MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG TẬP
THỂ HỌC SINH VỮNG MẠNH
Công tác chủ nhiệm lớp là một vấn đề không mới nhưng
nó luôn được yêu cầu đổi mới cho phù hợp với sự phát
triển. Giáo viên chủ nhiệm có vai trò rất quan trọng đến
sự phát triển nhân cách học sinh và các phong trào hoạt
động của một tập thể lớp. Để có một tập thể vững mạnh,
điển hình tiên tiến là điều mong ước của nhiều thầy cô
giáo làm công tác chủ nhiệm. Nhưng điều này thật khó
khăn! Chúng ta ai cũng biết rằng mỗi tập thể học sinh là
mỗi mảnh ghép trong một bức tranh toàn cảnh của tập
thể lớn nhà trường. Mỗi tập thể lớp có một không gian,
một sắc màu riêng. Mỗi tập thể lớp có những thế mạnh,
có những điểm yếu khác nhau nhưng đều chịu tác động
bởi mục tiêu giáo dục chung của nhà trường. Tập thể học
sinh có vững mạnh hay không còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố nhưng yếu tố ảnh hưởng lớn nhất vẫn là vai trò của
giáo viên chủnhiệm
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG TẬP THỂ
HỌC SINH VỮNG MẠNH”
1. Xây dựng lớp học tự quản tốt.
2. Phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo
dục học sinh.
3. Sự phối hợp giữa công tác chủ nhiệm với Đoàn
trường.
4. Giáo dục học sinh cá biệt.
5. Công tác đánh giá học sinh.
6. Không ngừng nâng cao phẩm chất nghề nghiệp.
B. NỘI DUNG
I/ XÂY DỰNG LỚP HỌC TỰ QUẢN TỐT
Xây dựng lớp học tự quản là một hoạt động mà giáo viên
chủ nhiệm biến quá trình quản lí giáo dục của giáo viên
thành quá trình tự giáo dục, tự quản lí của học sinh.
Xây dựng lớp học tự quản nhằm:
- Phát huy ý thức tổ chức kỉ luật, ý thức tự giác, tính năng
động của mỗi cá nhân trong tập thể.
- Phát huy sức mạnh tập thể và sức mạnh cá nhân nhằm thực
hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đã đặt ra.
- Xây dựng và hình thành cho học sinh kỷ năng sống, kỉ
năng giao tiếp, ý thức làm chủ tập thể của học sinh. Đáp ứng
nhu cầu tâm sinh lý lứa tuổi và sở thích cá nhân.
- Tiết kiệm về mặt thời gian cho giáo viên nhưng vẫn thu
được hiệu quả giáo dục cao.
Muốn xây dựng lớp học tự quản tốt thì cần phải có
những biện pháp sau:
1. Xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp vững mạnh.
Biết phát hiện, bồi dưỡng những học sinh có năng lực
tốt để tuyển chọn làm lớp trưởng và ban cán sự lớp. Những
em được chọn làm lớp trưởng thục sự phải là những học sinh
học khá trở lên, có ý thức trách nhiệm cao, có năng lực tổ
chức và có khả năng vận động quần chúng. Lớp trưởng được
xem như con chim đầu đàn, tổ chức, động viên, lôi kéo các
thành viên khác trong lớp thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục
đặt ra.
Cần bồi dưỡng năng lực tự quản cho học sinh, phải có
sự hướng dẫn, giúp đở của GVCN để các em biết cách giải
quyết những công việc tự quản từ đơn giản đến phức tạp.
Không được khoán trắng toàn bộ công tác tự quản cho học
sinh.
Đề cao năng lực của lớp trưởng và ban cán sự lớp, tin
tưởng vào khả năng hoạt động của các em. Nếu không, sẽ
làm cho các em bị động, lúng túng trong công việc.
2. Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp
Để các em phát huy hết năng lực của mình trên từng
cương vị thì GVCN cần có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ
cho từng chức danh.
Nhiệm vụ của lớp trưởng (kiêm bí thư chi đoàn):
- Lớp trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các
hoạt động của lớp.
- Tổ chức lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập và rèn luyện.
- Theo dỏi đôn đốc các thành viên trong lớp chấp hành đầy
đủ và nghiêm túc quy chế, quy định của nhà trường, của
Đoàn thanh niên...
- Chủ trì các buổi sinh hoạt lớp, đánh giá và phổ biến các
hoạt động giáo dục.
Nhiệm vụ của lớp phó học tập:
- Phụ trách quản lý nhiệm vụ học tập của lớp.
- Theo dõi và chỉ đạo cán sự bộ môn hoạt động trong các
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ.
- Điểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, rõ ràng.
Nhiệm vụ của lớp phó lao động:
- Theo dõi, quản lý công việc lao động của lớp.
- Nhận nhiệm vụ, phổ biến kế hoạch lao động và phân công
lao động cho từng thành viên.
Nhiệm vụ của lớp phó văn thể mỹ:
- Phụ trách công tác văn nghệ, thể dục thể thao của lớp.
- Phụ trách thu chi quỹ lớp và các hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
Các tổ trưởng:
- Có trách nhiệm quản lý theo dõi các thành viên trong tổ
của mình.
- Phân công, theo dõi trực nhật của tổ.
Mỗi thành viên trong ban cán sự lớp đều phải có một cuốn
sổ ghi chép cẩn thận các hoạt động do mình phụ trách. Cuối
tuần GVCN có kiểm tra, theo dõi, đánh giá.
3. Công tác theo dõi, kiểm tra đánh giá
Vai trò của GVCN là người hướng dẫn chứ không làm
thay công việc tự quản của học sinh, phải thường xuyên theo
dõi, chỉ đạo, giám sát công tác tự quản.
Có rất nhiều cách theo dõi hoạt động tự quản của học
sinh. Đôi khi cần có sự kiểm tra trực tiếp các hoạt động trên
lớp nhưng đôi khi chỉ cần kiểm tra gián tiếp qua sổ ghi đầu
bài, sổ ghi chép của lớp trưởng, qua giáo viên bộ môn trực
tiếp giảng dạy....
Tổ chức tốt các giờ sinh hoạt lớp cuối tuần, qua đó thấy
được vai trò tự quản của ban cán sự lớp và không khí dân
chủ của các thành viên trong lớp.
II/ PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ GIA ĐÌNH
TRONG VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH
Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện, là nơi
thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp và có vai trò
định hướng, tạo ra sự thống nhất tác động đến học sinh. Nhà
trường, giáo viên, gia đình và các đoàn thể là những lực
lượng giáo dục thông qua đầu mối liên kết là GVCN.
GVCN là người đại diện cho các lực lượng giáo dục
trong nhà trường nên cần nắm được những chủ trương, kế
hoạch hoạt động và những thành tích đạt được của nhà
trường trong từng năm học, trong từng thời kì. Thông qua
các cuộc họp phụ huynh GVCN cần truyền đạt những vấn đề
này cho cha mẹ học sinh biết và GVCN kịp thời giải thích
những thắc mắc của phụ huynh.
GVCN thu nhận những ý kiến, tâm tư nguyện vọng của
phụ huynh rồi phản ánh lại cho nhà trường qua đó gắn kết
được trách nhiệm giữa nhà trường và gia đình trong việc
giáo dục học sinh.
GVCN cần có mối quan hệ gần gũi với phụ huynh học
sinh. Nắm rõ địa chỉ liên lạc với gia đình của từng học sinh
trong lớp. Khi cần thiết GVCN mạnh dạn trao đổi, thông báo
với phụ huynh những kết quả học tập và rèn luyện của học
sinh. Ngược lại phụ huynh cũng cần thông báo cho GVCN
biết được những sự việc bất thường xãy ra của học sinh như
ốm đau hay một lý do khác. Qua đó GVCN hiểu rõ được học
sinh và phụ huynh tin tưởng vào GVCN hơn trong việc giáo
dục con em mình.
GVCN thông qua cha mẹ học sinh để nắm được những
tâm tư nguyện vọng của học sinh. Có những vấn đề mà trên
lớp học sinh không dám nói với GVCN hoặc giáo viên bộ
môn nhưng các em có thể trao đổi trực tiếp với cha mẹ của
mình, qua đó GVCN tiếp thu có chọn lọc và chuyển tiếp
nguyện vọng của học sinh đến với giáo viên bộ môn, với nhà
trường nhằm có giải pháp hợp lý...Mặt khác GVCN của
thông qua giáo viên bộ môn để nắm được tình hình học sinh
lớp mình như thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, học lực
của từng học sinh...từ đó GVCN có sự nhìn nhận và đánh giá
khách quan về chất lượng giáo dục của từng học sinh và có
biện pháp giáo dục phù hợp.
GVCN cần phát huy vai trò của BCH hội phụ huynh của
lớp trong việc vận động, tạo ra sự đồng thuận cao với các kế
hoạch hoạt động của lớp và của nhà trường.
III/ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
VỚI ĐOÀN TRƯỜNG
Hoạt động Đoàn trong trường học không chỉ góp phần
nâng cao phẩm chất chính trị, lý tưởng sống cho tuổi trẻ mà
còn góp phần cùng nhà trường thục hiện tốt nhiệm vụ chính
trị của mình. Hoạt động Đoàn trong trường học là sân chơi
bổ ích cho tuổi trẻ, qua đó phát huy được tính năng động
sáng tạo của học sinh và giúp cho học sinh hình thành những
kỷ năng cần thiết. Không những thế, hoạt động Đoàn trong
trường học tạo nên môi trường thi đua lành mạnh giữa các
cá nhân và tập thể góp phần làm cho chất lượng giáo dục
ngày càng được nâng cao.
Để có sự phối hợp tốt với hoạt động của Đoàn trường
mang lại hiệu quả giáo dục cao cho lớp thì giáo viên chủ
nhiệm lớp cần phải:
1. Nắm được cách thức, nội dung, chương trình... hoạt động
của tổ chức Đoàn trong trường học.
2. Nắm được các quy định, cách thức đánh giá, biểu điểm thi
đua....để kịp thời phổ biến và tổ chức cho học sinh thực hiện.
3. GVCN cần trao đổi, góp ý cho Đoàn trường về những chủ
trương, việc làm chưa hợp lý mang lại sự đồng thuận cao
trong học sinh và giáo viên.
4. GVCN cần thông qua Đoàn trường để nắm học sinh và
phong trào thi đua của lớp mình. Có khi cần trao đổi trực
tiếp với Bí thư Đoàn về những trường hợp học sinh vi phạm
để có sự cộng tác, thống nhất trong cách giải quyết.
5. GVCN không vì thành tích thi đua mà bỏ qua hoặc bao
che cho những học sinh vi phạm nề nếp. Điều này càng làm
cho học sinh không có ý thức phấn đấu và hình thành nên
những hành vi xấu như gian dối, thiếu sự trung thực, ỷ
lại...Đó là những việc làm phản giáo dục.
6. GVCN thông qua Bí thư chi đoàn lớp mình để nắm được
các hoạt động của Đoàn trường và để nắm được kết quả thi
đua về nề nếp hằng ngày, từ đó có kế hoạch phù hợp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động tự quản của lớp.
7. GVCN tích cực tham gia các hội nghị do Đoàn trường tổ
chức, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động văn nghệ
thể thao, hoạt động tình nguyện....
IV/ GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
Có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về học sinh được
coi là cá biệt. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng học
sinh cá biệt là những học sinh có sự bất thường về đặc điểm
tính cách, thiếu động cơ học tập đúng đắn, thường hay vi
phạm nội quy một cách có tính hệ thống...
Thực tế ở tập thể nào cũng có học sinh cá biệt. Tuy số
học sinh này không nhiều nhưng đây là lực cản lớn nhất cho
phong trào thi đua của lớp và gây khó khăn cho công tác chủ
nhiệm.
Giáo dục một học sinh cá biệt trở thành một học sinh
ngoan, một học trò giỏi cần có sự tác động của nhiều phía
nhưng quan trọng nhất là sự tác động của giáo viên chủ
nhiệm.
1.GVCN cần tìm hiểu về học sinh cá biệt, như hoàn cảnh gia
đình, quan hệ bạn bè, sở thích cá nhân. Thậm chí GVCN
cũng cần tìm hiểu kỷ về quá khứ của học sinh đó, tìm hiểu
nguyên nhân làm cho học sinh đó trở thành cá biệt. Sự tìm
hiểu này có thể thông qua lý lịch học sinh, qua gia đình, bạn
bè trong lớp hoặc giáo viên chủ nhiệm cũ.
2. GVCN cần trao đổi riêng với học sinh cá biệt về những
khuyết điểm mà học sinh đã gây nên. Thông thường học
sinh cá biệt không nhận thức được về việc làm sai trái của
mình và hay đưa ra những lý lẽ để biện minh. GVCN phải
phân tích cho học sinh thấy được những điều sai trái đó một
cách khách quan chứ không được áp đặt hay đe dọa. Sự trao
đổi này diễn ra một cách dân chủ, trong bầu không khí nhẹ
nhàng, cởi mở.
3. GVCN biết cách cảm hóa học sinh cá biệt này trở thành
học sinh ngoan, học giỏi. Để làm được điều này GVCN
thường động viên, thuyết phục học sinh cá biệt từ bỏ những
thói hư, tật xấu trong học tập và rèn luyện. Giúp cho học
sinh xây dựng động cơ, mục tiêu phấn đấu của mình. Bằng
sự thân thiện, gần gũi, thái độ quan tâm của GVCN sẽ là
động lực lớn cho học sinh cá biệt lấy lại niềm tin.
4. GVCN vận động học sinh trong lớp giúp đỡ những học
sinh cá biệt về mọi mặt, như tạo sự bình đẳng không phân
biệt đối xử, tình tương thân tương ái trong cuộc sống, trao
đổi kiến thức trong học tập...Tạo dư luận tập thể tốt để cảm
hóa học sinh cá biệt trở thành thành viên tốt của lớp.
5. GVCN tạo điều kiện cho học sinh cá biệt tham gia vào
các hoạt động tập thể nhằm xóa đi những mặc cảm cá nhân
và giúp cho học sinh cá biệt thể hiện được những tài năng
của mình để càng làm tăng thêm niềm tin và uy tín trước tập
thể.
Cần nhận thức rõ việc giáo dục một học sinh cá biệt là cả
một quá trình chứ không phải ngày một, ngày hai mà được.
Vì vậy GVCN không được phép chủ quan, nóng vội.
V/ CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ HỌC SINH
Đánh giá học sinh là một khâu rất quan trọng trong quá
trình giáo dục, vì đó là kết quả của một quá trình phấn đấu
rèn luyện của học sinh. Nếu đánh giá kết quả rèn luyện của
học sinh chính xác, công bằng, khách quan thì có tác dụng
động viên sự phấn đấu vươn lên của các em và thúc đẩy
phong trào phát triển còn không thì nó sẽ làm cho học sinh
hoang mang, suy giảm động cơ phấn đấu và kìm hãm phong
trào thi đua.
Để đánh giá kết quả rèn luyện về mặt hạnh kiểm của học
sinh thì GVCN cần làm tốt các khâu:
1. Có sự theo dõi chặt chẻ về kết quả các mặt hoạt động của
học sinh. Sự theo dõi này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Kết
quả theo dõi phải được ghi chép cẩn thận trong sổ chủ nhiệm
để làm cơ sở đánh giá.
2. Đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh phải được thực
hiện thường xuyên trong một tuần, một tháng và trong một
học kỳ. Sự đánh giá phải thực sự công khai, dân chủ nhằm
tạo ra sự thi đua lành mạnh giữa các học sinh trong lớp.
GVCN cần có sự khen ngợi, biểu dương những học sinh có
thành tích tốt để kích thích sự hứng thú phấn đấu. Đối với
những học sinh bị khuyết điểm thì GVCN cần phải phê bình
đúng mức để cho học sinh nhận thấy khuyết điểm của mình
và tạo cơ hội cho các em sửa chữa khuyết điểm. Không để
cho học sinh bị khuyết điểm kéo dài.
3. Sự đánh giá phải được sự phối hợp tốt giữa GVCN với
các lực lượng giáo dục trong nhà trường như: BGH, Bí thư
Đoàn trường, giáo viên bộ môn.
4. Phải xây dựng một tiêu chí đánh giá hạnh kiểm của học
sinh một cách rõ ràng, cụ thể cho lớp mình phụ trách. Căn
cứ quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và THPT
(Quyết định số 40/2006/QĐ- BGD & ĐT), căn cứ vào điều
lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có
nhiều cấp học (Quyết định số 07/2007/QĐ-BGD & ĐT), căn
cứ vào nội quy của trường THPT thị xã Quảng Trị và dựa
vào vào thang điểm đánh giá thi đua của Đoàn trường THPT
thị xã Quảng Trị, tôi mạnh dạn xây dựng tiêu chí xếp loại
hạnh kiểm học sinh cho mình phụ trách như sau:
* Tiêu chí xếp loại hạnh kiểm học sinh trong một tháng.
Loại tốt:
- Học sinh có đóng góp công lao cho phong trào lớp.
- Tích cực tham gia phát biểu xây dựng bài.
- Không bị điểm yếu.
- Không vi phạm nội quy về nề nếp.
- Vắng học không quá 02 phép (kể cả vắng lao động).
- Tích cực tham gia các hoạt động tập thể.
Loại khá:
- Có tham gia phát biểu xây dựng bài nhưng không thường
xuyên.
- Bị điểm yếu không quá 02 lần.
- Vi phạm nề nếp không quá 01 lần.
- Vắng học không quá 04 phép (kể cả vắng lao động).
- Tham gia đầy đủ các hoạt động tập thể.
Loại trung bình:
- Ít tham gia phát biểu xây dựng bài.
- Bị điểm yếu và kém không quá 03 lần.
- Vi phạm nề nếp không quá 02 lần.
- Vắng học không quá 06 phép và không quá 01 không phép.
- Tham gia hoạt động tập thể thiếu tích cực.
Loại yếu:
- Học sinh vi phạm kỷ luật như: đánh nhau, vô lễ, nói tục, ăn
cắp, hút thuốc lá....
- Sử dụng điện thoại di động trong trường học.
- Phá hoại tài sản nhà trường.
- Vi phạm qui chế kiểm tra, thi cử (từ 15 phút trở lên).
- Vi phạm nề nếp và bị điểm yếu, kém có hệ thống.
*Xếp loại hạnh kiểm học sinh trong một học kỳ là tổng hợp
kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh trong các tháng của học
kỳ đó.
Việc đánh giá hạnh kiểm học sinh có khi GVCN cần phải
tùy theo tình hình thực tế mà vận dụng tiêu chí một cách linh
hoạt, không cứng nhắc tránh sự thiệt thòi cho học sinh.
VI/ KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO PHẨM CHẤT
NGHỀ NGHIỆP
Phẩm chất của người Thầy ảnh hưởng rất lớn đến sự hình
thành nhân cách của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo là một tấm
gương sáng cho học sinh noi theo. Như nhà giáo Usinxki đã
nói “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to
lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng
bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm
ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách
phạt nào khác”. Để trở thành một GVCN giỏi thì mỗi thầy
cô giáo phải có những yêu cầu về phẩm chất nghề nghiệp
sau:
1. Về năng lực sư phạm
- GVCN phải là người nắm vững tâm lý của học sinh.
- Có kỹ năng lập kế hoạch hoạt động giáo dục.
- Có năng lực tổ chức, quản lý các hoạt động giáo dục.
- Có sự hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực, có năng lực
giao tiếp và trình độ lý luận sư phạm tốt.
- Có năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của học
sinh.
2. Về phẩm chất đạo đức
- GVCN phải hết lòng thương yêu học sinh. Biết vui mừng,
hạnh phúc với những tiến bộ hay thành công trong học tập
của học sinh. Biết buồn lắng hay lo âu với những khuyết
điểm mà học sinh mắc phải. GVCN luôn có những tìm tòi,
sáng tạo mong muốn đem đến những gì tốt đẹp cho học sinh.
- GVCN phải có lòng yêu nghề, tận tâm với nghề và có tinh
thần trách nhiệm cao, có ý chí vượt qua khó khăn để hoàn
thành nhiệm vụ.
- Luôn khiêm tốn học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng
nghiệp và không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
- Có lối sống mẫu mực, gần gũi, thân thiện với học sinh và
đồng nghiệp. Lời nói phải đi đôi với việc làm. GVCN không
thể nói với học sinh những điều mà mình không thực sự suy
nghĩ và không thể yêu cầu học sinh làm những việc mà mình
không thể làm được.
C. KẾT LUẬN
Để xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh cần giải
quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái
chung và cái riêng. Một tập thể học sinh vững mạnh khi tập
thể đó không có cá nhân yếu. Tập thể học sinh vững mạnh là
tập thể có tinh thần đoàn kết tốt, có tổ chức và kỷ luật
nghiêm minh tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự điều chỉnh
thái độ hành vi của mình trên tinh thần “Mình vì mọi người
và mọi người vì mỗi người”. Do đó, mục đích xây dựng tập
thể học sinh vững mạnh là nhằm giáo dục mỗi học sinh
thành con ngoan, trò giỏi, trở thành những công dân có ích
cho đất nước.
- Xem thêm -