Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Kể từ khi có Luật hợp tác xã mới (1/1/1997), kinh tế tập thể mà nòng
cốt là HTX kiểu mới phát triển dƣới nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong
các ngành các lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn, đã đáp ứng một
phần nhu cầu của những ngƣời lao động, hộ sản xuất kinh doanh, góp phần
quan trọng vào quá trình phát triển đất nƣớc.
Tuy nhiên hiện nay kinh tế HTX đặc biệt là các HTX trong nông
nghiệp còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn có
hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho các thành viên chƣa nhiều. Những hạn
chế, yếu kém đó có thể do trình độ phát triển thấp của lực lƣợng sản xuất
nhƣng quan trọng hơn là do những thiếu sót kuyết điểm của các cấp uỷ Đảng
và Chính quyền từ Trung ƣơng đến địa phƣơng: nhận thức về vị trí ,vai trò tất
yếu khách quan của Kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế HTX chƣa thống
nhất,việc tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, giải thích mô hình
HTX kiểu mới chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, bộ máy quản lý của Nhà nƣớc
đối với các HTX hầu nhƣ không còn; Nhà nƣớc vừa lúng túng vừa buông
lỏng trong tổ chức chỉ đạo, chƣa làm tốt việc tổ chức thi hành luật HTX, chƣa
quan tâm đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ và kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vƣớng mắc cho HTX; chƣa huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị để đẩy mạnh phát triển các HTX. Tâm lý hoài nghi, mặc cảm
với mô hình HTX kiểu cũ trong xã hội còn phổ biến.
Nghị quyết Đảng IX đã xác định “ Kinh tế tập thể phát triển với nhiều
hình thức đa dạng trong đó nòng cốt là các HTX” Kinh tế Nhà nƣớc cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền Kinh tế quốc
dân. Các HTX nông nghiệp trƣớc hết tập trung làm các dịch vụ đầu vào ,đầu
ra phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ thành viên, từng bƣớc
mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh tổng hợp.Mở rộng các hình thức
liên doanh liên kết kinh tế giữa HTX với các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, nhất là doanh nghiệp Nhà nƣớc. Khi HTX phát triển đến trình
độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của HTX, các liên hiệp HTX.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề phát triển các HTX trong
kinh tế nông thôn nói riêng và trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá
nói chung, em đã chọn đề tài nghiên cứu là:”Một số giải pháp phát triển hợp
tác xã nông nghiệp ở tỉnh Hà tây”.
Đề tài đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn tận tình và chu đáo của Cô
Giáo Vũ Thị Minh. Do thời gian và trình độ nghiên cứu có hạn nên đề tài của
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
em còn nhiều thiếu sót và hạn chế, em rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý
kiến của quý Thầy, Cô để đề tài của em đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần I
Cơ sở lí luận và thực tiễn về Kinh tế hợp tác
và hợp tác xã
I. khái niệm, bản chất và các loại hình Kinh tế hợp tác và hợp
tác xã.
1.Kinh tế hợp tác .
1.1 Khái niệm, bản chất và vai trò của kinh tế hợp tác (KTHT).
Sự hợp tác trong lao động sản xuất của con ngƣời diễn ra từ rất sớm vì sự
hợp tác trong lao động sản xuất là bản tính xã hội của con ngƣời ( Các Mác)
thực tiễn cho thấy trong quá trình sản xuất con ngƣời buộc phải liên kết với
nhau để thực hiện những hoạt động mà từng ngƣời tách riêng ra không thể
thực hiện đƣợc hay thực hiện kém hiệu quả.
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất vật chất đầu tiên mà con ngƣời tiến
hành, sản xuất nông nghiệp diễn ra trên không gian rộng và chịu ảnh hƣởng
rất lớn bởi các điều kiện khách quan, trong đó có nhiều tác động tự nhiên tiêu
cực nhƣ hạn hán, bão lụt chỉ có thể đƣợc hạn chế và khắc phục khi có sự
chung sức của nhiều ngƣời sản xuất. Sản xuất nông nghiệp còn mang tính thời
vụ nên trong nhiều trƣờng hợp đòi hỏi sự tập trung sức lao động và công cụ
lao động để hoàn thành một số công việc trong khoảng thời gian nhất định.
Mặt khác, những ngƣời sản xuất nông nghiệp lại chủ yếu là các hộ nông dân
với nguồn lực rất có hạn. Do vậy khác với các ngành sản xuất khác, sản xuất
nông nghiệp luôn đòi hỏi sự liên kết, sự chung sức tự nguyện giữa những
ngƣời sản xuất để hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất. Tuy
nhiên trong nông nghiệp do điều kiện sản xuất cũng nhƣ nội dung, tính chất
của các hoạt động sản xuất kinh doanh rất đa dạng mà sự liên kết giữa những
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
ngƣời sản xuất cũng đa dạng và đƣợc thực hiện với những hình thức, quy mô
và nội dung khác nhau.
Trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau, do các hoạt động kinh tế có những
đặc điểm riêng mà kinh tế hợp tác có đặc điểm khác. Trong công nghiệp hợp
tác giữa những ngƣời lao động sản xuất có thể thực hiện trong mọi khâu của
quá trình sản xuất, từ đảm bảo các yếu tố đầu vào đến khâu trực tiếp sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm. Ngƣợc lại trong nông nghiệp, đối tƣợng của sản xuất
nông nghiệp là những cơ thể sống chịu ảnh hƣởng trực tiếp thƣờng xuyên và
rất mẫn cảm với các tác động của tự nhiên và của con ngƣời, chúng luôn đòi
hỏi sự chăm sóc tỉ mỉ và thƣờng xuyên của những ngƣời chủ thực sự và trực
tiếp của đồng ruộng và chuồng trại. Vì vậy trong nông nghiệp hợp tác giữa
những ngƣời lao động sản xuất thƣờng là hợp tác trong các khâu cung ứng các
yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, còn khâu sản xuất
trực tiếp thì do các hộ nông dân đảm nhiệm.
Traianôp cho rằng: Hợp tác xã nông nghiệp là bổ sung cho các hộ nông
dân xã viên, phục vụ nó và nếu không có nó thì kinh tế hợp tác không có ý
nghĩa. Nhà lý luận ngƣời Mỹ Êmiliannôp quan niệm rằng: Hợp tác xã không
phải là một xí nghiệp tập thể mà là tập hợp xí nghiệp các hộ thành viên vẫn
giữ đƣợc tính độc lập của mình, khác với các bộ phận của một xí nghiệp phụ
thuộc hoàn toàn vào xí nghiệp.
Lênin cho rằng “Nếu chúng ta tổ chức đƣợc toàn thể nông dân vào hợp tác xã
thì chúng ta đã đứng đƣợc hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa”.
1.2. Những nguyên tắc cơ bản của kinh tế hợp tác.
Có thể nêu ra nhiều nguyên tắc cơ bản của kinh tế hợp tác, dƣới đây chỉ
xin nêu ra một số nguyên tắc cơ bản nhất:
- Nguyên tắc tự nguyện: Ngƣời nông dân trên cơ sở lợi ích của mình mà
hoàn toàn tự nguyện, tự quyết định việc gia nhập và ra khỏi các tổ chức kinh
tế hợp tác. nguyên tắc tự nguyện có vị trí hết sức quan trọng đối với kinh tế
hợp tác vì chỉ có dựa trên sự tự nguyện của những ngƣời tham gia thì sự liên
kết giữa những ngƣời tham gia với nhau mới là thực chất và do đó kinh tế hợp
tác mới có cơ sở vững chắc để hình thành và tồn tại. Lênin luôn nhấn mạnh
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nguyên tắc tự nguyện và ngƣòi coi tự nguyện là nguyên tắc tiên quyết của
kinh tế hợp tác.
- Nguyên tắc cùng có lợi: Theo nguyên tắc này lợi ích của các thành viên
tham gia kinh tế hợp tác đều đƣợc đảm bảo. Lợi ích kinh tế thiết thân là động
lực, là căn cứ thúc đẩy các hộ nông dân tham gia các tổ chức kinh tế hợp tác.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất có ý nghĩa quyết định nhất đối với kinh tế hợp
tác.
- Nguyên tắc quản lý dân chủ: Theo nguyên tắc này tổ chức và hoạt động
của các đơn vị kinh tế hợp tác phải thực sự dân chủ. Tập thể thành viên của
các tổ chức hợp tác phải là ngƣời quyết định mọi vấn đề về tổ chức và hoạt
động của đơn vị hợp tác mà họ tham gia.
- Nguyên tắc giúp đỡ của Nhà nƣớc: Để hình thành và phát triển kinh tế
hợp tác thì không thể thiếu sự giúp đỡ của Nhà nƣớc về tài chính, kỹ thuật…
Tuy vậy do bản chất của kinh tế hợp tác mà sự giúp đỡ của Nhà nƣớc phải tôn
trọng các nguyên tắc trên thì sự giúp đỡ của Nhà nƣớc mới phát huy hết tác
dụng.
1.3. Các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp rất đa dạng nên nhu cầu hợp tác trong sản xuất
kinh doanh cũng đa dạng, từ đó dẫn tới tính đa dạng của các hình thức hợp
tác trong nông nghiệp. Các hình thức hợp tác này phân biệt với nhau bởi tính
chất, nội dung hoạt động, quy mô hoạt động, quy mô và trình độ tổ chức. Có
thể nêu ra một số hình thức chủ yếu của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
- Tổ hợp tác: Tổ hợp tác thƣờng có quy mô nhỏ, có nội dung hoạt động hẹp,
đơn mục tiêu, hình thành và hoạt động trên cơ sở hợp tác giản đơn, chƣa có tổ
chức chặt chẽ, thƣờng có vốn quỹ chung, hoạt động chƣa có điều lệ, không
phải đăng ký kinh doanh nên chƣa phải là pháp nhân kinh tế. Các tổ hợp tác
trong nông nghiệp thƣờng không cố định.
- Hợp tác xã: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ, có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, có vốn quỹ chung, đƣợc cấp đăng ký kinh doanh và có tƣ cách pháp
nhân. Luật HTX nƣớc ta quy định “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do
những ngƣời lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn,
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
góp sức lập ra theo quy định của pháp luật”. ở nƣớc ta HTX đƣợc xem là hình
thức cơ bản của KTHT.
- Hội (câu lạc bộ) nghề nghiệp: Hội (câu lạc bộ) nghề nghiệp là một hình
thức hợp tác có phạm vi hoạt động linh hoạt, thƣờng gắn với một loại sản
phẩm trồng trọt, chăn nuôi hay một lĩnh vực hoạt động nào đó (nhu hội sinh
vật cảnh, hội làm vƣớn, hội nuôi ong), song không phải là một tổ chức sản
xuất kinh doanh, không có tƣ cách pháp nhân. Các thành viên tham gia chủ
yếu là để trao đổi, giúp đỡ nhau về kinh nghiệm sản xuất, kỹ thuật sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm
- Hiệp hội theo sản phẩm hay nhóm sản phẩm: Đây là hình thức hợp tác có
phạm vi hoạt động rộng, có thể là phạm vi một vùng, một miền hay cả nƣớc.
Thành viên của hiệp hội là những chủ thể kinh tế (có thể thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau) tham gia hiệp hội nhằm phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau
trong sản xuất kinh doanh. Hiệp hội có điều lệ hoạt động song không phải là
đơn vị sản xuất kinh doanh.
Mỗi hình thức KTHT nêu trên đều có vị trí, vai trò quan trọng thích hợp
trong những điều kiện nhất định mà khi hình thức hợp tác nào có thể thay thế.
Bât kỳ một sự áp đặt hình thức hợp tác không phù hợp nào cũng đều dẫn đến
làm giảm hiệu quả hoạt động và làm suy yếu kinh tế hợp tác.
2. Hợp tác xã:
2.1. Khái niệm.
- Theo liên minh HTX quốc tế (International cooperative alliance- ICA):
“HTX là một tổ chức tự trị của những ngƣời tự nguyện liên hiệp lại để đáp
ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá
thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”.
- Tổ chức lao động quốc(TLO) định nghĩa HTX là sự liên kết của
những ngƣời đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện
liên kết lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ
đã chuyển giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết khó
khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích và tinh
thần chung.
- Ngày 20/3/1996 Quốc hội nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua Luật HTX. Tại Điều 1 Luật khẳng dịnh:” HTX là tổ chức kinh tế tự
chủ do những ngƣời lao động có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau thực hiện
có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh “.
- HTX kiểu mới là tổ chức kinh tế tự chủ của những ngƣời lao động có
nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện
2.2. Những đặc điểm cơ bản của HTX kiểu mới ở Việt Nam.
góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức
mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúy nhau thực hiện có hiệu quả
hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp
phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc. Hợp tác xã có tƣ cách pháp nhân,
có tổ chức chặt chẽ, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động
của mình và đƣợc đối xử bình đẳng nhƣ các thành phần kinh tế khác.
- Nguyên tắc tổ chức hoạt động của hợp tác xã: Khi xây dựng HTX kiểu
mới phải đảm bảo 5 nguyên tắc cơ bản: Tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX
theo quy định của điều lệ HTX; quản lý dân chủ và bình đẳng, mỗi xã viên
đều có quyền ngang nhau trong biểu quyết; tự chịu trách nhiệm và cùng có
lợi; chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên với sự phát triển của HTX.
- Quan hệ sở hữu và phân phối trong HTX: Khi ra nhập HTX mỗi xã
viên bắt buộc phải góp vốn theo quy định của điều lệ. Phần vốn góp của xã
viên thuộc sở hữu của từng thành viên, các nguồn khác thuộc sở hữu chung
của HTX. Sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX đƣợc phân phối
nhƣ sau: Thanh toán các khoản bù lỗ; trích lập các quỹ của HTX; chia lãi theo
vốn góp và công sức đóng góp của xã viên có tính đến mức độ sử dụng dịch
vụ của HTX.
- Xã viên HTX: Có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình, mỗi xã viên có thể
đồng thời là thành viên cuả nhiều HTX, không phân biệt ngành, nghề, địa giới
hành chính. Mỗi xã viên đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Quan hệ giữa HTX và xã viên: HTX tôn trọng quyền độc lập tự chủ
kinh tế của xã viên. Sự hình thành và phát triển HTX nông nghiệp không phá
vỡ tính độc lập tự chủ của kinh tế hộ, trang trại gia đình. Nó có tác đụng tạo
điều kiện phát triển tăng thu nhập cho kinh tế của các hộ xã viên. Trên cơ sở
đó mà thúc đẩy sự phát triển của kinh tế HTX.
- Điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể HTX: Khi thành lập HTX cần
phải có điều lệ, phƣơng án sản xuất kinh doanh cụ thể có tính khả thi, đƣợc
đại hội xã viên thông qua và cơ quan có trách nhiệm phê duyệt. Trong trƣờng
hợp giải thể theo nghị quyết của đại hội xã viên, hoặc bị buộc phải giải thể
theo quyết định của pháp luật, HTX phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với cơ
quan có thẩm quyền. Đại hội xã viên hoặc đại hội đại biểu xã viên có thẩm
quyền quyết định cao nhất đối với mọi hoạt động của HTX.
- HTX là một tổ chức kinh tế do các thành viên tự nguyện lập ra, nó
không phải là một tổ chức xã hội. HTX hoạt động theo luật pháp quy định
trƣớc hết về mục tiêu kinh tế. HTX chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ xã
hội đối với các xã viên của chính HTX, không thể biến HTX thành một tổ
chức xã hội, hoặc bắt buộc HTX làm nhiệm vụ nhƣ một tổ chức thành viên
trong hệ thống chính trị của địa phƣơng.
2.3. Các loại hình HTX
Căn cứ vào điệu kiện cụ thể của Việt Nam việc phan loại HTX thƣờng
đƣợc dựa vào: Chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hoá, quy mô và
đặc điểm hình thành HTX.
- HTX dịch vụ: Bao gồm 3 loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ
tổng hợp đa chức năng và HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX “chuyên
ngành”. HTX dịch vụ từng khâu có nội dung hoạt động tập chung vào từng
lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công việc trong qua trình
sản xuất. HTX dịch vụ tổng hợp - đa chức năng có nội dung hoạt động đa
dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất cung ứng vật tƣ đầu vào, tiêu thụ
sản phẩm …HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX “chuyên ngành” thƣờng
đƣợc hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất – kinh doanh
một loại hàng hoá tập trung, hoặc cùng làm một nghề giống nhau.
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: HTX loại này có đặc điểm nội dung
hoạt động sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. Thƣờng phù hợp trong các
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, nghề đánh cá, nghề làm muối.
- HTX sản xuất – kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện: Đặc điểm cơ
bản của mô hình HTX này là: cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy
quản lý theo nguyên tắc của HTX kiểu mới; sở hữu tài sản trong HTX gồm
hai phần sở hữu tập thể và sở hữu cổ phần; HTX hoạt động sản xuất – kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm phát triển kinh tế HTX và đem lại lợi ích
cho xã viên; HTX loại này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng, khai thác
II.khái niệm và đặc điểm Hợp tác xã nông nghiệp.
1. Khái niệm.
Từ khái niệm về hợp tác và kinh tế hợp tác xã ta có thể hiểu hợp tác xã
trong Nông nghiệp nhƣ sau: HTX nông nghiệp trƣớc hết là một tổ chức của
kinh tế hợp tác của những ngƣời sản xuất nông nghiệp. Đƣợc thành lập trên
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ nhằm đáp ứng những yêu cầu về dịch vụ đa
dạng trong sản xuất nông – lâm – ngƣ và đời sống của chính các xã viên tham
gia. HTX nông nghiệp có thể là các tổ chức kinh tế hợp tác của nông dân, ít
nhất trên 3 lĩnh vực: thứ nhất đó là lĩnh vực cung ứng các yếu tố đầu vào của
sản xuất nhƣ phân bón, thuốc trừ sâu… hợp tác trong khâu làm đất, thuỷ lợi,
thứ hai trong lĩnh vực giải quyết đầu ra của sản xuất nông nghiệp bao gồm
hoạt động thu mua chế biến đóng gói và tiêu thụ nông sản ở thị trƣờng trong
và ngoài nƣớc, thứ ba trong lĩnh vực trực tiếp tổ chức sản xuất tập trung trong
trồng trọt, chăn nuôi, kể cả nuôi thuỷ sản.
2. Đặc điểm của hợp tác xã nông nghiệp.
2.1.Quyền hạn và nghĩa vụ của hợp HTX nông nghiệp.
- HTX nông nghiệp có quyền về lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực, quy mô
sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động, quyết định cơ cấu tổ chức, thuê lao
động, xuất nhập khẩu, phân phối thu nhập, huy động vốn, đƣợc bảo hộ bí
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
quyết về công nghệ và quyền từ chối những can thiệp từ bên ngoài trái với
quy định của pháp luật.
Cụ thể hơn chi tiết hơn một số nội dung đặc thù của HTX nông nghiệp:
thứ nhất chủ động tổ chức các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp
theo khả năng, lợi thế và tập quán sản xuất. Thứ hai, chủ động tìm kiếm các
khả năng phát triển các ngành nghề khác nhau để đa dạng hoá kinh tế HTX,
thoát dần khỏi tình trạng thuần nông và độc canh, hiệu quả thấp.
- Về nghĩa vụ: Giống nhƣ các loại hình doanh nghiệp khác HTX phải
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ ngành nghề đã đăng ký,
thực hiện các nghĩa vụ về việc bảo đảm các quyền của xã viên, thực hiện
nghĩa vụ đối với xã viên trực tiếp lao động cho HTX và ngƣời lao động làm
thuê. Ngoài ra phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nƣớc và toàn xã
hội.
2.2. Điều kiện xã viên, quyền lợi, nghĩa vụ của xã của HTX nông nghiệp.
- Điều kiện để trở thành xã viên HTX nông nghiệp: Là công dân lao
động nông nghiệp hoặc lao động trong một số hoạt động gắn bó mật thiết với
lĩnh vực nông nghiệp từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, là
ngƣời dân sống trong cùng cộng đồng nông thôn.
- Quyền lợi của xã viên HTX nông nghiệp: Đƣợc làm việc cho HTX và
hƣởng thù lao theo lao động, đƣợc hƣởng phần lãi chia theo vốn góp, theo
công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ HTX, đƣợc HTX cung cấp các
thông tin cần thiết, đƣợc bồi dƣỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, đƣợc
hƣởng các phúc lợi chung của HTX, đƣợc khen thƣởng khi có nhiều đóng góp
xây dựng và phát triển HTX.
- Nghĩa vụ của xã viên HTX nông nghiệp: Gồm hai mặt nghĩa vụ vật
chất và nghĩa vụ chính trị. Cụ thể, chấp hành điều lệ, góp vốn theo quy định,
cùng chịu rủi ro, thiệt hại và các khoản lỗ của HTX trong phạm vi vốn góp
của mình, bồi thƣờng thiệt hại cho mình gây ra cho HTX theo quy định của
điều lệ.
2.3. Quan hệ tài sản và tài chính của HTX nông nghiệp.
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Quan hệ tài sản trong HTX nông nghiệp: Tài sản của HTX nông nghiệp
đƣợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, đó là nguồn vốn góp của xã viên
dƣới dạng tiền tệ hoặc hiện vật quy ra giá trị; nguồn vốn vay ngân hàng và các
tổ chức kinh tế; nguồn quà biếu theo tính chất kinh tế và pháp lý của nhuồn
gốc hình thành tài sản của HTX phân thành: nhóm tài sản từ nguồn nội tại và
nhóm tài sản từ bên ngoài. Quan hệ tài sản trong HTX nông nghiệp rất đa
dạng, những tài sản mang tính cộng đồng là những tài sản có giá trị lớn
thƣờng là tài sản thuộc về các công trình công cộng.
Quan hệ tài chính trong HTX nông nghiệp: Quan hệ tài chính trong HTX
nông nghiệp phản ánh sự vận động của các dòng tiền tệ diễn ra trong HTX
trong quá trình sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Cụ thể là những nguyên tắc
trong việc huy động vốn góp của xã viên các nguồn vốn khác để phát triển sản
xuất kinh doanh và phân phối lãi trong HTX nông nghiệp
2.4. Cơ sở khoa học về tổ chức quản lý HTX nông nghiệp
Các HTX nông nghiệp thực hiện quản lý dựa trên việc hình thành ba
định chế cơ bản đi từ dân chủ đến tập trung đó là: Đại hội xã viên, ban quản
trị, ban kiểm soát. Trong đó đại hội xã viên là cơ quan quyền lực cao nhất và
thực hiện quyền lực của mình dựa trên nguyên tắc dân chủ tổng hợp quyền
lực của các xã viên, thể hiện ở chỗ có quyền quyết định mọi vấn đề về tổ
chức, hoạt động của HTX, có quyền lập ra ban quản trị, ban kiểm soát, chủ
nhiệm HTX cũng nhƣ các chức danh quan trọng khác.
Ban quản trị HTX nông nghiệp có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh dịch vụ huy động vốn trong HTX nông
nghiệp. Ban quản trị có quyền lựa chọn kế toán trƣởng, cơ cấu tổ chức và các
bộ phận nghiệp vụ, chuyên môn HTX
Ban kiểm soát thực hiện quyền giám sát, kiểm tra ban quản trị và xã viên
trong việc thực hiện nghị quyết của đại hội xã viên.
Chủ nhiệm HTX đại diện trƣớc pháp luật để quan hệ đối ngoại, chủ động
điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX, đƣợc quyền triệu tập
các cuộc họp ban quản trị để thảo luận và quyết định các vấn đề phát sinh.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
2.5. Cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa nhà nước với HTX nông nghiệp.
Nhà nƣớc đƣợc xem nhƣ một nhân tố cơ bản trong việc nuôi dƣỡng phát
triển những nhu cầu hợp tác, hỗ trợ sự hình thành và trƣởng thành của từng
HTX cũng nhƣ toàn bộ phong trào HTX. Mối quan hệ nhà nƣớc – HTX
thƣờng đƣợc thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, quan hệ trực tiếp: quan hệ này thƣờng bắt đầu từ chức năng
của nhà nƣớc trong lĩnh vực tổ chức các hoạt động kinh tế của xã hội, đó là
tạo khung pháp lý cần thiết cho các lực lƣợng thị trƣờng hoạt động có hiệu
quả. Ngoài ra Nhà nƣớc còn tổ chức các cơ quan hỗ trợ phát triển HTX với
chức năng theo dõi giám sát việc thi hành luật pháp của HTX.
Thứ hai, quan hệ gián tiếp: mối quan hệ này rất đa dạng nhiều cấp độ
khác nhau tuỳ thuộc rất nhiều vào quan điểm, cách nhìn của từng chính phủ
đối với khu vực kinh tế HTX. Chẳng hạn, chính phủ có thể coi HTX là
phƣơng tiện để thực hiện các chính sách kinh tế của mình, khi đó chính phủ sẽ
có nhiều hỗ trợ vật chất cụ thể để tác động lên hệ thống này, hoặc nếu chính
phủ chỉ nhìn nhận HTX là một trong nhiều tổ chức kinh tế của lực lƣợng thị
trƣờng khi đó chính phủ sẽ không sử dụng các yếu tố tác động riêng hoặc ƣu
đãi nào đối với HTX.
III. tính tất yếu khách quan của kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở
Việt Nam.
Lịch sử phát triển kinh tế xã hội thế giới đã chứng minh rằng: sự phát triển
của chủ nghĩa tƣ bản và kinh tế thị trƣờng đã trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau, song về mặt cơ cấu và tổ chức kinh tế thì trong mỗi giai đoạn đều tồn
tại rõ nét ba khu vực khác nhau với vai trò vị trí và quy mô của mỗi khu vực
đƣợc biến đổi theo sự phát triển ở mỗi giai đoạn. Khu vực kinh tế cá thể tƣ
nhân là khu vực có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế TBCN
phát triển với nhịp độ tăng trƣởng cao, khu vực kinh tế nhà nƣớc, nhìn chung
hoạt động kinh doanh trì trệ kém năng động, hiệu quả kinh tế thấp kém hơn
khu vực tƣ nhân, song lại có vai trò tạo điều kiện cho kinh tế tƣ nhân và các
khu vực khác phát triển. Song song với hai khu vực kinh tế trên, hình thức tổ
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chức HTX ngày càng phát triển, tuy không phải là khu vực chính để tạo ra
tăng trƣởng kinh tế mà là khu vực phụ trợ, song khu vực này có vai trò, vị trí
qan trọng trong giải quyết việc làm đảm bảo đời sống cho đông đảo ngƣời lao
động( nhất là ở các nƣớc đang phát triển) tạo sự ổn định xã hội và môi trƣờng
thuận lợi cho tăng trƣởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam cũng cho thấy vai trò, vị trí của
các khu vực kinh tế ở từng thời kỳ là khác nhau. ở giai đoạn thực hiện cơ chế
kế hoạch hoá tập trung và phân chia nền kinh tế thành hai khu vực: Khu vực
kinh tế XHCN và khu vực kinh tế phi XHCN thì khu vực kinh tế XHCN đóng
góp 58.8% thu nhập quốc dân, khu vực kinh tế phi XHCN đóng góp 41,19%
thu nhập quốc dân.
Bƣớc sang giai đoạn thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, so sánh
giữa vốn nắm giữ của các doanh nghiệp với kết quả đóng góp thấy khá rõ:
Doanh nghiệp nhà nƣớc nắm giữ tỷ trọng vốn lớn hơn 68% tổng vốn doannh
nghiệp nhƣng đóng góp trong tổng sản phẩm xã hội GDP là 40,29%, ngƣợc
lại khu vực ngoài quốc doanh chỉ nắm dƣới 10% tổng số vốn các doanh
nghiệp nhƣng đóng góp đến 41,4% tổng GDP, HTX góp 8,9%, doanh nghiệp
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 9,8% tổng GDP.
Chúng ta thấy rõ KTHT và HTX không phải là khu vực đem lại lợi
nhuận cao và đóng góp cho tăng trƣởng kinh tế vì mục tiêu hoạt động của khu
vực này không đơn thuần chạy theo lợi nhuận nhƣng lại có vai trò to lớn trong
việc mang lại lợi ích cho ngƣời lao động cá lẻ đảm bảo sự ổn định xã hội,
thông qua sự giúp đỡ hỗ trợ với mọi ngƣời lao động có cơ hội tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế, bản thân họ và cộng đồng mà nếu để họ tự làm sẽ
gặp không ít khó khăn. Mặt khác, hình thức hợp tác này họ có thể tiếp nhận
và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn hỗ trợ của nhà nƣớc và các tổ chức
kinh tế xã hội đối với họ. Với đặc điểm kinh tế nƣớc ta còn chƣa phát triển và
kinh tế nông thôn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao (cả về lực lƣợng lao động
và giá trị đóng góp cho xã hội) bộ phận dân cƣ nghèo và yếu về kinh tế còn
khá lớn. Do đó đồng thời với quá trình tăng trƣởng , thúc đẩy tăng trƣởng vầ
phát triển kinh tế phải hết sức coi trọng xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
hợp với từng gia đình của lực lƣợng sản xuất. KTHT và HTX đặc biệt đối với
nông nghiệp , nông thôn có ý nghĩa vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình
phát triển nền kinh tế nƣớc nhà theo định hƣớng XHCN. Song cùng với sự
phát triển của toàn nền kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tất
yếu đòi hỏi KTHT và HTX không chỉ dừng lại ở các hình thức thô sơ mà phải
tự đổi mới luôn coi trọng việc trang bị và sử dụng các công nghệ kỹ thuật hiện
đại, nâng cao năng suất chất lƣợng mẫu mã chủng loại của sản phẩm làm ra,
đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng. Đó là con đƣờng đi lên mang
tính quy luật khách quan mà kinh nghiệm nhiều nƣớc trên thế giới đã chỉ ra.
IV. khái quát tình hình phát triển Hợp tác xã Nông nghiệp ở
việt nam
Tình hình phát triển của HTXNN Việt Nam có thể chia thành các giai
đoạn với các bƣớc phát triển và hạn chế nhƣ sau:
1. Giai đoạn 1955- 1958:
Thí điểm xây dựng các HTX nông nghiệp .
Trong nông nghiệp, sau cải cách ruộng đất chế độ bóc lột ruộng đất
phong kiến bị xoá bỏ, nông dân giành quyền làm chủ, hai triệu hộ nông dân
nghèo chia 8 vạn ha ruộng hăng hái làm ăn theo con đƣờng hợp tác mà Đảng
đã vạch ra. Khởi đầu là các tổ vần đổi công. Đổi công tự nguyện của nông
dân. Ngay từ đầu 1955 đã thành lập 153.000 tổ đổi công với 1.094.000 hộ
tham gia, chiếm 40,5% số hộ nông dân trong đó 12400 là các tổ đổi công
thƣờng xuyên với số hộ nông dân bằng 8,1% số hộ tham gia các tổ đổi công.
Đến 1958 tổng số tổ đổi công tăng lên 244.000 thu hút 65.7% tổng số hộ nông
dân, trong đó tổ thƣờng xuyên là 74.500 thu hút 32% số hộ tham gia hợp tác.
Hình thức hợp tác lao động giản đơn dƣới dạng tổ đổi công tự nguyện trong
giai đoạn này rất có hiệu quả, phù hợp với tâm lí và nguyện vọng của đông
đảo nhân dân, nên đã có tác dụng tích cực đến sản xuất nông nghiệp và quan
hệ sản xuất mới trong nông thôn . Trên cơ sở xác định các tổ đổi công, Đảng
ta đã hình thành chủ trƣơng về đẩy mạnh hợp tác hoá trong nông nghiệp .
Thực hiện chủ trƣơng đó trong nông nghiệp tính đến cuối 1957 đã thí điểm
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
xây dựng 42 HTX ở các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên và Thanh Hoá. Các HTX
thí điểm chủ yếu đƣợc hình thành từ các tổ đổi công có quy mô xóm hoặc
thôn bình quân 20-30 hộ xã viên, có ban quản trị rất gọn nhẹ từ 2-3 ngƣời và
1 kiểm soát viên, hình thức hợp tác chủ yếu là cùng làm chung và phân phối
theo công điểm. Các tƣ liệu sản xuất chung vẫn của riêng hộ xã viên, quyền
sở hữu ruộng đất của từng hộ vẫn đƣợc đảm bảo, nhƣng đƣợc HTX sử dụng
để sản xuất chung và chia hoa lợi hàng năm cho hộ xã viên. Đất khai hoang,
tăng vụ đƣợc giảm và miễn thuế, đƣợc tự do thuê nhân công. Với chủ trƣơng
đúng đắn đó đã tạo ra sự hăng hái phấn khởi trong nông dân, sản xuất phát
triển, đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ rệt, bình quân
lƣơng thực đầu ngƣời tăng từ 257(1957) lên 304 kg (1958) và 334 kg (1959).
2. Giai đoạn 1959-1960:
Giai đoạn thực hiện và hoàn thành cơ bản phong trào hợp tác hoá trong
nông nghiệp ở miền Bắc.
Sau 3 năm tiến hành thí điểm thành lập HTX nông nghiệp đến tháng 4
năm 1959 Đảng và Nhà nƣớc đã tổng kết và đánh giá: Xuất hiện mâu thuẫn
giữa phƣơng thức tập thể với cá nhân, mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng năng suất
và kỹ thuật lạc hậu. Nghị quyết số 16 TW tháng 4/1959 nhận định” Còn chế
độ tƣ hữu tƣ nhân về TLSX và lối làm ăn cá thể thì vẫn còn cơ sở vật chất và
điều kiện cho khuynh hƣóng TBCN phát triển”. Từ quan điểm này NQ 16 TW
qƣuyết định cần phải cải tạo sản xuất cá thể thành nền sản xuất tập thể, chặn
đứng con đƣờng TBCN ở nông thôn, cứu nông dân thoát khỏi nanh vuốt của
CNTB góp phần củng cố liên minh công nông. Nguyên tắc xây dựng HTX
là” Dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi. Ƣu tiên kết nạp xã viên là bần cố nông,
trung nông lớp dƣới, sau đó mới kết nạp trung nông, không bố trí trung nông
vào vị tríchủ chốt”.
Về hình thức tổ chức: HTX bậc thấp trả hoa lợi ruộng đất, HTX bậc
cao tập thể hoá TLSX, xoá trả hoa lợi ruộng đất.
Về quản lý: HTX thốngnhất quản lý điều hành đến từng lao động theo
công việc chung.
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Về phân phối: Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động bằng
phƣơng pháp “trừ lùi”, thuế quỹ, chi phí sản xuất, các khoản điều hoà. Còn lại
chia theo ngày công theo chế dộ kinh tế hiện vật.
Sau NQ 16 TW đã xuất hiện một cao trào vận động nông dân vào HTX
nông nghiệp bằng nhiều biện pháp, nhằm mục tiêu hoàn thànhnhiệm vụ hợp
tác hoá nông nghiệp vào năm 1960. Chỉ trong 1 năm từ mùa hè 1959 đến mùa
thu 1960 đã đƣa 2,4 triệu hộ vào HTX bằng 84,8% số hộ nông dân và 70%
diện tích ruộng đất vào làm ăn tập thể trong 41000 HTX nông nghiệp , ở miền
biển thu hút 75% thuyền lƣới vào HTX. Quy mô HTX lúc này khoảng 40-50
hộ xã viên trong đó có 10% HTX bậc cao.
Về lao động: Các HTX nông nghiệp đã thu hút đƣợc 4,93 triệu ngƣời
trong tổng số 5,75 triệu lao động hiện có ở nông thôn ( khoảng 85%).Đồng
thời với quá trình xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp trong nông thôn
cũng tiến hành xây dựng và phát triển các HTX tín dụng , đến năm 1956 đã
xây dựng đƣợc 5294 cơ sở với 2082000 xã viên tham gia chiếm 71% tổng số
hộ nông dân miền Bắc. Mỗi HTX tín dụng hoạt động trên quy mô một xã,
đóng vai trò cho kinh tế phụ gia đình vay vốn để mua lƣơng thực, thuốc men,
sửa chữa nhà cửa của xã viên HTX nông nghiệp.
3. Giai đoạn 1961-1980:
Giai đoạn củng cố hoàn thiện đƣa HTX nông nghiệp bậc thấp lên bậc
cao, mở rộng quy mô HTX theo mô hình tập thể hóa. Xây dựng các HTX cấp
huyện ở miền Bắc và thực hiện mô hình HTX tập thể hoá ở miền Nam sau
giải phóng với mong muốn thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo XHCN trên phạm
vi cả nƣớc thống nhất cùng đi lên CNXH.
Ơ giai đoạn đầu 1961-1975 phong trào hợp tác hoá bộc lộ nhiều nhƣợc
điểm biểu hiện là sự không phù hợp của mô hình HTX bậc cao. Quá trình
củng cố và mở rộng quy mô HTX luôn luôn trái ngƣợc với kết quả trong sản
xuất nông nghiệp. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, sản xuất
nông nghiệp ngày càng sa sút, kinh tế HTX ngày càng biểu hiện tiêu cực: mất
đân chủ, tham ô , lãng phí thu nhập của xã viên HTX đã thấp lại càng giảm.
Thời kỳ1966-1972, tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng năm là 13,6% thì tốc
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
độ tăng chi phí là 15,1%. Tƣơng tự thời kỳ 1973-1975 là 23,75% và 75%.
Năm 1972, giá trị tài sản cố định HTX thất thoát tới 35,4%, quỹ tích luỹ khấu
hao tính khống 40,7%. Mức lƣơng thực bình quân đầu ngƣời giảm từ
17kg/ngƣời/tháng 1965 xuống còn 10,4 kg năm 1980 Xã viên HTX chán nản,
ruộng đất bỏ hoang hoá, số lƣợng ngƣòi xin ra khỏi HTX ngày càng tăng, đời
sống nông dân gặp nhiều khó khăn, bao trùm đời sống ở nông thôn miền núi
là tinh thần đoàn kết đùm bọc, chia sẻ khó khăn, tất cả giành cho tiền tuyến.
Giai đọan này khối lƣợng lƣơng thực nhập khẩu tăng liên tục qua các năm(
Năm 1966 nhập khẩu 388,1 ngàn tấn, năm 1975: 1055 ngàn tấn).
Giai đoạn 1976-1980: ở miền Nam, số HTX tổ đổi công tăng lên nhanh
chóng, thậm chí dùng cả biện pháp hành chính đƣa nông dân vào HTX. Giai
đoạn này nền kinh tế đất nƣớc lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng,
trƣớc hết là tình trạng khủng hoảng kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên
phạm vi cả nƣớc.
4. Giai đoạn 1981-1988:
Giai đoạn thực hiện chỉ thị 100 về cải tiến công tác khoán, mở rộng
khoán sản phẩm đến nhóm và ngƣời lao động trong HTX nông nghiệp”.
Mục đích của chủ trƣơng mở rộng khgoán sản phẩm là đảm bảo phát
triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế củng cố và tăng cƣờng QHSX mới
ở nông thôn không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên , tăng
tích luỹ của HTX, làm tròn nghiã vụ và không ngừng tăng khối lƣợng nông
sản cung ứng cho Nhà nƣớc .
Cơ chế khoán với 3 khâu (gieo cấy, chăm
sóc, thu hoạch) đã phá vỡ một mảng trong mô hình HTX tập thể hoá, tạo điều
kiện gắn ngƣời lao động với kết quả cuối cùng của sản xuất. Nhờ đó cơ chế
khoán đã tạo động lực kích thích tính chủ động, hăng hái sản xuất trong nông
dân.
Chỉ thị 100 đã mang lại một sinh khí mới cho nông nghiệp giai đoạn
1981-1985,đƣợc coi là thời kỳ thành công của quá trình thực hiện chỉ thị 100.
Sau đó những hạn chế của khoán 100 bộc lộ rõ: hoạt động quản lý yếu kém,
phân phối bình quân bao cấp, chi phí bất hợp lý.. đã dẫn đến tình trạng vi
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
phạm lợi ích của ngƣời lao động, tỷ lệ vƣợt khoán ngày càng giảm, nông dân
chán nản, trả ruộng khoán ngày càng nhiều.
5. HTX nông nghiệp giai đoạn 1986-1996.
Dƣới tác động của cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng tới ngƣời lao động
theo chỉ thị 100, cơ chế quản lý đã tháo gỡ đƣợc một bƣớc, tạo điều kiện cho
xã viên chủ động trong sản xuất sau khi nhận khoán với HTX do đó đã tạo ra
động lực và trong HTX nông nghiệp tình hình sản xuất nông nghiệp những
năm đầu thập kỷ 80 có sự khởi sắc sau thời sa sút vào cuối thập kỷ 70.
Tuy nhiên, cơ chế khoán theo chỉ thị 100 chủ yếu mới giải phóng lao
động và một phần quan hệ phân phôí, quan hệ sở hữ vẫn nhƣ tình trạng bao
cấp, phân phối theo công điểm, quản lý tập trung, mệnh lệnh, thu nhập từ kinh
tế tập thể thấp, mức khoán không ổn định, tình trạng tham ô, lãng phí trong
HTX vẫn tiếp diễn nông dân xã viên vẫn phải chịu nhiều khoản đóng góp,
điều bất hợp lý, làm cho mức thu nhập giảm dần, động lực tạo ra nhanh chóng
bị suy giảm, ngƣời sản xuất không yên tâm, tình trạng chán nản tăng lên, hộ
xã viên trả lại ruộng khoán ngày một tăng.
Năm 1993, Luật HTX đƣợc ban hành , hộ xã viên đƣợc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lâu dài và đƣợc hƣởng 5 quyền. HTX rút dần khỏi
các hoạt động trực tiếp tiến hành sản xuất để chuyển giao quyền tự chủ cho hộ
xã viên. Quan hệ HTX – hộ xã viên chuyển dần sang quan hệ hợp đồng kinh
tế giữa hai chủ thể bình đẳng theo các nguyên tắc thoả thuận, xoá bỏ chế độ
phân phối công điểm trong HTX . Bộ máy quản lý HTX giảm nhẹ, phổ biến
tới40-50%, các khoản chi phí bất hợp lý trong HTX cũng giảm, dần xoá bỏ tệ
rong công, phóng điểm và tham ô công quỹ.
Trƣớc sự thay đổi của cơ chế mới, các HTX nông nghiệp kiểu cũ gặp
nhiều khó khăn, lúng túng, lâm vào tình trạng trì trệ, suy giảm tác dụng đối
với hộ xã viên tự chủ, thậm chí một bộ phận HTX , đặc biệt các tập đoàn sản
xuất tan rã: Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp &PTNT từ 1988 đến 1995 giải
thẻ 2958 HTX và 33804 TĐsản xuất nông nghiệp , đồng thời số hộ xã viên
tham gia HTX và TĐsản xuất cũng giảm mạnh từ 86%xuống còn 10% ở các
tỉnh Nam bộ, mỉền núi phía Bắc giảm từ 91% xuống 45%.
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Số HTX còn lại buộc phải tiến hành đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ
chức và cơ chế quản lý nội bộ theo hƣớng tinh, gọn, hiệu quả, nhiều chức
danh đƣợc lồng ghép để giảm bớt chi phí quản lý. Nhiều HTX phải chia nhỏ
cho phù hợp với trình độ quản lý, đến năm 1995 cả nƣớc còn 16.243 HTX và
2548 TĐ sản xuất với 64% số hộ nông dân cả nƣớc. Các HTX đang tồn tại có
thể chia thành ba nhóm theo mức độ dịch vụ cho hộ xã viên và hiệu quả hoạt
động:
Loại hoạt động tốt: 2528 đơn vị chiếm 15,5% tổng số, là những HTX
còn vốn, có đội ngũ cán bộ giỏi, có hƣớng hoạt động tốt, làm tốt công tác dịch
vụ tƣới tiêu, BVTV, giống, kỹ thuật, vật tƣ, vốn cho xã viên, HTX có vốn và
tài sản. Bình quân tài sản cố định một HTX thuộc nhóm này khoảng 742 triệu
đồng.
Loại hoạt động cầm chừng ở một vài khâu công việc nhƣng kết quả
thấp 6562 đơn vị, chiếm 40,4% tổng số. HTX còn ít vốn, nợ đọng nhiều và
ban quản lý kém năng động hoặc trì trệ.
Loại không hoạt động, tồn tại hình thức:7152 đơn vị chiếm 43,3%. Đây
là những HTX đã hoàn toàn mất vai trò của KTHT, xã viên không an tâm và
tin tƣởng vào bộ máy quản lý cũng nhƣ bộ phận kinh tế tập thể của HTX .
6. Giai đoạn từ khi có Luật HTX ra đời và có hiệu lực (1/1/1997) đến nay.
6.1. Một số thành công bước đầu.
Thứ nhất: việc ban hành Luật HTX cùng một loạt các nghị định, thông
tƣ hƣớng dẫn thực hiện chỉ thị của Đảng và nghị định của Chính phủ về HTX
đã thể hiện rõ quyết tâm cao của Đảng và Nhà nƣớc trong việc tiếp tục đổi
mới và phát triển các HTX ở Việt Nam. Lần đầu tiên HTX có một khung
pháp lý tƣơng đối đầy đủ, bảo vệ và điều chỉnh các hoạt động, với tƣ cách là
một tổ chức kinh tế bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế
thị trƣờng đó là một thành tựu rất đáng kể trong đổi mới từ nhận thức tƣ duy
đến chỉ đạo hành động của Đảng ta.
Thứ hai: đổi mới HTX sau khi Luật HTX ra đời diễn ra toàn diện trên cơ
sở những quy định về tiêu chuẩn và nguyên tắc HTX mà pháp luật quy định.
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
HTX đƣợc thành lập trên cơ sở phải xác định rõ về: tƣ cách xã viên, vốn góp
tối thiểu, phƣơng án sản xuất kinh doanh, điều lệ HTX và hàng loạt các quy
định khác. Những điều kiện này trở thành tiêu chuẩn cụ thể mang tính định
lƣợng mà từ trƣớc đến nay chƣa từng đƣợc quy định. Với những quy định và
ràng buộc nhƣ vậy rõ ràng là việc chuyển đổi các HTX cũ cũng nhƣ việc
thành lập HTX mới theo Luật HTX đã thể hiện rõ tính chất tích cực và toàn
diện, đề cao chất lƣợng và các nguyên tắc hợp tác cũng nhƣ nhu cầu khách
quan là điều kiện tiên quyết.
Thứ ba: kết quả chuyển đổi các HTX cũ thu được một số kết quả như
sau: nhìn chung, mô hình HTX sau chuyển đổi thƣờng gồm hai loại, thứ nhất
HTX có đông xã viên, thứ hai HTX có ít xã viên. Số HTX sau chuyển đổi loại
có đông xã viên chiếm tỷ lệ cao hơn số HTX có ít xã viên. tuy nhiên hiệu quả
hoạt động thì loại HTX có ít xã viên hoạt động tốt hơn. (xem bảng 1.)
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Bảng 1: Quy mô HTX tính theo số liệu xã viên của HTX đã chuyển đổi.
Chỉ tiêu
Miền bắc
chung
Miền Trung, Miền Nam
Tây Nguyên
Tổng
%
số
Tổng
%
số
Số HTX có báo cáo 2127
10
Số HTX có từ 7-50 215
10,1 212
6,1
1795
Tổng
%
số
100
313
Tổng
%
số
100
19
100
11,8 1
0,3
2
10,5
6,8
0,3
8
42,1
99,3
9
47,3
xã viên
Số HTX có từ 51- 131
122
1
100 xã viên
Số HTX có trên 1781
83,7 1461
81,3 311
100 xã viên
Nguồn: số liệu điều tra xã hội học năm 1999.
Cụ thể các HTX sau chuyển đổi đạt đƣợc một số kết quả nhƣ sau:
Làm rõ tài chính của các HTX cũ và mới,tỷ lệ xã góp vốn của xã viên
bình quân tăng 2,5 lần so với trƣớc khi chuyển đổi, cổ phần của xã viên trong
HTX đƣợc xác định rõ hơn. Từ bảng 2 cho thấy các chỉ số về tổng số vốn
bình quân một HTX cũng nhƣ tài sản lƣu động so với tổng số vốn của HTX ở
các vùng rất khác nhau: ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, các số
liệu nói trên đều thấp hơn so với mức trung bình của các HTX ở miền Bắc. So
với các HTX ở miền Nam thì tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều.
Bảng 2: Tài sản, vốn của HTX nông nghiệp chuyển đổi
Tên địa
phƣơn
g
Số
Tổng số
HT Số lƣợng
Bình
X
(Triệu
quân/HT
theo
đồng)
X
báo
(Triệu
cáo
đồng)
Chung
cả
nƣớc
Miền
1948 1092.025 556
Trong đó
Tài sản cố định
Tài sản lƣu động
Số
Bình
Số
Bình
lƣợng
quân/HT
lƣợng
quân/HT
(Triệu
X
(Triệu
X
đồng)
(Triệu
đồng)
(Triệu
đồng)
đồng)
862.281 439
229.744 177
1954 722.160
595.771 373,7
453
12.869
79,3
20