Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Tài chính doanh nghiệp Một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện văn hóa doanh nghiệp tại acb...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện văn hóa doanh nghiệp tại acb

.PDF
81
320
109

Mô tả:

Một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện văn hóa doanh nghiệp tại acb
Mục lục Danh mục các từ viết tắt Lời nói đầu Chương 2: Giới thiệu về Ngân Hàng TMCP Á Châu..........................................................................18 Chương 3: Thực trạng về Văn hóa doanh nghiệp tại Ngân Hàng TMCP Á Châu..............................36 Chương 4: Một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện VHDN tại ACB....................................53 Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội Chương 1: Khái quát chung về Văn hóa doanh nghiệp 1.1 Một số khái niệm 1.1.1 Định nghĩa văn hóa Nghiên cứu về VHDN, chúng ta không thể nào bỏ qua phạm trù văn hóa, cái mà chúng ta đang nhắc đến hàng ngày, đã được các nhà nghiên cứu kiểm chứng. Mục đích của nghiên cứu về văn hóa là trên cơ sở đó chúng ta sẽ xây dựng được đầy đủ các thành tố, cũng như mối quan hệ giữa VH nói chung và VHDN nói riêng. Trong từ điển, từ VH được định nghĩa là “hành vi của những năng lực đạo đức và tư duy phát triển, đặc biệt thông qua giáo dục”. VH cũng có một số định nghĩa khác như “văn hóa là những nguyên tắc về đạo đức, xã hội và hành vi ứng xử của một tổ chức dựa trên những tín ngưỡng, tư tuởng và sự ưu tiên của những thành viên của tổ chức ấy”. VH được hiểu theo rất nhiều cách khác nhau. Ở mức chung nhất, có thể phân biệt hai cách hiểu: VH theo nghĩa hẹp và VH theo nghĩa rộng. Xét về phạm vi thì VH theo nghĩa hẹp thường được đồng nhất với VH tinh hoa. VH tinh hoa là một kiểu VH chứa những giá trị đáp ứng các nhu cầu bậc cao của con người. Theo nghĩa này, VH thường được đồng nhất với các loại hình nghệ thuật, văn chương. Xét về hoạt động thì VH theo nghĩa hẹp thường được đồng nhất với VH ứng xử. Theo hướng này, VH thường được hiểu là cách sống, cách nghĩ và cách đối xử với người xung quanh. Trong khoa học nghiên cứu về VH, VH được hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa này, định nghĩa VH cũng có rất nhiều. Chẳng hạn, định nghĩa đầu tiên của E.B.Tylor năm 1871 xem VH là “một phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được”. TS. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, thì xem “văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động.”. UNESCO lại có một định Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 1 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội nghĩa khác về VH: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”. Như vậy có thể định nghĩa VH là một hệ thống của các giá trị do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội. Là một hệ thống ý nghĩa, VH bao gồm những biểu tượng, những niềm tin và những giá trị nền tảng để dựa theo đó, các thành viên trong cộng đồng, về phương diện nhận thức, có thể diễn tả và đánh giá các hoạt động và các sự kiện khác nhau, có thể phân biệt được cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái đạo đức và cái vô luân, cái có thể và cái không thể chấp nhận được; về phương diện thẩm mỹ, phân biệt cái đẹp và cái xấu, cái hay và cái dở, cái đáng yêu và cái đáng ghét... Hệ thống ý nghĩa ấy đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành cộng đồng, ở đó, mọi thành viên có thể truyền thông với nhau và cảm thấy có sợi dây liên kết với nhau. Ðiều này làm cho tính tập thể trở thành một trong những đặc điểm nổi bật nhất của VH: VH là những gì người ta có thể nhận được bằng giáo dục và có thể lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. 1.1.2 Định nghĩa văn hóa thương trường VH thương trường là VH thể hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế, các chính sách chế độ, trong mọi hình thức hoạt động liên quan quá trình sản xuất kinh doanh, gồm cả sự cạnh tranh, mối quan hệ với bên ngoài v.v… tất cả nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi tốt đẹp. Một DNđược nhắc đến như một sự ca tụng chỉ khi để lại trong lòng mọi người một hình ảnh tốt đẹp, nó có thể là chữ “tín” trong kinh doanh, cách thức đưa dịch vụ, sản phẩm đến với mọi người cũng như các hoạt động mang đến cho cộng đồng. DNnào cũng cần có môi trường để nó hoạt động và thương trường là môi trường cần thiết , bắt buộc để DNthể hiện các triết lý kinh doanh, các sứ mạng mà họ đặt ra Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 2 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội 1.1.3 Định nghĩa văn hóa nghề nghiệp Ngày nay, việc đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đã không chỉ dừng lại ở các thông số về kỹ năng, trình độ tay nghề đơn thuần mà còn ở một trình độ VH nghề nghiệp, tức là ở nhận thức về nghề, ở những chuẩn mực, giá trị của người lao động, lòng yêu nghề và khả năng sáng tạo tích cực, góp phần tạo ra những nhân tố mới đem lại hiệu suất lao động cao. Trong xã hội hiện đại, người lao động cần phải thực thi nghề nghiệp trong một môi trường nghề nghiệp rộng lớn. Do vậy, mỗi người lao động sẽ khó có được nhận thức và hành vi nghề nghiệp có VH nếu bầu không khí xung quanh họ không có VH. Chính vì vậy, vấn đề VH nghề không phải chỉ tồn tại ở phạm vi các cá nhân riêng rẽ mà ở cả một thiết chế lao động, một phạm vi rộng lớn mà các nhà xã hội học gọi là “không gian văn hóa nghề”. Như vậy, không phải chỉ có những người lao động nghề nghiệp mà cả những nhà đầu tư, những nhà quản lý, những nhà giáo dục, đào tạo nghề, cũng như tất cả chúng ta đều sống trong một “không gian văn hóa nghề” nhất định và đều phải biết cư xử với nó một cách có VH. Chẳng hạn, nhà đầu tư có nhận thức về VH nghề thì không thể chỉ toan tính tới lợi nhuận kinh tế mà còn phải biết đầu tư, lựa chọn những lĩnh vực đầu tư nào phát triển bền vững, không hủy hoại môi trường, không xâm hại tới con người. Nhà quản lý lao động tốt thì phải biết chăm lo tới đời sống của những người lao động, chú ý tới những mặt phúc lợi xã hội, tới những vấn đề bảo hiểm lao động, an toàn lao động..., mặc dù điều này trong nhiều trường hợp có thể làm hạn chế doanh thu của họ. Họ cũng không thể vì lợi nhuận mà sử dụng lao động trẻ em, hoặc trốn thuế... Người đào tạo nghề không thể chỉ dựa vào nguồn thu học phí hoặc ý muốn chủ quan mà phải căn cứ vào nhu cầu đào tạo trong thực tiễn và định hướng nghề nghiệp của người học. Như vậy xây dựng không gian VH nghề tiến bộ là trách nhiệm của toàn xã hội. VH nghề bao gồm: Thứ nhất, VH nghề nghiệp là giá trị đạo đức trung thực, tình yêu nghề và thái độ tôn vinh nghề nghiệp, quý trọng tư liệu sản xuất và trân trọng sản phẩm do nghề làm ra. Thứ hai, VH nghề nghiệp là sự nâng cao kiến thức khoa học, trình độ công nghệ, cải tiến kỹ thuật nhằm tạo ra năng suất lao động cao hơn, tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 3 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội trị cao hơn. Thứ ba, VH nghề nghiệp là nâng cao kỹ năng nghề nghiệp thể hiện ở tính chuyên nghiệp, sự tinh thông nghề nghiệp, tác phong nghề nghiệp và sự sáng tạo trong nghề nghiệp. Như vậy, VH nghề nghiệp là sự kết hợp kiến thức nghề, trình độ tay nghề, đạo đức nghề, thái độ hành nghề, sự nhận biết, khả năng xây dựng và thích nghi môi trường. 1.1.4 Định nghĩa văn hóa tổ chức Văn hóa tổ chức là tập hợp các giá trị và qui tắc được các cá nhân và các nhóm trong một tổ chức chia xẻ với nhau. Các giá trị và qui tắc này qui định cách thức ứng xử của mọi người với nhau và giữa những người trong tổ chức với các bên có liên quan nằm ngoài tổ chức. VH tổ chức là nói đến hình thức tín ngưỡng, giá trị và thói quen được phát triển trong suốt quá trình lịch sử của tổ chức. Những điều này được thể hiện trong cách điều hành và hành vi ứng xử cửa các thành viên. Văn hóa tổ chức bao gồm các thành phần sau đây:  Các thái độ của một tổ chức  Các kinh nghiệm của một tổ chức  Niềm tin của một tổ chức  Các giá trị mà tổ chức theo đuổi Văn hóa tổ chức bao gồm những niềm tin và quan niệm về mục đích của tổ chức mà các thành viên nên theo đuổi và quan niệm về những chuẩn mực về hành vi phù hợp mà các thành viên nên sử dụng để đạt đến những mục đích đó. Đầu tiên là tổ chức theo đuổi những giá trị của tổ chức. Những giá trị này phát triển thành các qui tắc của tổ chức, các nguyên tắc chỉ đạo, các mong đợi. Những thứ này bắt các thành viên phải có những hành vi phù hợp trong những tình huống cụ thể và kiểm soát hành vi của các thành viên đối với những thành viên khác. 1.1.5 Định nghĩa văn hóa doanh nghiệp Mọi tổ chức đều có VH và những giá trị độc đáo riêng của nó. Hầu hết các tổ chức đều không tự ý thức là phải cố gắng để tạo ra một nền VH nhất định của mình. VH của một Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 4 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội tổ chức thường được tạo ra một cách vô thức, dựa trên những tiêu chuẩn của những người điều hành đứng đầu hay những người sáng lập ra tổ chức đó. E.Heriôt từng nói: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn hoá". Ðiều đó khẳng định rằng, VHDN là một giá trị tinh thần và hơn thế nữa, là một tài sản vô hình của DN. Nó là toàn bộ các giá trị VH được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một DN (hay một tổ chức), trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, thể hiện trong các hoạt động của DN ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi ứng xử của mọi thành viên của DN. VHDN chính là chuẩn mực mà ở đó người ta sẽ quay quanh cái chuẩn mực đó để có hành vi ứng xử. Mỗi nhân viên vào hoạt động trong hệ thống của chúng tôi đều được nghe ít nhất hai tiếng đồng hồ về VHDN. Có thể thấy rõ: VHDN bao gồm các yếu tố pháp luật và đạo đức. VH doanh nghiệp không thể hình thành một cách tự phát mà phải được hình thành thông qua nhiều hoạt động của bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nhân, của Nh à nước và các tổ chức xã hội. Trước hết, cần phải thống nhất nột khái niệm chung về VHDN. VHDN được hiểu là toàn bộ các quy tắc ứng xử, cách nghĩ, chuẩn mực, đường lối kinh doanh... có tác dụng đặt dấu ấn tới hành vi, thái độ, niếm tin và quan hệ của các thành viên, cao hơn nữa là hình ảnh của một DN trên thương trường. VHDN không chỉ giới hạn đơn thuần trong phạm trù VH tổ chức, hay trong cặp quan hệ “văn hoá trong kinh doanh” và “kinh doanh có văn hoá”. VHDN là một tiểu VH. • VHDN là một hệ thống của các giá trị do DNsáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động kinh doanh, trong mối quan hệ với môi trường xã hội và tự nhiên của mình. • VHDN là tổng thể các truyền thống, các cấu trúc và bí quyết kinh doanh xác lập qui tắc ứng xử của một doanh nghiệp. • VHDN là toàn bộ phương thức kinh doanh, quản lý điều hành kinh doanh, phong cáchứng xử trong quan hệ với đối tác và trong nội bộ doanh nghiệp. • VHDN là những qui tắc ứng xử bất thành văn, là lực lượng vô hình trở thành quy định của pháp luật, nhưng được các chủ thể tham gia thị trường hiểu và chấp nhận. Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 5 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội 1.2 Đặc điểm của Văn hóa doanh nghiệp 1.2.1 Văn hoá doanh nghiệp tồn tại khách quan VH tồn tại ngoài sự nhận biết của chúng ta. Có con người, có gia đình, có xã hội là có VH. VH rất quan trọng, nó tồn tại độc lập với chúng ta. VH không có nghĩa là cái đẹp. Dù ta có nhận thức hay không nhận thức thì nó vẫn trường tồn. Nếu ta biết nhận thức nó, xây dựng nó thì nó lành mạnh, phát triển. Có thể có VH đồi trụy đi xuống, VH phát triển đi lên, VH mạnh hay VH yếu, chứ không thể không có VH. Người ta đồng nghĩa giữa VH doanh nhân, VH kinh doanh và nhiều người nghĩ VH giao tiếp là VHDN. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Đây là đặc điểm chung của VHDN cũng như bất kỳ loại hình VH nào khác. VH tồn tại khi có một nhóm người cùng sống và làm việc với nhau, nhận định này đã được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh mà tôi không tiện ghi trong cuốn sách này. Vậy với tư cách là chủ DN hay nhà quản lý, bản thân chúng ta cần nhận thức: VHDN vẫn tồn tại và phát triển dù ta không tác động vào chúng. 1.2.2 Văn hoá doanh nghiệp mang tính bền vững. Tính giá trị: là sự khác biệt của một DN có VH với một DN phi VH. Giá trị VH của DN có giá trị nội bộ; giá trị vùng; giá trị quốc gia; giá trị quốc tế. DN càng tôn trọng và theo đuổi những giá trị chung cho những cộng đồng càng rộng lớn bao nhiêu thì vai trò của nó càng lớn bấy nhiêu. Văn hóa doanh nghiệp có cấu trúc mạnh mẽ: Nếu coi VH như là một tòa nhà (của doanh nghiệp), khi thiết kế một tòa nhà cần phải tuân thủ 3 vấn đề sau:  Kết cấu vững chắc;  Tiện lợi khi sử dụng;  Phù hợp thẩm mỹ. Như vậy, một DN xuất sắc phải xây dựng VHDN cũng dựa trên 3 nền tảng cơ bản. Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 6 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội Một DN xuất sắc bền vững lâu dài không phải vì có những ý tưởng kinh doanh vĩ đại hay những nhà lãnh đạo tài giỏi, biết mọi việc, mà là có một tổ chức thiết kế tốt, thích ứng với sự thay đổikhông phụ thuộc vào cá nhân lãnh đạo nào. Những người lãnh đạo trong tổ chức phải biết tập trung sức lực cho việc thiết kế tổ chức phù hợp, thích ứng. Đồng thời DN cũng phải hiểu rằng nếu chỉ xác định tầm nhìn, sứ mệnh, lựa chọn mục tiêu, chiến lược,… thôi thì chưa đủ, DN cần phải mang tầm nhìn vào cuộc sống, chuyển biến những mong ước tốt đẹp thành hiện thực cụ thể, chỉnh tề cơ cấu - đội ngũ thẳng hàng hướng đích vào các mục tiêu chiến lược. VHDN đòi hỏi DN phải hài hòa trong tư duy, hành động nhất quán để tạo ra một tổ chức xuất sắc, bền vững. Sự hài hòa đó chính là tính thẩm mỹ cao nhất trong cấu trúc của tòa nhà VHDN. DN bảo thủ xung quanh tư tưởng cốt lõi, nhưng luôn thử nghiệm và dò tìm cơ hội, cải tiến liên tục tạo ra sự tiến bộ. Văn hóa doanh nghiệp tạo nên chuẩn mực hành động: Các hành động nào trong hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sức mạnh khác biệt của DN? Những hoạt động nổi trội, đặc thù nào cần có để duy trì tầm nhìn tham vọng, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng trong toàn tổ chức? Trong VHDN, việc thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi là một cơ chế mạnh để thúc đẩy sự tiến bộ. Các DN khi xây dựng VH phải luôn đặt ra cho mình những nhiệm vụ to lớn, quá sức mình, có vẻ như liều lĩnh, mạo hiểm, nhưng phải nhất quán với giá trị cốt lõi của DN. Từ mục tiêu bất khả thi của DN, các quản lý, lãnh đạo đơn vị thành viên xây dựng các mục tiêu bất khả thi cho đơn vị mình tạo một sự sống động thẳng hàng trên toàn tổ chức. Chính các nhiệm vụ bất khả thi đó được đặt ra nối tiếp, khi đạt được lại có một mục tiêu mới, nhiệm vụ mới sẽ tạo đà thúc đẩy sự tiến bộ mạnh mẽ và liên tục giúp một DN trở thành một DN lớn và xuất sắc trong tương lai. Để thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi, DN phải tìm kiếm, lựa chọn, đào tạo những con người thích hợp, nhất quán và chia sẻ các giá trị cốt lõi của DN. Những con người không thích hợp cần phải được loại ra khỏi DN. Bên cạnh đó, DN phải một mặt kiểm soát chặt chẽ tư tưởng nhân viên, mặt khác ủng hộ sự tự chủ cao nhất cho mỗi người, thúc đẩy Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 7 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội mọi người luôn hành động và thử nghiệm và làm mọi thứ có thể cho sự tiến bộ của DN. Trong các DN xuất sắc, nhiều hành động xuất sắc, tạo ra cú đẩy phát triển vượt bậc không phải từ những kế hoạch chiến lược định trước, mà từ các thử nghiệm ngẫu nhiên. Các DN xuất sắc tạo ra một VH mạnh với các nguyên tắc hành động thích hợp để đẩy mạnh quá trình tiến hóa: Cho phép thử nghiệm - và nhanh chóng tiến hành; Chấp nhận có thể sai lầm nhỏ, bỏ qua nếu không vi phạm đến tư tưởng cốt lõi. 1.2.3 Văn hoá doanh nghiệp mang tính hệ thống, thống nhất, tương tự như đặc tính của văn hóa nói chung. VHDN là một tổng thể thống nhất ở chỗ: VHDN trước hết phải là một tổng thể có kết cấu thống nhất và mạnh mẽ dựa trên các thành tố: Các mục tiêu, chiến lược, chiến thuật, chính sách; Các quá trình nội bộ/hoạt động kinh doanh hàng ngày, công tác quản lý; Các hệ thống lương, kế toán, thiết kế công việc, bố trí văn phòng; Các giá trị, con người, sinh hoạt, giao tiếp… Biểu hiện tổng quan VHDN là một khối thống nhất gồm 2 mối quan hệ bên trong và bên ngoài có tác động qua lại với nhau (biểu hiện như vòng tròn Âm Dương có mối quan hệ tác động lẫn nhau): - Trong cứng: là duy trì kỷ luật; thống nhất quan điểm/tư tưởng/hành động; chuẩn hóa mọi hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh,… từ đó xây dựng giáo lý của tổ chức và kiên trì thực hiện nhằm tiến tới một định hướng rõ ràng. - Ngoài mềm: là những mối quan hệ với khách hàng và đối tác; là hệ thống dịch vụ, chăm sóc khách hàng hoàn hảo, phải hết sức uyển chuyển linh hoạt trong ứng xử. 1.3 Cơ sở xây dựng Văn hóa doanh nghiệp VH chỉ có nền tảng chứ không có điểm mốc đầu cuối. Do vậy, xuất phát điểm của DN có thể sẽ là rất cao nếu như nó được xây dựng trên nền tảng VH. Các DN khi xây dựng đều phải có nhận thức và niềm tin triệt để, lúc đó VH sẽ xuất hiện. Mọi cải cách chỉ thực sự có tính thuyết phục khi nó tách ra khỏi lợi ích cá nhân, còn VHDN thì phải bảo vệ cho mọi quyền lợi và lợi ích của cá nhân. Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 8 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội Khi xây dựng VHDN cần phải có những biện pháp cụ thể. Biện pháp đầu tiên là phải xây dựng một hệ thống định chế của DN, bao gồm: Chính danh, tự kiểm soát, phân tích các công việc, các yêu cầu. Sau đó xây dựng các kênh thông tin; xây dựng các thể chế và thiết chế tập trung và dân chủ như: Đa dạng hoá các loại hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; tiêu chuẩn hoá các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; xây dựng cơ chế kết hợp hài hoà các lợi ích để DN trở thành ngôi nhà chung, là con thuyền vận mệnh của mọi người. 1.3.1 Các hạt nhân của Văn hóa doanh nghiệp Đây là cơ sở để hình thành VHDN. Các hạt nhân VH là kết quả của sự tác động qua lại giữa các thành viên trong DN với nhau. Khi DN bắt đầu hoạt động, nền VHDN xuất hiện, phát triển và tự bảo vệ. VHDN có tính đặc thù nên các hạt nhân VH được hình thành cũng có tính chất riêng biệt. VH của các tập đoàn đa quốc gia khác với VH của các DN liên doanh hoặc VH của DN gia đình. Hạt nhân VHDN bao gồm triết lý, niềm tin, các chuẩn mực làm việc và hệ giá trị. 1.3.2 Phát triển văn hóa giao lưu của các doanh nghiệp Các DN thường có xu hướng liên doanh, liên kết với nhau để tồn tại trong môi trường kinh doanh phức tạp, đa VH, các DN không thể duy trì VHDN mình giống như những lãnh địa đóng kín của mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về VH. Việc phát triển VH giao lưu sẽ tạo điều kiện cho các DN học tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về VH của các DN khác nhằm phát triển mạnh nền VH của DN mình và ngược lại. 1.3.3 Xây dựng các tiêu chuẩn về Văn hóa doanh nghiệp Để hình thành một nền VH mạnh và có bản sắc riêng, hầu hết các DN thường xây dựng cho mình những tiêu chuẩn về VH và buộc mọi người khi vào làm việc cho DN phải tuân theo. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn này có thể thay đổi khi không còn phù hợp hoặc hiệu quả thấp. Trong trường hợp như vậy, việc sáng tạo ra những tiêu chuẩn mới là cần thiết. Trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và quá trình cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt thì VHDN được chú trọng xây dựng và phát triển. Nó trở thành một loại tài sản vô hình đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong kho tài sản DN và là một trong những công cụ Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 9 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội cạnh tranh khá sắc bén. Những DN không có nền VH mạnh khó có thể cạnh tranh cao trên thị trường. Đồng thời, DN có thể tạo ra và tăng uy tín của mình trên thị trường thông qua việc xây dựng và phát triển một nền VHDN mạnh. 1.3.4 Văn hóa tập đoàn đa quốc gia Các tập đoàn đa quốc gia có nhiều chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế giới, thường phải đối mặt với môi trường kinh doanh đa sắc tộc, đa quốc tịch và đa VH. Để tăng cường sức mạnh và sự liên kết giữa các chi nhánh của các công ty đa quốc gia ở các nước khác nhau, các tập đoàn phải có một nền VH đủ mạnh. Hầu như tập đoàn đa quốc gia nào cũng có bản sắc VH riêng của mình và đây được coi là một trong những điều kiện sống còn, một loại vũ khí cạnh tranh lợi hại. Các công ty đa quốc gia có mục đích kinh doanh chiến lược, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng và danh tiếng cao về chất lượng sản phẩm và dịch vụ trên thị trường thế giới. Những kết quả này có thể coi là sản phẩm của quá trình vận động của VH tập đoàn. Tuy nhiên, để đạt được những đỉnh cao của sự thành công đó, các tập đoàn phải mất nhiều thời gian và tiền bạc. Chẳng hạn, để có nhãn hiệu Pepsi Cola nổi tiếng với màu xanh tươi trẻ, Tập đoàn Pepsi phải chọn cách tiếp cận VH phương Đông - sản xuất loại đồ uống mang nhãn hiệu Pepsi Cola với biểu tượng thiếu âm và thiếu dương (biểu tượng của những người theo Phật giáo) để đến với khách hàng là những tín đồ của Phật giáo. Để bảo hộ cho biểu tượng này, Tập đoàn phải chi tới 500 triệu USD và giá của nhãn hiệu Pepsi đã lên tới 55 tỷ USD. Đối thủ cạnh tranh của Pepsi Cola là Tập đoàn Coca Cola. Tập đoàn này có nền VH hùng mạnh và với những ưu thế về danh tiếng, uy tín cũng như nghệ thuật kinh doanh đã chiến thắng Pepsi Cola trên thương trường mặc dù đồ uống Coca Cola chỉ được xếp thứ 7 trong số 12 loại đồ uống hàng đầu của nước Mỹ về chất lượng và đồ uống này đã bị người tiêu dùng châu Âu tẩy chay vào năm 1999. 1.3.5 Văn hóa doanh nghiệp gia đình Các DN gia đình được xem là một loại định chế độc đáo trong đó một gia đình là hạt nhân của DN. VHDN gia đình chịu ảnh hưởng của truyền thống gia đình, sự kế tục giữa các thế hệ và lòng trung thành với những triết lý kinh doanh, kinh nghiệm, bí quyết được gia đình đúc rút được trong quá trình kinh doanh. Thông thường, trong gia đình, người chủ gia Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 10 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội đình thường nắm được bí quyết về một nghề nghiệp nào đó và dựa vào nghề nghiệp đó để thành lập DN gia đình. Vì thế, VHDN gia đình chịu ảnh hưởng rất lớn tác động của phong cách lãnh đạo của người chủ gia đình. Kỷ luật trong DN gia đình thường được đề cao vì họ vừa là người chủ sở hữu vừa là người sử dụng các tài sản của gia đình. Chẳng hạn, DN sản xuất giày dép Biti’s (Việt Nam) là một biến thể của DN gia đình. DN này có một nền VH mạnh và các thành viên của DN đều thấm nhuần được những giá trị và chuẩn mực của VHDN. DN này đang có triển vọng trở thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Có thể nói, VHDN là nhằm tạo ra quy tắc ứng xử cho DN mà không phải tạo ra tác dụng chỉ đạo. Cách làm này của các doanh nghiệp không chỉ có tác dụng thúc đẩy cho DN mình thực hiện được phương thức kinh doanh “lấy con người làm trung tâm”, mà còn làm cho năng lực phát triển sản phẩm và năng lực đoàn kết hiệp đồng tập thể của DN trở nên phồn vinh, tăng thêm sự gắn bó của nhân viên với DN, nâng cao hiệu quả kinh doanh. 1.4 Vai trò của Văn hóa doanh nghiệp 1.4.1 Văn hóa doanh nghiệp là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh của DN được xem xét trên các khía cạnh như: chất lượng sản phẩm, chi phí, sự linh hoạt (trước phản ứng của thị trường), thời gian giao hàng… Để có được những lợi thế này DN phải có những nguồn lực như nhân lực, tài chính, công nghệ, máy móc, nguyên vật liệu, phương pháp làm việc (phương pháp 5 M: man, money, material, machine, method). Nguồn lực tài chính, máy móc, nguyên vật liệu đóng vai trò lợi thế so sánh với đối thủ cạnh tranh trước khách hàng. Nguồn nhân lực đóng vai trò tham gia toàn bộ quá trình chuyển hoá các nguồn lực khác thành sản phẩm đầu ra, vì vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định tạo ra những lợi thế cạnh tranh như chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng… Tính hiệu quả của DN phụ thuộc rất lớn vào yếu tố VHDN. Nó ảnh hưởng trực tiếp to lớn đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và chính sách, nó tạo ra tính định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân DN, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho việc thực hiện thành công chiến lược đã lựa chọn của DN. Môi trường VH của DN còn có ý nghĩa tác động quyết định Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 11 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội đến tinh thần, thái độ, động cơ lao động của các thành viên và việc sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác. Môi trường VH càng trở nên quan trọng hơn trong các DN liên doanh, bởi vì ở đó có sự kết hợp giữa VH của các dân tộc, các nước khác nhau. Người ta nói rằng, một tổ chức với bản sắc mạnh cũng có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối thủ. Một tổ chức nếu xây dựng được một cơ cấu thống nhất, có cơ chế phối hợp và kiểm soát hiệu quả cũng như tạo được động lực làm việc cho các thành viên thì chắc chắn cơ hội thành công sẽ rất lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là một mảng của bức tranh tổng thể. Vấn đề là mối liên quan giữa VH tổ chức và khả năng hoạt động không hẳn lúc nào cũng xuôi chiều. Nói cách khác, đôi khi các tổ chức hoạt động hiệu quả lại chẳng có một thứ VH đặc trưng nào trong khi ở một tổ chức tầm tầm lại duy trì được một thức VH riêng biệt. Dĩ nhiên, không nhất thiết VH trong một tổ chức phải mang những chức năng nhất định. Có những tổ chức chỉ đơn thuần thực hoạt động đúng với mục tiêu của nó mà không xây dựng VH cho riêng mình. Tóm lại, bản sắc VH đã tạo ra nhiều giá trị cho một tổ chức. Tuy nhiên, thứ VH ấy cũng có thể trở thành nguyên nhân của bất ổn, xung đột và có khả năng làm sụp đổ tổ chức nếu như các nhà quản trị không xây dựng được một thứ VH công ty phù hợp với đại đa số nhân viên. 1.4.2 Văn hoá doanh nghiệp là một nguồn lực của doanh nghiệp Mục tiêu của VHDN là nhằm xây dựng một phong cách quản trị hiệu quả đưa hoạt động của DN vào nề nếp và xây dựng mối quan hệ hợp tác thân thiện giữa các thành viên của DN , làm cho DN trở thành một cộng đồng làm việc trên tinh thần hợp tác, tin cậy, gắn bó, thân thiện và tiến thủ. Trên cơ sở đó hình thành tâm lý chung và lòng tin vào sự thành công của DN. Do đó nó xây dựng một nề nếp VH lành mạnh tiến bộ trong tổ chức, đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân trong DN. VH càng mạnh bao nhiêu, nó càng định hướng tới thị trường, VH và sự định hướng tới thị trường càng mạnh bao nhiêu thì công ty càng cần ít chỉ thị, mệnh lệnh, sơ đồ tổ chức, chỉ dẫn cụ thể hay điều lệ bấy nhiêu. Các công ty xuất sắc đều có một hệ thống giá trị, một bản sắc riêng không ai bắt chước được. Đó là “Cố gắng cung cấp cơ hội cho một sự phát triển nhanh chóng” của hãng Intel; “Quản lý theo tinh thần Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 12 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội chữ ái” của công ty Trung Cương; “Phục vụ Tổ quốc thông qua buôn bán” của hãng Samsung. 1.4.3 Văn hoá doanh nghiệp tạo nên bản sắc của doanh nghiệp. VHDN là tài sản tinh thần của DN và phân biệt DN với các DN khác tạo nên bản sắc (phong thái, sắc thái, nền nếp, tập tục) của DN. VHDN di truyền, bảo tồn cái bản sắc của DN qua nhiều thế hệ thành viên, tạo ra khả năng phát triển bền vững của DN. VHDN như là “bộ gen” của DN. Những DN thành công thường là những DN chú trọng xây dựng, tạo ra môi trường VH riêng biệt khác với các DN khác.. Bản sắc VH không chỉ là tấm căn cước để nhận diện DN mà còn là phương thức sinh hoạt và hoạt động chung của DN. Nó tạo ra lối hoạt động, kinh doanh của DN. Đó là bầu không khí, là tình cảm, sự giao lưu, mối quan hệ và ý thức trách nhiệm, tinh thần hiệp tác phối hợp trong thực hiện công việc. Ví dụ như trong ngành điện dân dụng, từ xưa người ta đã đặt tên cho từng xí nghiệp theo một phong cách riêng như : Hitachi: Võ sĩ hoang dã (Nobushi), Toshiba: Võ sĩ đạo (Samurai). 1.4.4 Văn hoá ảnh hướng tới hoạch định chiến lược VH tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạch định chiến lược phát triển của tổ chức thông qua việc chọn lọc thông tin thích hợp (áp dụng kinh nghiệm, mô h ình phù hợp), đặt ra những mức tiêu chuẩn theo giá trị của tổ chức, cung cấp những tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các hoạt động. Hoạch định chiến lược phát triển của tổ chức sẽ giúp cho các thành viên thấy hết vai trò của họ trong tổ chức, cung cấp những cơ sở quan trọng để các thành viên tổ chức hiểu được môi trường của họ và vị trí của DN trong môi trường đó. VH tổ chức cũng sẽ có ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện chiến lược của tổ chức. Bởi vì một VH mạnh, tức là tạo được một sự thống nhất và tuân thủ cao đối với giá trị, niềm tin của tổ chức sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện thành công chiến lược của tổ chức. VH tổ chức với chức năng tạo được cam kết cao của các thành viên trong tổ chức, yếu tố quyết định để nâng cao hiệu quả hoạt động, năng suất lao động của tổ chức. VH tổ chức, chính vì vậy sẽ góp phần quan trọng tạo nên một “công thức thành công” cho các DN trên con đường hội Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 13 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội nhập. 1.4.5. Văn hóa doanh nghiệp giúp giảm xung đột Các lý thuyết về quản lý hầu hết đều nhấn mạnh đến vai trò của VH tổ chức trong việc thúc đẩy sự gắn kết các mối quan hệ. Trong một tổ chức, VH chính là chất keo liên kết cá nhân với nhau. Khi chia sẻ chung những giá trị VH, người ta sẽ có khuynh hướng nhìn nhận, đánh giá và lựa chọn các giải pháp tương tự nhau. Khi ấy, những khác biệt, nếu có, sẽ được dung hòa nhanh chóng hơn. Có hai vấn đề mà bất cứ tổ chức nào cũng phải đối mặt. Thứ nhất là việc thích nghi và xử lý các vấn đề phát sinh từ bên ngoài. Thứ hai là khả năng kết dính và phối hợp các nhân tố bên trong nhằm tạo nên sức mạnh cho tổ chức. Để tồn tại và phát triển trước sức ép từ bên ngoài, tổ chức phải duy trì được sự thống nhất trong nhiệm vụ và chiến lược của mình. Phải xác định mục tiêu và những phương tiện để đạt được mục tiêu ấy. Ngoài ra, cần có phương pháp đánh giá mức độ hoàn thành cũng như tìm các giải pháp thay thế trong trường hợp chiến lược đặt ra không hiệu quả. Với các mối quan hệ bên trong, cần có sự nhất trí cao giữa các thành viên và có những quy định rõ ràng trong việc giải quyết các xung đột dựa trên tiêu chí VH của tổ chức. Cũng cần đặt ra những nguyên tắc chung khi động viên, khuyến khích và khen thưởng để duy trì sự rõ ràng, minh bạch trong xử lý các vấn đề liên quan. 1.4.6 Văn hóa doanh nghiệp tăng cường phối hợp và kiểm soát Văn hóa của một tổ chức tăng cường sự thống nhất nên cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình phối hợp và kiểm soát hoạt động. Nhờ có những giá trị, thông lệ và nguyên tắc ứng xử nhất định trong tổ chức, mỗi cá nhân sẽ dựa vào đó để đưa ra những quyết định phù hợp. Trường hợp có nhiều lựa chọn, người ta sẽ tính đến khía cạnh của VH để khoanh vùng các khả năng và giải quyết vấn đề theo hướng hợp lý. Ngoài chức năng phối hợp trong xử lý tình huống, VH còn là công cụ hiệu quả trong kiểm soát vấn đề. Tuy nhiên, cần thống nhất rằng, VH của một tổ chức chính là biên giới mà ở bên trong nó, các thành viên vẫn được tự do bộc lộ bản sắc cá nhân. Cho đến giờ, những nổ lực không dấu giếm của nhiều tổ chức trong việc thúc đẩy VH bên trong để tạo nên sức mạnh và lợi thế cạnh tranh là rất rõ ràng. VH tổ chức đã giúp thiết lập qui chuẩn, tăng cường kiểm soát và phối hợp hoạt động Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 14 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội được dễ dàng. 1.4.7 Văn hóa doanh nghiệp làm giảm bớt sự không chắc chắn Trong quá trình hoạt động, cá nhân và tổ chức luôn phải đối mặt với nhiều tình huống không mong đợi. Về mặt cá nhân, vấn đề là làm sao truyền đạt được những giá trị VH của tổ chức ấy cho những người mới gia nhập. Khi một thành viên mới xuất hiện, họ sẽ được làm quen và lĩnh hội các khía cạnh trong hình thái VH cơ bản của tổ chức. Dần dần, những gía trị đó được chấp nhận, được xử lý và được tuân theo. Cùng chung một kiểu VH nhất định sẽ giúp thành viên nhìn nhận vấn đề đơn giản hơn, lựa chọn và ra quyết định dễ dàng hơn. Người ta còn cho rằng chính VH đã biến tổ chức thành một thế giới riêng. Trong thế giới ấy, những vấn đề phức tạp sẽ được đơn giản hóa, bất ổn sẽ nhanh chóng được dung hòa để tổ chức có thể kiểm soát và hoạt động hiệu quả nhất. Tất nhiên, vẫn luôn có những rủi ro tiềm tàng nếu VH của một tổ chức đi sai đường. Tác hại có thể lâu dài và trở thành hệ thống, gây những hậu quả không mong đợi tới nhiều giá trị khác. 1.4.8 Văn hóa doanh nghiệp tạo động cơ Văn hóa tổ chức đóng vai trò quan trọng như một thứ động lực để khuyến khích. Hiện, nhiều tổ chức đang sử dụng công cụ chủ yếu là thưởng - phạt làm động cơ thúc đẩy thành viên của mình. Thưởng có thể là tăng chức, tăng lương và ngược lại, phạt đi kèm với giáng chức hoặc giảm lương. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có tác dụng với những người có động cơ từ yếu tố bên ngoài. Những người cần tới động cơ bên trong thì không đơn giản như vậy. Lý thuyết về động lực chỉ ra rằng, cá nhân cảm thấy được khích lệ và hăng hái hơn khi họ tìm thấy niềm vui và ý nghĩa trong công việc. Đó là khi họ thấy được đánh giá đúng và có một vị trí an toàn. Với trường hợp này, VH tổ chức hiển nhiên sẽ trở thành yếu tố quan trọng. Bản sắc VH riêng sẽ trở thành chất kết dính giữa thành viên và tổ chức, tạo niềm tin và tăng cường mức độ trung thành. Bởi vậy, tổ chức nên tạo mọi điều kiện để nhân viên có được càng nhiều mối liên quan với các hoạt động của mình càng tốt. 1.5 Các dạng văn hóa trong ngành Ngân hàng Bất kỳ một ngành nghề nào trong đời sống xã hội cũng liên quan đến VH, làm ra VH và bị VH tác động không ngừng. Ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật tác động Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 15 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội biện chứng đó. Với những đặc thù riêng của ngành ngân hàng là phải thường xuyên tiếp xúc với khách hàng trong khi bản thân khách hàng cũng rất đa dạng về chủ thể, về trình độ, lại khác nhau về quốc tịch, về giới tính, về lứa tuổi, về màu da sắc tộc, khác nhau về mục đích của những hợp đồng tín dụng bởi điểm giống nhau của con người là ở sự khác nhau... Do đó nhận thức về VH và ứng xử theo VH là một công việc đòi hỏi nhân viên ngân hàng phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện, vun đắp không ngừng.... Nói tóm lại, Ngành ngân hàng có các dạng VH sau: 1.5.1 Văn hóa vật chất Trong ngân hàng đòi hỏi phải có một hệ thống phòng ốc sang trọng, lịch sự và hiện đại thuận tiện cho việc giao tiếp với khách hàng, phải có một hệ thống công nghệ truyền thông, dịch vụ internet hoàn thiện đủ khả năng kết nối với các ngân hàng bạn và các đối tác kinh doanh cũng như khách hàng trong và ngoài nước. Trang phục công sở cũng là một yếu tố quan trọng trong VH vật chất của ngân hàng, giúp cho việc quản lý nội bộ được thuận lợi, tạo nên tác phong trang nghiêm và nâng cao ý thức trách nhiệm trong công việc của nhân viên ngân hàng. Qua đó khách hàng cảm thấy được tôn trọng và dễ nhận diện được nhân viên ngân hàng mà mình phải tiếp xúc, cho phép thể hiện được thái độ đúng mực với ưu khuyết điểm của nhân viên ngân hàng. 1.5.2 Văn hóa tinh thần Là tổng thể những giá trị phi vật chất, không xác định được bằng các đơn vị đo lường, không xê dịch được trong không gian và cũng không xác định được sao cho đủ số lượng, sao cho vừa chất lượng... Văn hóa tinh thần của ngân hàng trước tiên phải kể đến giá trị thương hiệu của bản thân đơn vị ngân hàng mà yếu tố quyết định thương hiệu lại là chất lượng dịch vụ, chất lượng phục vụ khách hàng, là năng suất hiệu quả trong kinh doanh, là sự đóng góp đối với nhà nước và xã hội. Yếu tố đầu tiên của thương hiệu là tên gọi và phải là cái tên gọi có hồn mà khi mọi người đọc lên đều phải để lại ấn tượng sâu sắc nơi người nghe, người đọc...Những tên gọi như ngân hàng Á Châu, ngân hàng Thương Tín, ngân hàng Phương Nam... là những tên gọi đầy ấn tượng. Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 16 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội Ngoài yếu tố logo mà bất kỳ DN hay ngân hàng nào cũng phải chú trọng thì còn phải kể đến yếu tố slogan, đó là khẩu hiệu hành động vừa gắn kết nội bộ đội ngũ nhân viên ngân hàng vừa có giá trị thông tin đối ngoại, truyền đạt cho khách hàng những giá trị cốt lõi, tinh túy của VHDN. Ngành ngân hàng nói chung vẫn chưa có những slogan tinh túy và đậm đà như "nâng niu bàn chân Việt", "Luôn luôn lắng nghe- luôn luôn thấu hiểu...". 1.5.3 Văn hóa ứng xử Là tổng hợp những yếu tố thái độ và hành vi của con người trong đời sống cộng đồng. Ứng xử có VH là kiềm chế được bản năng của con người làm cho ứng xử giữa con người với nhau hoàn toàn mang tính xã hội, văn minh và đạo lý. Như việc ăn uống chẳng hạn, đói mà ăn là lẽ tự nhiên, là VH nhưng đói mà không ăn lại càng VH, là siêu VH. Không đói mà ăn tức là no mà vẫn ăn là phi VH, là phản VH. Ngân hàng phải tiếp xúc hàng ngày hàng giờ với khách hàng, hơn ai hết nên đòi hỏi phải ứng xử sao cho thật văn minh như khẩu hiệu của ngành thương mại "Vui lòng khách đến, đẹp lòng khách đi"... Nhân viên ngân hàng trước tiên phải ứng xử với nhau sao cho thật VH, ứng xử với cấp trên và đồng nghiệp sao cho thật hài hòa, kính trên nhường dưới, kính già nhường trẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc và trong cuộc sống. Có như vậy mới ứng xử làm đẹp lòng khách hàng. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau... Nhân viên ngân hàng nói chung cần phải không ngừng trau dồi kiến thức VHDN để tạo được niềm tin cho lãnh đạo, tạo được uy tín nơi khách hàng, để trở thành những nhân viên tinh túy và sắc sảo, những con người giỏi giang và càng giỏi giang hơn trong kinh doanh tài chính ngân hàng. Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 17 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội Chương 2: Giới thiệu về Ngân Hàng TMCP Á Châu 2.1 Lịch sử hình thành Vào thời gian này của 17 năm trước, cùng một số doanh nhân của cả hai miền Nam, Bắc, một nhóm các nhà giáo đã quyết định rời bục giảng để bước vào thương trường với tham vọng biến kiến thức thành thực tiễn nhằm xây dựng một ngân hàng đáp ứng được nhu cầu dân sinh. Ngày 4/6/1993, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo quyết định số 0032/NH-GP ngày 24/4/1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quyết định số 533/QĐ-UB do Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13/5/1993. Trụ sở chính đặt tại số 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, Quận 3, TP.HCM. ACB ra đời với vốn điều lệ ban đầu vỏn vẹn 20 tỷ đồng của 34 cổ đông. Năm sau 1994, vốn điều lệ tăng lên 70 tỷ đồng. Năm 1998, số cổ đông tăng hơn 780 thành viên, việc tăng vốn điều lệ lên 341,428 tỷ đồng là quá trình đại chúng hoá ACB, và lần đầu tiên trong nước ACB được phép có cổ đông nước ngoài. Bấy giờ là Connaught Investor.Ltd (Jardine Matheson Group), Dragon Financial Holdings. Ltd, LG Investment & Securities Co., Ltd (LG Group), và Vietnam Fund, sở hữu 30% cổ phần. Hiện nay, ACB có sự tham gia của các cổ dông nước ngoài: Connaught Investors Ltd. (Jardine Matheson Group), Dragon Financial Holdings Ltd., Standard Chartered APR Ltd., Ngân hàng Standard Chartered Hồng Kông, Công ty tài chính Quốc tế (IFC) của Ngân hàng Thế Giới (World Bank) và J.P.Morgan Whitefriars Inc. Mười bảy năm qua là một chặng đường không dài, nhưng ACB đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Số lượng chi nhánh và phòng giao dịch, số nhân viên, số lượng thẻ tín dụng phát hành, số lượng đại lý chi trả kiều hối Western-Union mỗi năm đều tăng lên. Tính đến cuối năm 2009, tổng số nhân viên của ACB là gần 7.000 người. Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93%, thường xuyên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo riêng của ACB. Hai năm 1998-1999, ACB được Công ty Tài Chính Quốc tế (IFC) tài trợ một chương trình hỗ trợ kỹ thuật chuyên về đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên, do Ngân hàng Far East Ban và Trust Company (FEBTC) của Philippins thực hiện. Trong Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 18 GVHD: TS Nguyễn Thanh Hội năm 2002 và 2003, các cấp điều hành đã tham gia các khoá học về quản trị ngân hàng của Trung tâm Đào tạo Ngân hàng (Bank Training Center). Dịch vụ chuyển tiền nhanh Western-Union của ACB ở giai đoạn đầu gặp nhiều khó khăn. Mãi đến năm 2006, ACB-WU (ACB – Western Union) mới đạt 549 cuộc chuyển tiền với doanh số 452,764 USD. Đó là nhờ trong thời gian này, giới lãnh đạo ACB và những người điều hành WU phải tích cực mở rộng mạng lưới và quảng bá dịch vụ chuyển tiền nhanh WU trên thị trường Việt Nam vốn dĩ mới mẻ trong dịch vụ chuyển tiền, vừa bị vướng mắc với nhiều cơ chế trong nghiệp vụ Ngân hàng. Tính đến tháng 1 năm 1996, mạng lưới ACB – WU trên toàn quốc chỉ đạt 24 điểm chi trả, nhưng đây chính là nền tảng ban đầu của một mạng lưới toàn quốc sau này. Năm 1997, các nhân viên nghiệp vụ ACB – WU đầu tiên được cử đi học nước ngoài. Đây là bước đầu tư nhân lực khá mạnh dạn do chi phí đi học tập nước ngoài lúc bấy giờ là một chi phí không nhỏ. Đồng thời công tác Marketing được chọn làm trọng tâm để phát triển dịch vụ này, tạo tiền đề cho sự phát triển nhảy vọt của những năm sau. Tính đến nay, ACB đã có 812 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển tiền nhanh ACB – WU trên toàn quốc để đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng với tiêu chí: Nhanh chóng, đáng tin cậy, tiện lợi, dễ dàng. Trung tâm thẻ ACB được thành lập năm 1995 như một bộ phận chuyên doanh về thẻ Ngân hàng. Trung tâm thẻ là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ quốc tế MasterCard và Visa. Do vậy, sản phẩm của trung tâm thẻ bao gồm các loại thẻ quốc tế do các tổ chức này đứng ra bảo trợ phát hành và thanh toán như: thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ rút tiền mặt dưới các thương hiệu khác nhau: MasterCard, MasterCard Electronic, Cirrus, Mastro, Visa, Visa Electronic. Các sản phẩm này lần lượt được trung tâm thẻ cho ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng đa dạng các công cụ thanh toán hiện đại quốc tế của khách hàng Việt Nam. Trung tâm thẻ đã có sự phối hợp với các tổ chức kinh tế lớn như: Tổng công ty du lịch Sài Gòn, hệ thống siêu thị Co-op Mart, hệ thống siêu thị Maxi Mart, Citi Mart, Miền Đông, Công ty Mai Linh, phát hành các loại thẻ tín dụng chung thương hiệu cho khách hàng sử dụng trong nước. Siêu thị địa ốc được khai trương ngày 11 tháng 12 năm 2000. Hoạt động của siêu thị Xây dựng và hoàn thiện một số nét Văn hóa doanh nghiệp tại ACB Trang 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan