công tác GDTT tại KDTKL, bài “KDTKL- trung tâm GDTT lịch sử- văn 7 hóa- du lịch” của Cao Đăng Vĩnh; “Thuyết minh là nói cho đúng, nói cho rõ, phản ánh đúng bản chất sự việc, sự kiện, nhân vật... ” của Nguyễn Sỹ Đạm: “Đe Kim Liên ngày càng hấp dẫn du khách muôn phương” của Nguyễn Xuân Thủy. Hội thảo “Bảo tồn phát huy di sản văn hóa Hồ Chí Minh ”(2005), đã đề xuất việc phát huy giá trị di sản văn hóa Hồ Chí Minh. Kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ về thăm quê, Trường Đại Học Vinh đã tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc “50 năm Bác Hồ về thăm quê hương Nghệ An 1957-1961”. Vói 70 báo cáo của các nhà khoa học trên toàn quốc đã gửi tới tham dự hội thảo đã tập trung làm rõ những vấn đề chính sau đây: - Gia đình, quê hương- nơi sinh thành và là một trong những nhân tố hình thành nên chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. - Quá trình hoạt động yêu nước và cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt năm mươi năm xa cách quê hương. - Tình cảm, sự quan tâm, lời dạy bảo và mong muốn của Bác đối với quê hương, nhất là thể hiện qua hai lần Người về thăm quê. - Sáng ngời đạo đức Hồ Chí Minh qua hai lần người về thăm quê hương. - Sự nổ lực của Đảng bộ nhân dân Nghệ An thực hiện lời căn dặn của Người trong suốt 50 năm qua (1957-2007). - Những nơi ghi dấu ấn sâu đậm của Bác Hồ với quê hương và những đề xuất, kiến nghị khoa học trong việc bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị. KDTKL đã biên soạn một số cuốn sách liên viết về gia đình và quê hương của Người phục vụ công tác giáo dục tuyên truyền: “Di tích Kim Liên- quê hương Bác Hồ”( 1985),“Thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (1992).Các di tích lưu niệm chủ tích Hồ Chí Minh tại quê hương”, (1993) “Những người thân trong gia đình Bác Hồ ” (1995), “ Quê hương trong lòng Bác ” (1995). Một số đề tài luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu về KDTKL: “ Bảo tồn không gian văn hóa quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Hồ Thị Quỳnh Thoa; “KDTKL với hoạt động GDTT yêu nước cách mạng ” của Lâm Đình Hùng. Khóa luận tốt nghiệp “KDTKL trong dạy học lịch sử dân tộc ở trường THPT Nghệ An” của Đậu Thị Mỹ Thanh. Một số bài viết về công tác GDTT tại KDTKL đã được đăng trên các tạp chí như: Bài “Công tác tuyên truyền giáo dục tại KDTKL” của Bùi Thị Bích Đảm; “Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quê hương” của Nguyễn Bá Hòe; “Công tác tuyên truyền hướng dẫn khách tham quan ở KDTKL” của Nguyễn Thị Minh Huệ. Các công trình nghiên cứu, các bài viết về KDTKL chủ yếu đề cập đến công tác trùng tu tôn tạo bảo tàng, di tích, ít có bài viết nghiên cứu về công tác GDTT, nhất là về quản lý công tác này, duy chỉ có luận văn “KDTKL với hoạt động GDTT ” của Lâm Đình Hùng đã nghiên cứu sâu và có hệ thống về công tác GDTT tại KDTKL, tuy nhiên, luận văn vẫn chưa đề cập đến biện pháp quản lý hiệu quả công tác này. Nhìn chung, rất ít bài viết đề cập đến công tác quản lí GDTT tại KDTKL, có chăng chỉ là sự cập đến khi nghiên cứu đến các vấn đề có liên quan. Hiện nay, chưa có bài viết, công trình nào nghiên cứu sâu và có hệ thống về vấn đề này. Đe phát huy tốt các giá trị của di tích Kim liên, nhất là giá trị GDTT cho các thế hệ tầng lớp khách tham quan, cần nâng cao hiệu quả quản lí chất lượng công tác GDTT tại KDTKL. Đây chính là nhiệm vụ mà tác giả luận văn đặt ra cho mình. 1.2. Một số khái niệm cơ bản. 1.2.1. Hệ thống Bảo tàng Hồ Chí Minh. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời “để tỏ lòng biết ơn và đời đời ghi nhớ công lao to lớn của Người, để ra sức học tập tư tưởng đạo đức và tác phong của Người, đào tạo con người mới, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Người” [18]. Và thể theo nguyện vọng của Đảng, toàn quân và toàn dân ta, ngay từ đầu những năm 1970 Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng bảo tàng Hồ Chí Minh. Ngày 15/10/1979 Chính 9 phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 375/ CP về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Viện bảo tàng Hồ Chí Minh: “Là trung tâm nghiên cứu những tư liệu hiện vật và di tích lịch sử có quan hệ đến đời sống và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của Người và tuyên truyền, giáo dục quần chúng về sự nghiệp tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người thông qua những tư liệu, hiện vật và di tích đó”" Ra đời năm 1982 theo quyết định của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Hội đồng chính phủ, Hệ thống các bảo tàng lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và tuyên truyền giáo dục về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nhân dân ta, thông qua các di tích, tài liệu và hiện vật lịch sử về Người. Kết quả nghiên cứu khoa học các di tích lưu niệm về Người trong những năm qua cho thấy có 657 di tích lưu niệm có quan hệ với năm mưoi năm Người sống và hoạt động trong nước. [27] Nhưng chỉ một số điểm di tích có giá trị quan trọng nhất được chính phủ quyết định thành lập bảo tàng. Những bảo tàng và di tích này nằm trong hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh trong đó khởi thuỷ là KDTKL - nơi Chủ tịch Hồ chí Minh cất tiếng khóc chào đời và kết thúc là Phủ Chủ tịch - nơi Người về cõi vĩnh hằng. Hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh: 1. Khu di tich Kim Liên (Nghệ An) 2. Khu di tích Bắc Bó (Cao Bằng) 3. Di tích Vạn Phúc (Hà Đông) 4. Di tích 48 Hàng Ngang (Hà Nội) 5. Bảo tàng Hồ Chí Minh- Chi nhánh Bình Thuận 6. Di tích Mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh sắc (Đồng Tháp) 7. Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành thố Hồ Chí Minh. 8. Bảo tàng Hồ Chí Minh Chi nhánh Thừa Thiên- Huế. 9. Bảo tàng Hồ Chí Minh- Chi nhánh Quân Khu V. 10 10. Bảo tàng Hồ Chí Minh- Chi nhánh Gia Lai và Kon Tum. 11. Bảo tàng Hồ Chí Minh- Chi nhánh Đồng bằng sông Cửu Long. 12. Quảng trường Hồ Chí Minh và tượng đài Bác ( Thành phố Vinh) 13. Di tích Nghĩa Lộ Yên Bái. 14. Bảo tàng Hồ Chí Minh- Hà Nội. Hệ thống bảo tàng, di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên một bức tranh toàn cảnh ghi lại những dấu ấn sâu đậm về Chủ Hồ Chí Minh trên suốt chiều dài đất nước từ Bắc đến Nam, trong đó, KDTKL là một điểm nhấn quan trọng, gắn liền với một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Điều 4, Nghị định số 375-CP Hội đồng Chính phủ ngày 15/10/1979 qui định: “Viện bảo tàng Hồ Chí Minh có hệ thống và các di tích lưu niệm. Các chi nhánh di tích này chịu sự chỉ đạo toàn diện của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn và nghiệp vụ của bảo tàng Hồ Chí Minh và theo nguyên tắc hai chiều lãnh đạo”. Theo đó, KDTKL chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của bảo tàng Hồ Chí Minh. 1.2.2. Giáo dục và Giáo dục truyền thống. 1.2.2.1.Giáo dục: Theo từ điển Hán Việt: “Giáo” là Dạy bảo- Mệnh lệnh- Tôn giáo; “Dục” là nuôi nấng - Đẻ con. Giáo dục nghĩa là dạy dỗ khiến người ta thoát khôi trạng thái tự nhiên của tạo vật sinh ra. [9] Theo định nghĩa của Giáo dục học, “Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại được thừa kế, bổ sung trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên”[23,tr 9] + Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá tình trang bị và nâng cao kiến thức hiểu biết về thế giới khách quan, khoa học kĩ thuật, kĩ năng về hoạt động, về nghề nghiệp... cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian, thời 11 gian nào thích hợp với từng loại đối tượng, bằng các phương tiện dạy học khác nhau, kể cả phương tiện thông tin đại chúng (như phát thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh...) với các kiểu học tập rất đa dạng, linh hoạt trong đó người học đóng vai trò “trung tâm”. Giáo dục là quá trình diễn ra liên tục trong mọi môi trường hoạt động của con người, trong đó, học đường là môi trường đào tạo có vai trò rất quan trọng. + Theo nghĩa hẹp: Giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới quan, lí tưởng đạo đức, thái độ thẩm mĩ của con người, kể cả việc nâng cao thể lực. Quá trình này được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ được xem xét về mặt nhận thức mà còn căn cứ trên các hành vi, thói quen, biểu hiện trình độ phát triển (cao hay thấp) của trình độ “có giáo dục” của mỗi con người. Như vậy, giáo dục là một quá trình, diễn ra trong nhiều môi trường, học đường là môi trường đóng vai trò quan trong nhất, nhưng bên cạnh đó, môi trường ngoài trường học đóng vai trò không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người. Bởi vậy cần phát huy giá trị giáo dục của các loại hình ngoài trường học trong đó có cần coi trọng và phát huy công tác giáo dục tại các các bảo tàng. 1.2.2.2. Truyền thống. Từ truyền thống tiếng La tinh là Traditio “hành vi lưu truyền”; là động từ Tradere “chuyển sang cho người khác, giao lại cho người khác” về truyền thống có nhiều cách hiểu, song có thể thống nhất ở nội hàm: truyền thống là những gì được lưu giữ, bảo tồn từ thế hệ này qua thế hệ khác; thứ được trao truyền có thể là những tri thức kinh nghiệm xã hội, là văn hoá hoặc hẹp hơn là đạo đức lối sống, phong tục tập quán, tư tưởng. Truyền thống mang trong nó tính hai mặt: Một mặt truyền thống góp phần suy tôn, gìn giữ những gì quý giá, là cốt cách nền tảng để phát triển cộng đồng, ở góc độ này truyền thống mang những giá trị tích cực, là chỗ dựa không thể thiếu cho dân tộc trên đường đi đến tương lai. Mặt khác, truyền thống là nơi 12 dung dưỡng duy trì, làm sống dậy các mặt bảo thủ lạc hậu khi điều kiện hoàn cảnh thay đổi, góp phần kìm hãm, níu kéo, làm chậm về sự phát triển của một quốc gia dân tộc. Chúng tôi đề cập đến khái niệm truyền thống hàm nghĩa những yếu tố tốt đẹp, thể hiện bản sắc của mỗi cộng đồng được các thế hệ nối tiếp nhau lưu truyền, lưu giữ và trân trọng bảo tồn. Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến truyền thống ở mặt văn hoá truyền thống, là mặt tích cực, mặt giá trị của truyền thống. Là những truyền thống đã được lịch sử khẳng định giá trị ý nghĩa tích cực của nó đối với cộng đồng trong giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi dân tộc dù ở trình độ cao hay thấp đều có những văn hoá truyền thống đặc trưng riêng của mình. Hệ thống đó chính là sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên bản sắc riêng của một dân tộc. Giá trị văn hoá truyền thống đó được truyền lại cho thế hệ sau và trở thành một nội lực nội sinh để phát triển đất nước. “Truyền thống là tập họp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”. [26,tr 86] Theo Giáo sư Trần Văn Giàu “Giá trị truyền thống được hiểu là những cái tốt nhất, bởi những cái tốt nhất mới được gọi là giá trị, thậm chí không phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị, mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức cho sự hướng dẫn nhất định, đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái niệm giá trị truyền thống”. GSTS khoa học Trần Ngọc Thêm cho rằng “Truyền thống Văn hoá là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người thông qua không gian và được cố định hoá dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ, pháp luật và dư luận... ” [28]. 13 Như vậy, có thể khái quát văn hoá truyền thống có những tích chất cơ bản sau: Tính giá trị: Cũng như văn hoá nói chung, văn hoá truyền thống mang tích giá trị, văn hoá truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống và góp phần phát triển cuộc sống. Văn hoá truyền thống mang tính giá trị bởi nó là chuẩn mực, là thức đo hành vi đạo đức cho những quan hệ ứng xử giữa con người và con người trong một cộng đồng, giai cấp, quốc gia, dân tộc nhất định. Giá trị văn hoá truyền thống của một dân tộc là những nguyên lí đạo đúc lớn mà con người trong một nước thuộc các thời đại, giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái đúng sai, để định hướng cho các hoạt động vì mục đích xây dựng cuộc sống tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Tính tuyên truyền: Văn hoá ra đời và phát triển suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, những giá trị của nó được lưu truyền , chuyển giao, tiếp nối, qua nhiều thế hệ và giá trị văn hoá truyền thống đó được lưu truyền, gìn giữ, phát huy lên một tầm cao mói. Qua hàng ngàn năm lịch sử, các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam như yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, ý thức cộng đồng được lưu truyền phát triển tạo thành một hệ giá trị mới của dân tộc Việt Nam Tính ổn định: Những giá trị văn hoá truyền thống được gợn lọc khẳng định qua nhiều thế hệ, nó trở thành cái Chân- Thiện- Mỹ được xã hội thừa nhận. Nó một trong những hệ giá trị của văn hoá dân tộc, một thành tố ổn định của ý thức xã hội. văn hoá truyền thống trở thành những khuôn mẫu được cố định hoá dưới dạng phong tục tập quán, nghi lễ, dư luận, pháp luật...những đạo lí uống nước nhó nguồn, lá lành dùm lá rách trở thành những giá trị ổn định, nó là những thước đo, khuôn mẫu đánh giá nhân cách con người, hành vi của mỗi cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Trong các giá truyền thống của dân tộc Việt Nam, yêu nước là giá trị cao nhất, thể hiện nổi bật khi tổ quốc bị xâm lăng,và hình tượng người anh hùng cứu nước luôn chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống tinh thần của dân tộc ta. Cùng với việc duy trì và phát triển những giá trị truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, trong thời đại mới truyền thống được được bổ sung nhiều giá trị 14 mới đó là truyền thống cách mạng. Truyền thống cách mạng là truyền thống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nội dung cốt lõi của truyền thống cách mạng là tiếp tục phát huy cao nhất truyền thống của dân tộc. Đó là yêu nước gắn với yêu Chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa xã hội. Những giá trị mới không chỉ kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn làm phong phú hơn hệ thống giá trị truyền thống. Những truyền thống đó trở thành nguồn lực nội sinh, sức mạnh to lớn giúp dân tộc ta vững vàng trong thời kỳ mới. Những giá trị truyền thống luôn hiện hữu quanh ta ở phương diện tinh thần từ cách sống, cách ứng xử, thái độ với tự nhiên, với con người, với lao động. Và hiện hữu bằng vật chất cụ thể, một trong các biểu hiện vật chất đó là những hiện vật trưng bày tại các bảo tàng, di tích. Một đối tượng chỉ được coi là di tích với các điều kiện sau đây: Thứ nhất là thể vật chất của các mặt văn hoá. Thứ hai chứa đựng những kiến thức hiểu biết và kinh nghiệm sống được tích luỹ trong qua trình hoạt động của con người để trở thành nguồn tư liệu đầu tiên của tri thức. Thứ ba là đối tượng trực tiếp của nhận thức cung cấp cho chúng ta những thông tin nguyên gốc. Thứ tư có quyết định công nhận về mặt pháp lí của bộ Văn hoá- thông tin hoặc được vào sổ kiểm kê của các bảo để trở thành hiện vật. Như vậy, bản thân hiện vật là nguồn đầu tiên của tri thức, nó cung cấp những tri thức nguyên gốc và nó chứa đựng những giá trị truyền thống, lịch sử của một giai đoạn, thời kì, của một địa phương, vùng miền, hay những cá nhân tiêu biểu của thời kì hay địa phương đó. Ngày 20/11/1960, khi đến thăm viện bảo tàng cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết vào sổ vàng: “Viện bảo tàng là một trường học tốt về 15 lịch sử cách mạng của dân tộc ta ... các tài liệu hiện vật trưng bày sẽ làm cho mọi người tăng thêm lòng tin tưởng ở Đảng và chế độ tốt đẹp của chúng ta.” 1.2.2.3. Giáo dục truyền thống. GDTT được hiểu là quá trình truyền đạt và tiếp thu tri thức, hiểu biết và các giá trị truyền thống tiêu biểu, phản ánh cuộc sống, tâm tư tình cảm, lối sống, phong tục tập quán tốt đẹp của một địa phương, dân tộc, vùng miền. GDTT chính là gìn giữ, bồi đắp và phát triển những giá trị tốt đẹp của dân tộc ta như truyền thống đoàn kết dân tộc; đấu tranh bất khuất; yêu nước thương nòi, tương thân tương ái lá lành đùm lá rách, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. GDTT là hình thành nhân cách bản lĩnh cho những thế hệ công dân mới, và là điểm tựa để sáng tạo các giá trị văn hóa mới, đồng thời, là cơ sở để bảo vệ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chống lại văn hóa ngoại lai không phù hợp với truyền thống dân tộc, và những thứ phản văn hóa là hệ quả của nền kinh tế thị trường. * Con đường giáo dục truyền thống. - Con đường gia đình: các thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau từ truyền thống gia đình, dòng họ, phong tục tập quán, lối sống cách ứng xử của ông bà cha mẹ; những quan niệm, phong tục tốt đẹp của địa phương, quê hương... - Con đường nhà trường: qua những bài học lịch sử giáo dục cho các em lịch sử hào hùng của dân tộc và tinh thần kiên cường bất khuất của ông cha qua quá trình dựng nước và giữ nước; gương những anh hùng kiên trung, những người thầy mẫu mực. Qua những bài văn bài thơ bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, yêu đồng chí đồng bào. Qua môn đạo đức giáo dục cho các em những đức tính quý báu cần có trong cuộc sống: yêu đất nước, gia đình, tình bạn, tình yêu, đức tính cần kiệm, hi sinh, tính trung thực,... - Xã hội: Thông qua dư luận xã hội, thông qua phương tiện thông tin đại chúng: xây dựng các chương trình, các phiên bản mang tính GDTT. Một trong những môi trường giáo dục ngoài nhà trường quan trọng là các di tích, bảo tàng. 16 Các di tích, bảo tàng lịch sử văn hóa không chỉ là nhân tố hợp thành của nền văn hóa dân tộc, mà còn là bộ phận cấu thành môi trường sống của con người, và là yếu tố có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển xã hội. * Khi tiến hành công tác GDTT cần chú ý 2 yêu cầu cơ bản sau: - Xác định những giá trị truyền thống tốt đẹp cần duy trì, phát triển, xây dựng truyền thống mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội. Việc xây dựng những truyền thống, phát triển nội dung và xây dựng truyền thống mới để giáo dục cho các thế hệ sau là việc làm rất cần thiết vì chỉ có nhận thức được việc duy trì những truyền thống đạo đức tốt đẹp thì mọi người mói tự giác thực hiện, phát triển truyền thống. Lịch sử cho thấy lúc nào đó, ai đó lãng quên lịch sử hào hùng của dân tộc thì người đó đã đánh mất chính mình và mất đi một động lực để phát triển. - Khi GDTT cần chú ý sử dụng truyền thống như là một phương pháp giáo dục, điều đó có nghĩa là thông qua các hình thức hoat động giáo dục, kết hợp với các lực lượng, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo ra dư luận xã hội lành mạnh, ủng hộ cá nhân, hành vi tốt, lên án mạnh mẽ những cá nhân, hành vi phi đạo đức đi ngược với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. GDTT tại các bảo tàng di tích. Công tác giáo dục là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng, góp phần quan trọng trong việc thực hiện chức năng giáo dục của bảo tàng. Đây là khâu cuối trong chu trình hoạt động của bảo tàng, thực hiện các hình thức tiếp cận với công chúng. Với chức năng giáo dục khoa học, bảo tàng tham gia vào hoạt động giáo dục chung của toàn xã hội. Công tác giáo dục của bảo tàng lấy tài liệu- hiện vật gốc làm phương tiện, thông qua các hình thức tiếp cận, chuyển giao có mục đích những thông tin tri thức khoa học, đạo đức, thẩm mĩ cho công chúng, qua đó góp phần mang lại tri thức, hiểu biết khoa học, hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và nâng cao thị hiếu thẩm mĩ cho công chúng. Bảo tàng đóng vai trò là một thiết chế văn hóa đặc thù, là “trường học” thích hợp cho mọi lứa tuổi. 1.2.3. Chất lượng và chất lượng giáo dục truyền thống. 17 1.2.3.1. Chất lượng. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng, theo từ điển Tiếng Việt, chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc”. Theo ISO 9000, chất lượng là “mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có” Theo Harvey và Green (1993), chất lượng được định nghĩa như tập hợp các thuộc tính khác nhau: +) Chất lượng là sự xuất sắc +) Chất lượng là sự hoàn hảo +) Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu +) Chất lượng là sự đáng giá với đồng tiền bỏ ra +) Chất lượng là sự chuyển đổi về chất Chất lượng giáo dục “là tổng hoà những phẩm chất và năng lực được tạo nên trong quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho người học so với thang chuẩn của nhà nước hoặc xã hội. Chất lượng giáo dục có tính có tính lịch sử cụ thể và luôn luôn tuỳ thuộc vào các điều kiện xã hội đương thời, trong đó có các thiết chế, chính sách và lực lượng tham gia giáo dục”. 1.2.3.2. Chất lượng giáo dục truyền thống. Tác giả Nguyễn Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa về chất lượng rất có ý nghĩa đối với việc xác định và đánh giá chất lượng giáo dục, đó là “ chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu” [17]. Từ định nghĩa của Nguyễn Hữu Châu có thể xem Chất lượng GDTT là sự phù hợp với mục tiêu đặt ra cho GDTT. Mục tiêu GDTT là những yêu cầu mà xã hội đặt ra đối với công tác GDTT. Là bồi dưỡng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Chất lượng GDTT không thể đong đếm cụ thể và dễ dàng kiểm tra, bởi nó không dễ định lượng được bằng con số mà nó được xác định bởi phẩm chất của con người, văn hoá của dân tộc được thẩm thấu vào trong mỗi con người, và nó được biểu hiện ở khả năng ứng xử của con người trong xã hội, bởi ý thức và lối sống cũng như trách nhiệm sống của con người đối với xã hội. Tuy nhiên, một 18 cách tương đối, ta có thể xem chất lượng GDTT được xác định và đánh giá bởi các tiêu chí như: + Hành vi ứng xử, lối sống, phẩm chất đạo đức của các tầng lớp trong xã hội. + Sự gia tăng hay suy giảm sự vi phạm các tệ nạn xã hội. + Mức độ nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật nhà nước. + Mức độ hành vi vì cộng đồng, thái độ chia sẻ với cộng đồng. Tuy nhiên, ở các di tích, bảo tàng chất lượng GDTT được xác định ở các tiêu chí: + Số lượng đối tượng được thu hút tham gia + Khả năng truyền thụ tri thức; + Khả năng lĩnh hội tri thức có thể đạt được; + Các điều kiện phục vụ tốt công tác GDTT. + Ket quả sự tác động của các hình thức GDTT. 1.2.4. Quản lý và quản lý chất lượng giáo dục truyền thống. 1.2.4.1. Khái niệm quản lí. Quản lí là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã đòi hỏi phải có sự phối hợp hoạt động của các cá nhân để duy trì sự sống, do đó cần sự quản lí. Ngày nay, quản lí đã trở thành hoạt động phổ biến, diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là một loại hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt mục tiêu chung.Trong đời sống kinh tế -xã hội thì vấn đề quản lí càng trở nên hết sức phức tạp. Quản lí diễn ra ở từng cơ quan, ban nghành, địa phương, trên từng quốc gia và lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu nhằm giải quyết những vấn đề chung nảy sinh, như vấn đề dân số và lao động, y tế, môi trường, chiến tranh, tội phạm...mà một quốc gia riêng lẻ không thể giải quyết được. Do đó có thể kết luận rằng, nơi nào có hoạt động chung thì nơi đó có quản lí. Như vậy, quản lí là sir tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. 19 - Quản lí bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định. - Quản lí thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận (hay phân hệ), đó là chủ thể quản lí (là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lí, điều khiển), đây là quan hệ ra lệnh- phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. - Quản lí bao giờ cũng là quản lí con người. - Quản lí là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với qui luật khách quan. - Quản lí xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin. * Vai trò của quản lí được thể hiện bằng những tác dụng cụ thể sau: - Quản lí nhằm tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức, bao gồm các thành viên trong tổ chức, giữa những người bị quản lí với nhau và giữa những người bị quản lí và người quản lí. Chỉ có thể tạo nên sự thống nhất trong đa dạng thì quản lí mới có kết quả và mới giảm được chi phí tiền của và công sức cho quản lí. - Định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu chung và hướng mọi nỗ lực của cá, tổ chức vào mục tiêu chung đó. -T ổ chức, điều hoà, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm đạt mục tiêu quản lí. - Tạo động lực cho mọi cá nhân tổ chức bằng cách kích thích đánh giá, khen thưởng những người có công; uốn nắn những lệch lạc, sai sót của cá nhân trong tổ chức nhằm giảm bớt những thất thoát, sai lệch trong quá trình quản lí. -T ạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển cá nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả. 1.2.4.2. Quản lí chất lượng giáo dục truyền thống. Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu, bởi vậy, quản lí chất lượng phải gắn với mục tiêu chất lượng đó đã đạt mục tiêu đặt ra hay chưa. Nhưng GDTT có nghĩa là giáo dục nhân cách, mà nhân cách con người được hình thành và phát triển trong quá trình, bởi vậy, đánh gía chất lượng GDTT phải đảnh giá 20 trong cả quá trình và hiệu quả lâu dài của nó. Quản lí chất lượng GDTT là thực hiện chức năng quản lí trên các mặt sau: Quản lí mục tiêu GDTT. Quản lí nội dung GDTT. Quản lí hình thức, phương pháp GDTT. Quản lí đội ngũ tham gia công tác GDTT. Quản lí công tác kiểm tra đánh giá công tác GDTT. Quản lí cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo dục truyền thống. 1.3. Một số vấn đề lý luận về công tác giáo dục truyền thống ở Hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh 1.3.1. Mục tiêu của GDTT ở các khu di tích, bảo tàng về Hồ Chí Minh. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh, mục tiêu công tác GDTT được xác định là: Tuyên truyền giáo dục cho các thế hệ người Việt Nam hiểu rồ về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua đó hình thành ở mỗi người tình cảm kính yêu lòng biết ơn đối với Bác, ý thức học tập làm theo Bác, và lí tưởng sống như Bác. 1.3.2. Nội dung giáo dục truyền thống ở hệ thống bảo tàng Hồ Chí Minh. Thông qua các tài liệu hiện vật tại các di tích, bảo tàng cung cấp cho công chúng những tri thức có liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh: - Quê hương, gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh- mảnh đất xứ Nghệ giàu truyền thống, với con người xứ Nghệ thông minh, cần cù, chịu khó, anh dũng kiên trung đã sinh thành hun đúc nên tâm hồn nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh. - Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hành trình Người ra đi tìm đường cứu nước; Quá trình Người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Hồ Chí Minh và các chiến dịch lịch sử...Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng