Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thực phẩm hà nội...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thực phẩm hà nội

.PDF
99
84
64

Mô tả:

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thực Phẩm Hà Nội LờI NóI ĐầU * Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài + Bất kỳ một doanh nghiệp nào từ khi mới thành lập đến khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải cần vốn. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, vốn là một trong những yếu tố hết sức quan trọng giúp cho doanh nghiệp hoạt động và phát triển một cách thường xuyên và liên tục. Chính vì vậy, việc sử dụng những đồng vốn mà mình bỏ ra phải cần tính toán đến hiệu quả sử dụng của nó. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, với sự cạnh tranh rất gay gắt và rất nhiều rủi ro của nền kinh tế thị trường thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là hết sức cần thiết. + Trong cơ chế hiện nay của nền kinh tế với sự giao phó cho các doanh nghiệp tự quản lý và quyết định việc kinh doanh của mình kể cả các doanh nghiệp nhà nước. Điều này nó đã kích thích cho các doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận cao và mục tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận mới phát huy một cách có hiệu quả. Muốn vậy, việc sử dụng đồng vốn vào sản xuất kinh doanh phải đạt hiệu quả và có mức sinh lời cao. + Xuất phát từ những vấn đề trên, thông qua quá trình thực tập của mình tại công ty Thực Phẩm Hà Nội, và đồng thời được sự giúp đỡ và khuyến khích của thầy giáo Phạm Văn Minh, em đã quyết định chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thực Phẩm Hà Nội “. *Mục đích nghiên cứu Thông qua thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty và vấn đề sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh ở công ty, từ đó xác định những điểm mạnh, điểm yếu, những hạn chế, tiêu cực trong việc sử dụng vốn tại công ty. Nhờ vào những đánh giá này để rút ra những bài học và đề ra những giải pháp khắc phục nhằm góp phần nâng cao hơn nữa việc sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh ở công ty này. * Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Trong bài viết này với đối tượng nghiên cứu là vốn và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Phạm vi nghiên cứu là tình hình sử dụng vốn tại công ty Thực Phẩm Hà Nội. * Phương pháp nghiên cứu Trong bài viết dưới đây với phương pháp nghiên cứu chủ yếu là so sánh, suy luận, phân tích thống kê... và các kiến thức quản trị kinh doanh tổng hợp đã được học tại nhà trường. * Dự kiến những kết quả sẽ đạt được trong chuyên đề Khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này thì kết quả dự kiến cần phải đạt đó là: Giúp cho tôi hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp, và đồng thời cũng có một số những giải pháp thiết thực nhằm giúp cho các công ty Thực Phẩm nói chung và công ty Thực Phẩm Hà Nội nói riêngtrong việc không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn mà mình bỏ vào sản xuất kinh doanh.  Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo thì chuyên đề này được kết cấu thành 3 chương: Chương1: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong giai đoạn hiện nay. Chương2: Phân tích thực trạng sử dụng vốn của công ty Thực Phẩm Hà Nội. Chương3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công tyThực Phẩm Hà Nội. Chương1: HIệU QUả Sử DụNG VốN CủA DOANH NGHIệP Và Sự CầN THIếT NÂNG CAO HIệU QUả Sử DụNG VốN TRONG DOANH NGHIệP HIệN NAY 1. Hiệu quả sử dụng vốn và vai trò của vốn trong sản xuất kinh doanh 1.1. Hiệu quả sử dụng vốn 1.1.1. Khái niệm về vốn và hiệu quả sử dụng vốn a. Khái niệm về vốn: Có rất nhiều quan niệm khác nhau về vốn: Theo các nhà kinh tế cổ điển, thì vốn là một trong các yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này thì vốn được xem xét dưới góc độ hiện vật là chủ yếu. Nó phù hợp với trình độ quản lý thời sơ khai. Theo quan điểm của một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của công ty. Quan điểm này đã cho rõ hơn về nguồn vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên quan điểm này hạn chế ở chỗ đó là không cho thấy rõ được nội dung và trạng thái của vốn cũng như quá trình sử dụng nó. Theo Dvid Begg, Stanlei Ficher, Rudiger Darnbusch trong “ kinh tế học “: Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất mà sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá dịch vụ khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính, đồng thời cũng phân biệt với vốn đất đai và lao động. Vốn tài chính là vốn bằng tiền, vốn thu được từ hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty, và một số nguồn vốn khác. Theo quan điểm này thì vốn được phân chia thành hai loại đó là vốn vật chất và vốn tài chính, theo đó cho thấy rõ được nguồn gốc hình thành của vốn và trạng thái biểu hiện của nó. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm này là chưa cho thấy rõ được mục đích sử dụng của vốn. Một số nhà kinh tế học lại cho rằng: Vốn có ý nghĩa à phần lượng sản phẩm tạm thời phải hy sinh tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh sản xuất tăng tiêu dùng trong tương lai. Quan điểm này phản ánh động cơ về đầu tư nhiều hơn là nguồn gốc và biểu hiện của vốn, do vậy quan điểm này cũng không đáp ứng được yêu cầu về quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng của vốn trong doanh nghiệp. Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng: Vốn là toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá dịch vụ như tài sản hữu hình, vô hình, các kiến thức về kinh tế, kĩ thuật... Theo quan điểm này nó đã tiếp cận được với thời điểm nền kinh tế hàng hoá đã và đang tồn tại ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên việc xác định vốn của doanh nghiệp theo quan điểm này là rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi trình độ quản lý cao và pháp luật hoàn chỉnh. Như vậy, khái niệm về vốn cần phải được giải quyết được bốn vấn đề cơ bản sau: + Nguồn gốc sâu sa của vốn là một bộ phận của thu nhập quốc dân được tái đầu tư, để phân biệt với nguồn vốn đất đai, vốn nhân lực. + Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất là tài sản vật chất và tài sản tài chính. + Vốn trong mối liên hệ với các nhân tố khác của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đòi hỏi nhà quản lý phải sử dụng nó làm sao có hiệu quả. + Phải thể hiện được mục đích của việc sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội mà vốn mang lại. Theo các quan điểm nhiện nay, vốn được hiểu là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình hoạt động kinh doanh trong các tổ chức, các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó các tổ chức, các doanh nghiệp này tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận cho mình và đồng thời góp một phần quan trọng vào thu nhập quốc dân. Đặc trưng của nguồn vốn bao gồm: Thể hiện bằng giá trị của tài sản, nói đến vốn là nói đến quá trình hoạt động và luân chuyển của nó, vốn là một lượng đại diện cho một giá trị nhất định để tạo ra một giá trị mới ( theo Mác: Vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư ), vốn là một hàng hoá đặc biệt nó được trao đổi trên thị trường tài chính trong đó có người bán kẻ mua như trong thị trường hàng hoá bình thường. b. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn: Hiệu quả sử dụng vốn là một trong những bộ phận cấu thành lên hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Nó tác động rất lớn dến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn là một chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tổng số vốn kinh doanh bình quân của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh nhất định. Kết quả thu được này được tạo ra trên cơ sở tổng số vốn bỏ ra trong thời kỳ kinh doanh đó mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Cụ thể mối quan hệ này nó được phản ánh bởi công thức sau: Kết quả thu được từ hoạt động SXKD Hiệu quả sử dụng vốn =  Vốn kinh doanh bình quân để tạo ra kết quả đó Trong đó: + Kết quả thu được từ hoạt động sản suất kinh doanh được biểu hiện ở nhiều chỉ tiêu khác nhau như doanh thu, lãi gộp, lợi nhuận, lợi nhuận trước thuế và sau thuế... Tuỳ theo mục đích và yêu cầu mà người ta sử dụng chỉ tiêu nào cho phù hợp. Như muốn xem tỷ suất doanh thu trên vốn bình quân thì người ta dựa vào doanh thu và vốn kinh doanh bình quân để tạo ra lượng doanh thu đó, muốn xem xét tỷ suất sinh lời của vốn thì người ta dựa vào ợi nhuận sau thuế và vốn kinh doanh bình quân cần phải sử dụng để tạo ra khối lượng lợi nhuận đó... + Vốn kinh doanh bình quân là toàn bộ số vốn bình quân mà doanh nghiệp bỏ ra trong một thời kỳ nhất định. Vốn kinh doanh bình quân được xác định chủ yếu theo công thức sau: Vđk/2 + vcq1 + vcq2 + vcq3 + vcq4/2 q =  4 Trong đó: q: Vốn kinh doanh bình quân một quý Vđk: Vốn kinh doanh đầu kỳ Vcq: Vốn kinh doanh cuối quý Nhờ vào việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cho phép các doanh nghiệp đưa ra được các giải pháp hữu hiệu nhằm quản lý tốt nguồn vốn mà mình bỏ ra, điều này đảm bảo cho doanh nghiệp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp mình để tạo ra nhiều lợi nhuận hơn nữa, và đồng thời giúp cho doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh, tạo vị thế và chỗ đứng trên thi trường, nhất là vào thời điểm sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường ngày nay. Mặt khác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn còn đảm bảo cho doanh nghiệp không ngừng nâng cao và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. 1.1.2. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Từ công thức xác định hiệu quả sử dụng vốn sẽ luôn xác lập được một dãy giá trị có thể của kết quả / vốn kinh doanh bình quân. Vấn đề cần đặt ra ở đây là mọi giá trị đó đều phản ánh có hiệu quả ở mức độ khác nhau hay trong dãy giá trị đó giá trị nào là có hiệu quả, giá trị nào là không có hiệu quả? Rõ ràng, trong dãy giá trị có thể của mỗi chỉ tiêu không phải giá trị nào cũng có hiệu quả. Trường hợp doanh nghiệp lỗ vốn, chỉ tiêu lợi nhuận / vốn kinh doanh âm thì rõ ràng doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Chính vì vậy, chúng ta phảI nghiên cứu đến tiêu chuẩn hiệu quả. Tiêu chuẩn hiệu quả nó là một phạm trù kinh tế, nó được hiểu là giới hạn, là “ mốc ” xác định danh giới có hay không có hiệu quả. Như thế, trước hết cần xác định tiêu chuẩn hiệu quả cho mỗi chỉ tiêu để phân biệt “ mức “ có hay không có hiệu quả. Sẽ không có tiêu chuẩn chung cho các công thức xác định khác nhau. Nếu theo phương pháp so sánh toàn nghành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của nghành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Điều này có nghĩa là doang nghiệp chỉ đạt được hiệu quả nếu giá trị đạt được ứng với một chỉ tiêu cụ thể xác định không thấp hơn giá trị bình quân của nghành. Như vậy, khi xem xét hiệu quả sử dụng vốn trong một doanh nghiệp cụ thể thì chúng ta cần phải dựa vào mức trung bình của nghành để đánh giá. Điều này nó chỉ ra được doanh nghiệp đang đứng ở vị trí nào so với các doanh nghiệp khác trong nghành. 1.2. Vốn một yếu tố quan trọng trong sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp Để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cần phải có ba yếu tố cơ bản là: Vốn, lao động và kỹ thuật công nghệ. Hiện nay ở nước ta đang có nguồn lao động dồi dào, việc thiếu lao động chỉ thiếu ở những nghành nghề đòi hỏi chuyên môn cao và kiến thức thực sự vững vàng. Những vấn đề này hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian ngắn nếu chúng ta có tiền để đaò tạo và đào tạo lại. Vấn đề về công nghệ, kĩ thuật cũng không khó khăn phức tạp vì chúng ta có thể nhập kĩ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới nếu chúng ta có khả năng về vốn, ngoại tệ hoặc có thể tạo ra vốn ngoại tệ. Như vậy, yếu tố cơ bản, quyết định hiện nay của các doanh nghiệp nước ta là vốn và quản lý có hiệu quả nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu về vốn xét trên góc độ mỗi doanh nghiệp là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động... Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được khái quát bằng sơ đồ sau: Sơ đồ1: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp Dùng cho đầu tư trung và Dùng cho các hoạt động và dài hạn khai thác Tiếp Sản Sản Bảo Trả tiền Tiền Đóng tục sản xuất xuất tốt đảm các cho lương góp xuất: nhiều hơn: nhiệm người nộp cho xã -Thay hơn: Các vụ hàng cung thuế hội máy cũ Các đầu tư ngày ứng - Máy đầu tư về hiệu của mới về năng suất doanh - giải lực sản quyết xuất nghiệp khủng hoảng Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vốn là điều kiện để nhà nước cơ cấu lại nghành sản xuất, nâng cấp và mở rộng cơ sở hạ tầng, mở rộng đầu tư, tăng phúc lợi xã hội, thực hiện phân công lại lao động xã hội, ổn định lại chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo ổn định chính trị và tăng cường kinh tế. Vai trò của vốn đã được Các Mác khẳng định: Tư bản đứng ở vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai. Đồng thời Các Mác còn nhấn mạnh thêm: Không một hệ thống nào có thể tồn tại nếu không vượt qua sự suy giảm về hiệu quả của tư bản. Từ trước đến nay, yếu tố vốn là rất quan trọng đối với mọi doanh nghiệp.Tuy nhiên việc sử dụng nó làm sao có hiệu quả lại là một vấn đề mà các chủ doanh nghiệp cần phải quan tâm xem xét một cách kỹ lưỡng và thiết thực. Muốn vậy, các chủ doanh nghiệp cần phải dựa vào một số tính chất, đặc điểm, cơ cấu và chu kỳ hoạt động của nó. 1.2.1. Chu kỳ của vốn kinh doanh Trước hết ta xem xét sơ đồ khái quát quá trình vận động của vốn: Tiền lương Tư liệu sản xuất T -- H ... Sản xuất kinh doanh... H’ – T’ Sức lao động Thuế TLSX .. SX.. Một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh thì trước hết phải có tiền, có vốn, sức lao động bỏ ra. Sau khi tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm và gửi đi tiêu thụ thì doanh nghiệp lại thu được một khoản tiền (vốn). Khoản tiền này chính là kết quả thu được từ quá trình sản xuất inh doanh, nó dùng để chi tiêu cho việc trả lương, nộp thuế và đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tạo thành một chu trình tuần hoàn hép kín và liên tục theo từng chu kỳ một. 1.2.2. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp Người ta có rất nhiều căn cứ khác nhau để xác định cơ cấu nguồn vốn trong doanh nghiệp. a. Căn cứ vào đặc tính hoàn vốn: Nếu căn cứ theo cách này thì người ta phân ra thành vốn cố định và vốn lưu động: Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng. Đặc điểm của vốn cố định bao gồm: + Nó tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Nó chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Căn cứ xác định TSCĐ: Một vật được coi là tài sản cố định ( vốn cố định ) khi nó thoả mãn hai điều kiện đó là có giá trị  5 triệu đồng và có thời hạn sử dụng  1 năm. Vốn cố định bao gồm các loại tà sản cố định và đầu tư dài hạn. Vốn lưu động: Vốn lưu động (VLĐ) của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho qúa trình tái sản xuất của doanh nghiêp thực hiện được thường xuyên liên tục. Đặc điểm của VLĐ bao gồm: + Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. + Vốn lưu động chỉ tham gia một lần vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, các khoản đầu tư ngắn hạn, và một số khoản tiền vay ngắn hạn khác. b. Căn cứ vào chức năng của vốn: Nếu căn cứ theo cách này thì vốn được chia thành hai loại đó là: Vốn phục vụ cho sản xuất và vốn phục vụ cho lưu thông. - Đối với vốn phục vụ cho sản xuất cũng bao gồm vốn cố địsản xuất và vốn lưu động dùng cho sản xuất. + Vốn cố định dùng cho sản xuất bao gồm các trang thiết bị máy móc, nhà xưởng... ứng với số tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra mua sắm. + Vốn lưu động dùng cho sản xuất bao gồm các chi phí cho việc mua nguyên, nhiên vật liệu, tiền lương công nhân viên, vốn bằng tiền... - Đối với phục vụ cho quá trình tiêu thụ. + Vốn cố định phục vụ cho quá trình tiêu thụ: Bao gồm vốn bỏ ra cho việc mua sắm, xây dựng các kho, các cửa hàng cửa hiệu, các trang thiết bị cần thiết... + Vốn lưu động phục vụ cho quá trình lưu thông bao gồm: Các thành phẩm, hàng hoá, vốn bằng tiền khác... Dựa vào cách phân loại này mà chúng ta biết được nhu cầu dùng vốn cho từng khâu, từng công đoạn trong chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó phân chia nguồn vốn cho phù hợp. 1.2.3. Bảo toàn và phát triển vốn - vấn đề quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường a. Những vấn đề chung về bảo toàn và phát triển vốn: Bảo toàn và phát triển nguồn vốn trong doanh nghiệp là điều kiện để tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Bảo toàn và phát triển vốn có nghĩa là đảm bảo giá trị của tiền vốn tại các thời điểm khác nhau. Đối với các DNNN, thì nguồn vốn chủ yếu là do nhà nước cấp. Chính vì vậy, việc bảo toàn vốn lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không những nó đảm bảo được giá trị của nguồn vốn cho doanh nghiệp mà nó còn đảm bảo cho việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn mà nhà nước cấp cho các doanh nghiệp. Bảo toàn vốn bao gồm bảo toàn các tài sản trong doanh nghiệp (tài sản cố định và tài sản lưu động). Cụ thể là tránh tình trạng hư hỏng, hết giá trị sử dụng trước thời hạn đối với các TSCĐ đồng thời tránh tình trạng mất mát nguồn vốn và hạn chế đến mức thất nhất những thiệt hại khi gặp rủi ro. Một trong những vấn đề quan trọng trọng trong việc bảo toàn nguồn vốn trong doanh nghiệp đó là cần phải có một kế hoạch cụ thể về việc huy động vả dụng vốn và đồng thời phảI đề ra các định mức thực hiện đối với tài sản lưu động, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp để tránh tình trạng rủi ro do sức ép từ các nhà đầu tư. Một vấn đề khác trong việc bảo toàn vốn thuộc về các cấp lãnh đạo trong cơ quan hành chính của nhà nước, nhất là cấp hoạch định chính sách. Các cơ quan này cần phải có chính sách phù hợp đối với việc điều chỉnh lãi suất, tránh tình trạng đồng tiền bị trượt giá quá mức gây ảnh hưởng sấu đến tình trạng nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng. Ngoài việc bảo toàn vốn thì doanh nghiệp cần phải có những kế hoạch nhằm phát triển nguồn vốn của mình, cụ thể là dùng nguồn vốn đầu tư vào việc mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào các lĩnh vực có tỷ suất sinh lời cao. Một trong những cách để phát triển nguồn vốn trong doanh nghiệp đó là thực hiện chế độ giao vốn, góp vốn, đấu thầu... Giao vốn, bảo toàn và phát triển vốn là một việc hết sức cần thiết. Trước hết xuất phát từ việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính đối với các DNNN. Chuyển sang cơ chế thị trường các DNNN hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, đòi hỏi bảo toàn số vốn được nhà nước cung cấp, số vốn tự bổ sung của doanh nghiệp và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn khác. Vấn đề quan trọng hơn nữa đó là chế độ bảo toàn và phát triển vốn phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn của cơ chế kinh tế thị trường đầy những rủi ro, lạm phát và giá cả thường xuyên biến động ở nước ta hiện nay. b. Bảo toàn và phát triển vốn cố định: Vốn cố định ( VCĐ) được bảo toàn, có nghĩa là trong quá trình vận động dù nó được biểu hiện dưới hình thái nào đi nữa, nhưng kết thúc một chu kỳ tuần hoàn thì vốn vẫn được tái lập, ít nhất cũng bằng quy mô cũ để trang bị lại tài sản bằng hoặc hơn cũ ở thời giá hiện tại. Khác với vốn lưu động khi tham gia vào quá trình sản xuất, VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần và phải sau nhiều chu kỳ sản xuất nó mới kết thúc một vòng tuần hoàn. Với đặc điểm vận động mang tính quy luật đó, sự bảo toàn VCĐ sẽ bị ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố tác động như chỉ số biến động, giá cả thị trường, tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị, sự đe doạ mất giá do hao mòn vô hình và những rủi ro không lường trước được trong sản xuất kinh doanh. Để bảo toàn được VCĐ, hạn chế sự mất mát, thất thoát vốn, cần phải có biện pháp hạn chế tình trạng “ăn” vào vốn như một số các DNNN hiện nay. Sau đây là một số biện pháp chủ yếu để bảo toàn VCĐ: + Đánh giá và đánh giá lại TSCĐ: Đánh giá TSCĐ là việc xác định giá trị của nó tại những thời điểm nhất định. Đánh giá chính xác giá trị của tài sản sẽ là căn cứ để tính khấu hao nhằm thu hồi vốn. Qua đánh giá và đánh giá lại TSCĐ còn giúp cho người quản lý nắm được tình hình biến động về vốn của đơn vị, để có những biện pháp điều chỉnh thích hợp như: Chọn hình thức khấu hao phù hợp, thanh lý nhượng bán tài sản để giải phóng nguồn vốn... + Lựa chọn phương pháp khấu hao và mức khấu hao thích hợp: Yêu cầu bảo toàn VCĐ trong sản xuất kinh doanh là lý do tồn tại các hình thức khấu hao. Lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp tuỳ thuộc vào từng loại hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từng thời điểm vận động của vốn và phản ánh đúng mức hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm. Thoát ly nguyên tắc này sẽ dẫn tới kết quả hoặc là tính mức khấu hao quá cao sẽ làm giá thành sản phẩm “đội giá” hoặc tính mức khấu hao quá thấp để “ăn vào vốn”. Ngoài trách nhiệm bảo toàn VCĐ, thì các doanh nghiệp cần phải phát triển VCĐ trên cơ sở quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp và nguồn vốn khấu hao xây dựng cơ bản, thực hiện tái sản xuất mở rộng đối với TSCĐ. c. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động (VLĐ): Quản lý và sử dụng VLĐ là khâu quan trọng trong công tác quản lý tài chính, trong đó việc bảo toàn VLĐ là vấn đề cực kỳ quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. VLĐ của doanh nghiệp được tồn tại dưới dạng vật tư hàng hoá và tiền tệ. Sự luân chuyển và chuyển hoá thường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động khách quan và chủ quan, trong đó có những yếu tố làm cho VLĐ của doanh nghiệp bị giảm xút. Vì vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động bảo toàn VLĐ, nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi, mà thực chất là đảm bảo cho vốn cuối kỳ mua đủ một lượng vật tư hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả tăng lên, tức là tái sản xuất giản đơn về VLĐ trong trường hợp quy mô sản xuất ổn định. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi doanh nghiệp mà có phương pháp bảo toàn VLĐ hợp lý. Các biện pháp đó là: + Định kỳ tiến hành kiểm kê, kiểm soát đánh giá lại toàn bộ vật tư hàng hoá, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, để xác định số VLĐ hiện có của mỗi doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại, trên cơ sở kiểm kê đánh giá vật tư hàng hoá mà đối chiếu với sổ sách kế toán để điều chỉnh cho hợp lý, dựa trên cơ sở hàng tồn trong kho, hàng đang đi đường, các sản phẩm dở dang của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định... + Những vật tư hàng hoá tồn đọng lâu ngày không thể sử dụng được do kém, mất phẩm chất hay không phù hợp với nhu cầu sản xuất phải chủ động giải quyết, phần chênh lệch thiếu phải sử lý, kịp thời bù đắp lại. + Đối với các doanh nghiệp bị lỗ kéo dài, cần tìm biện pháp để loại trừ lỗ trong kinh doanh. Một trong những biện pháp tốt đó là sử dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và cải tiến phương pháp công nghệ để hạ giá thành, tăng vòng quay của VLĐ. Để đảm bảo sử dụng VLĐ hợp lý, doanh nghiệp phải biết lựa chọn, cân nhắc để đầu tư vốn vào khâu nào và vào lúc nào là có lợi nhất, tiết kiệm nhất. + Để đảm bảo VLĐ trong điều kiện lạm phát, khi phân phối lợi nhuận cho mục đích tính quỹ và tiêu dùng, doanh nghiệp cần phải dành ra một phần lợi nhuận để bù đắp số hao hụt vốn vì lạm phát vá phải được ưu tiên hàng đầu. Ngoài vấn đề bảo toàn VLĐ thì doanh nghiệp cần phải phát triển VLĐ sao cho hợp lý, dựa trên cơ sở của quy mô sản xuất, lợi nhuận, tình hình làm ăn lỗ lãi của doanh nghiệp và đồng thời muốn phát triển VLĐ thì doanh nghiệp cần phải dựa vào các quỹ, lợi nhuận và thu hút đầu tư từ bên ngoài hoặc tổ chức vay lãi ngân hàng. 1.2.4. Các nguồn vốn của doanh nghiệp a. Nguồn tự có: Bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn tự bổ xung. Nguồn chủ sở hữu là nguồn vốn hiện có của chủ doanh nghiệp dùng để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu và mua sắm nguyên, nhiên vật liệu... dùng vào sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp thì một phần rất lớn trong nguồn vốn này là nhà nước cấp, đặc điểm của nó là không phải hoàn trả lại, không phải chịu sức ép lãi suất như các nguồn vốn khác. Nguồn vốn tự bổ xung là nguồn vốn mà doanh nghiệp bổ xung hàng năm, hàng quý... vào quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn trích từ lợi nhuận và nguồn vốn trích từ quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp. b. Nguồn đi vay: Đây là nguồn vốn khai thác từ bên ngoài doanh nghiệp. Nó bao gồm nguồn vốn vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác và nguồn huy động từ cán bộ công nhân viên trong công ty. c. Nguồn được viện trợ: Đây là nguồn do các tổ chức, các doanh nghiệp trong và ngoài nước viện trợ cho. Đặc điểm của nguồn vốn này đó là doanh nghiệp không phải hoàn trả hoặc trả một lượng rất ít. d. Nguồn ODA và FDI: + Nguồn ODA: Hình thức cấp vốn này có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay lãi với lãi suất ưu đãi thấp và thời hạn thanh toán không hạn chế. Hình thức này có chi phí kinh doanh thấp. Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này thì doanh nghiệp cần phải thực hiện các ràng buộc, các cam kết và các điều kiện rất ngặt ngèo và khắt khe của đối tác cho vay. + Nguồn FDI: Đây là nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, do các tổ chức, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào. Hình thức này xuất hiện khi nước ta thực hiện chế độ nền kinh tế mở, cùng với bộ luật đầu tư nước ngoài mới ban hành. Với nguồn vốn này không chỉ doanh nghiệp nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ thuật công nghệ cũng như phương pháp quản lý tiên tiến. Hơn nữa, doanh nghiệp còn được chia sẻ cả thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên khi huy động nguồn vốn này thì doanh nghiệp sẽ phải chịu sự kiểm soát đIều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) cấp vốn. Mức độ kiểm soát tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp của họ. 1.2.5. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan