Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện nói môn ngữ văn ...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện nói môn ngữ văn ở trường thcs .

.DOC
35
222
145

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỸ ĐỨC TRƯỜNG THCS AN TIẾN --------------***--------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: MÔ ÔT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TIẾT LUYÊÔN NÓI MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS . 0 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ và đặc biệt là có khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện đại. Quan điểm tích hợp và tích cực luôn chi phối các hoạt động dạy học Ngữ văn, nhất là ở phần dạy các kĩ năng làm văn. Một tiết dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả trước hết phải tạo nên không khí hứng thú cho mỗi giờ học. Không khí đó chỉ có được khi người dạy biết đa dạng hóa các hình thức, biện pháp dạy học. Mặt khác, với tinh thần quan điểm dạy học mới, SGK Ngữ văn không chỉ chú trọng nội dung mà còn chú trọng hình thức nhằm phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Để đạt được những mục tiêu trên và thực hiện theo yêu cầu của phương pháp dạy học mới, người dạy cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các biện pháp nhằm rèn cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng nói là vô cùng quan trọng. Nói sao cho người nghe hiểu là điều không phải ai cũng thực hiện tốt. Người nói khi đã chuẩn bị đầy đủ nội dung trong đầu sẽ tìm cách bộc lộ, truyền đạt thông tin đó chính là “nói”. Muốn hoạt động nói có hiệu quả trong giờ học Ngữ văn, người dạy phải hướng dẫn rèn luyện cho các em, tập cho các em mạnh dạn trước tập thể. Nhiều khi các em có dự kiến trong đầu nhưng lại không nói ra được và người thầy sẽ không nhận xét đánh giá đúng về sự tiếp thu, cảm thụ của các em trong giờ học Ngữ văn. Vậy rèn kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn vừa hình thành phong cách cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống. Thực tế của việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn là còn nhiều hạn chế. Nghịch lý của giờ luyện nói vẫn thường xuyên xảy ra: giờ luyện 2 nói là điều kiện tốt nhất để học sinh bày tỏ quan điểm, tình cảm, khả năng giao tiếp của mình trước bạn bè nhưng các em lại im phăng phắc, nép mình chờ nghe giáo viên chỉ định. Dường như tính tự tin, hoạt bát thường ngày của các em đã biến mất, giờ học thật nặng nề. Đã có học sinh chân thành phát biểu rằng: “Một điều đáng sợ là phải học tiết luyện nói môn Ngữ văn!”. Không có hứng thú trong giờ luyện nói thì làm sao rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh đây ? Thiết nghĩ, đây không chỉ là sự trăn trở của riêng tôi mà là tất cả của giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay. Xuất phát từ lý do trên tôi nhâ ân thấy mình cần phải suy nghĩ tìm tòi để tìm ra những phương pháp giảng dạy cho phù hợp nhằm thu hút được mọi đối tượng học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Bởi vâ ây tôi đã chọn đề tài: “MÔÔT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TIẾT LUYÊÔN NÓI MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS. Đến nay tôi đã tạo được một bước đột phá trong chuyên môn của mình . 2. Mục đích nghiên cứu : Với đề tài này không những giúp học sinh nắm vững , nắm chắc các kiến thức về các kiểu bài làm văn trong chương trình mà qua đó còn rèn cho học sinh hình thành bốn kĩ năng cơ bản đó là nghe, nói, đọc ,viết, đặc biệt là kĩ năng nói. Học sinh từ chỗ còn lo lắng, rụt rè, nói còn ngập ngừng vấp váp đến chỗ nói tốt hơn, lưu loát, ngừng nghỉ đúng chỗ. Hơn nữa nói có kết hợp với ánh mắt cử chỉ, thái độ, tình cảm. Không những thế, qua tiết luyện nói còn phát hiện được chỗ yếu của học sinh, giúp học sinh khắc phục được những điểm yếu để viết tốt bài làm văn...Từ đó có thể rèn luyện cho học sinh khả năng thể hiện , bộc lộ; khả năng giao tiếp của mình trong nhà trường và ngoài xã hội; góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cũng như chất lượng chung của toàn trường . 3. Đối tượng nghiên cứu : Giải pháp nâng cao chất lượng tiết luyê ân nói môn Ngữ văn ở trường THCS. 4. Đối tượng khảo sát, thực nghiêm ê : 3 Học sinh lớp 9A, trường THCS An Tiến, Mỹ Đức, Hà Nô âi. 5. Phương pháp nghiên cứu:: - Dựa trên yêu cầu, mục tiêu của môn học, dựa trên tình hình thực tế của từng lớp, từng đối tượng học sinh. - Điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa mạnh dạn nói trước tâ âp thể . - Qua thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở các khối lớp và đă âc biê ât là ở lớp 9A, từ tình hình học tập của học sinh qua các tiết luyện nói, qua ý kiến của đồng nghiệp, hoạt động của nhóm chuyên môn… 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu : Tôi nghiên cứu đề tài với thời gian là 1 năm ( từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013 ) năm học 2012-2013 . B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUÂÔN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở pháp lý: Trong mục tiêu dạy học môn Ngữ văn THCS, về kỹ năng, chương trình môn Ngữ văn đã nhấn mạnh và nêu rõ : “Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc , viết tiếng Việt khá thành thạo theo kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giảng văn học”. Hiện thực hóa mục tiêu này của chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn THCS đã chú trọng hơn về việc hình thành và phát triển kỹ năng nói. Đây là một trong những điểm mới về quan điểm dạy học của môn học. Cụ thể là: bố trí giờ luyện nói độc lập theo từng kiểu văn bản cần tạo lập. Chương trình dành riêng cho 12 tiết luyện nói ở bốn khối lớp. Chú trọng kết hợp luyện nói với luyện nghe, luyện đọc, luyện viết trong từng giờ học. 2. Cơ sở lý luâ Ôn: Có thể nói nghe và đọc là hai kỹ năng quan trọng của họat động tiếp nhận thông tin còn nói, viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động truyền đạt thông tin. Nói thành lời thì dễ, ai cũng có thể nói được nhưng nói thế nào để mang sức thuyết phục đối với người nghe thì quả thật không phải dễ. Luyện nói trong nhà trường nhằm giúp học sinh có thói quen nói trong những môi trường khác nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ như: lời nói, các quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, sức hấp dẫn của lời nói… Luyện nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống, xã hội. Mục đích của các giờ học này là tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói trước tập thể về kiểu bài văn vừa được học và thể hiện suy nghĩ cá nhân về những vấn đề gần gũi, thiết thực với cuộc sống hàng ngày. Cụ thể là tạo điều kiện cho các em biết cách phát biểu miệng quan 5 điểm, ý kiến cá nhân, theo đề đã chuẩn bị. Ví dụ ở lớp 6, học sinh được tạo cơ hội trình bày trước tập thể bài văn kể chuyện đời thường, về cách vận dụng quan sát, tưởng tượng, so sánh , nhận xét trong văn miêu tả và bài văn miêu tả có chủ đề gắn với những sinh hoạt gần gũi. Các nội dung luyện nói này đều tập trung vào trọng tâm chương trình là kiểu bài kể chuyện và miêu tả nhằm tăng cường rèn luyện cho các em các kỹ năng liên quan đến việc tạo lập bài văn miêu tả, kể chuyện. Ở lớp 7 có luyện nói văn biểu cảm về sự vật, con người; phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học và luyện nói bài văn giải thích một vấn đề. Lớp 8 luyện nói về kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm ; luyện nói thuyết minh mô ât thứ đồ dùng . Còn ở lớp 9 các em luyện nói tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm; luyện nói nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Tiết học luyện nói phần lớn thời gian là để học sinh tập nói, giáo viên chỉ nghe và quan sát nhưng phải thật tỉ mỉ, thật khéo léo trong việc nhận xét, góp ý cho học sinh để các em kịp thời khắc phục hạn chế và cảm thấy tự nhiên, tự tin hơn ở phần diễn đạt của mình. Vì vậy bản thân tôi cảm nhận dù không phải diễn giải nhiều trong giờ học nhưng công sức đầu tư cho tiết dạy (từ việc soạn giáo án đến việc tổ chức tiết dạy) đòi hỏi rất công phu, nhằm giúp học sinh đạt hiểu quả hơn trong hoạt động nói như: nói ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp thói quen ngôn ngữ, suy nghĩ, tinh cảm, tâm lý và nhu cầu của người nghe – thuyết phục được người nghe. Đây cũng là sự cụ thể thể hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết giao tiếp và thực tiễn dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS . Điểm mới mẻ và cần lưu ý là chú trọng hơn tới cách tổ chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói cho học sinh. Luyện nói tốt sẽ giúp học sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thông tin trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.Ví dụ như rèn cho các em phải suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin nói theo đúng nghi thức và tuân thủ các nguyên tắc hội thoại, biết vận dụng các yếu tố để lời nói thêm thuyết phục. Giáo viên chú trọng tạo điều kiện cho học sinh được bô âc lộ những suy nghĩ cá nhân, đồng thời rèn luyện năng lực nói- trình bày lưu loát, diễn cảm những suy nghĩ, tình cảm của các em. Các câu hỏi đặt ra có ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, được đặt trong những “tình huống có vấn đề” để kích thích 6 óc tư duy và sự phản xạ nhanh chóng của học sinh, giúp học sinh có thể trả lời ngắn gọn, thích hợp. Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống của mình . 3. Cơ sở thực tiễn : Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Không phải ai cũng nói nhiều như nói trong đời sống sinh hoạt xã hội, nghề nghiệp của mình. Trong giờ luyện nói hiệu quả lao động của học sinh được cảm nhận trực tiếp. Giờ luyện nói có thế mạnh của một sinh hoạt giao tiếp tập thể, không như giờ viết văn là một hoạt động tĩnh, cá nhân. Không khí giờ làm văn miệng dễ kích thích hứng thú hoạt động của học sinh hơn, nếu giáo viên ý thức được vấn đề này. Về tâm lý, con người trong hoạt động tập thể bao giờ cũng năng động hơn. Thấy rõ được đặc thù của hoạt động luyện nói và đặc điểm tâm lý học sinh thì giáo viên mới tiến hành có hiệu quả giờ dạy học được. Giờ luyện nói là cơ hội tốt nhất để giáo viên hiểu về con người, tư tưởng tình cảm học sinh qua cách nói năng, diễn đạt... 7 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Khái quát phạm vi: Thực ra luyện nói cho học sinh không phải chỉ có giờ luyện nói mà còn ở các giờ khác, các môn học khác, các buổi sinh hoạt tập thể ...Nhưng trong đề tài này tôi chỉ giới hạn tập trung bàn về tiết luyện nói trong môn Ngữ văn . Mục đích làm cho giờ dạy này đạt hiệu quả cao nhất, học sinh có kỹ năng thành thạo theo từng kiểu văn bản trong chương trình. 2. Thực trạng của vấn đề : Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS An Tiến - mô ât trường thuộc địa bàn nông thôn, vùng ven núi, tôi nhâ nâ thấy việc dạy tiết luyện nói trong môn Ngữ văn hiện nay đạt hiệu quả chưa cao, điều ấy xuất phát từ một số thực trạng như sau: - Các em thường không chủ động, có tâm lý e dè, ngại nói hoặc không tự tin khi nói. - Khi tham gia luyện nói, lời nói của các em không tự nhiên, nói lủng củng ngập ngừng không rõ ràng, không nói được điều muốn nói, không kết hợp được các yếu tố phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng… - Trong bài nói thường sử dụng nhiều từ địa phương ở vùng quê của các em, điều ấy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này. - Một thực trạng nữa của giờ luyện nói trên lớp là học sinh thường nói như đọc (học thuộc lòng bài nói rồi lên lớp đọc lại) làm cho việc nói, trình bày thiếu tự nhiên, thiếu tư thế và tác phong của giờ luyê nâ nói. Mặc dù nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hết sức nhưng cũng ít người thành công qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa 8 nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Thời gian luyện nói lại có hạn ( 45 phút) không tạo được điều kiện cho tất cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập trung vào những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười thì bị thụ động, không phát huy được khả năng của mình. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng vẫn ngồi im. Kết quả yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết luyện nói, nhất là trình độ học sinh ở vùng sâu vùng xa. So với yêu cầu của phương pháp dạy mới và những định hướng của sách giáo viên thì tiết dạy luyện nói và hoạt động nói của học sinh qua tiết dạy còn nhiều lúng túng chưa đạt yêu cầu. Khảo sát thực tế tại lớp 9A - lớp do tôi trực tiếp giảng dạy bô â môn Ngữ văn với kết quả đầu năm như sau : Đầu năm Mức độ 9A (35 học sinh) Năm học : 2012-2013 Khả năng nói tốt Khả năng nói chưa tốt trong tiết luyện nói trong tiết luyện nói 5/35 học sinh =14,3% 30/35 học sinh = 85,7% Hình ảnh học sinh lớp 9A khi giáo viên gọi lên nói trước lớp . 9 10 Từ thực tế đáng buồn ấy, bản thân tôi đã phải suy nghĩ, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, nhằm tháo gỡ những vướng mắc và tìm ra những giải pháp hữu hiê âu nhất để áp dụng vào giảng dạy tiết luyê nâ nói môn Ngữ văn trong nhà trường . 3. Nguyên nhân của thực trạng: - Phần lớn học sinh đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, vùng sâu điều kiện tiếp xúc với nơi đông người còn hạn chế nên các em thiếu tự tin, e dè, ngại ngùng và hồi hộp khi nói trước tập thể. Đôi khi các em chuẩn bị bài nói rất kĩ nhưng vì thiếu tự tin, hồi hộp quá nên các em cũng không nói được bài nói của mình. - Do điều kiện sinh sống như vậy nên đa số học sinh thiếu vốn từ để diễn đạt bài nói. Điều ấy biểu hiện ở chỗ các em thường nói ngập ngừng, lủng củng hoặc nói dài dòng, lan man không diễn đạt được điều muốn nói. Đồng thời trong bài nói các em sử dụng nhiều từ địa phương. - Kĩ năng nói của học sinh chưa được rèn luyện nhiều nên các em không biết cách nói dẫn đến thực trạng là các em nói như đọc. 11 - Học sinh chuẩn bị bài nói chưa kĩ khiến các em không chủ động trong việc trình bày bài nói điều đó cũng dẫn đến việc học sinh nói ngập ngừng, ấp úng. Với những điều nêu trên, chắc chắn giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn khi tổ chức tiết luyện nói. Từ đó tôi thấy vấn đề đặt ra là phải tạo cho học sinh tính tự tin, mạnh dạn, tinh thần chủ động; bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kĩ năng nói và hình thành những chuẩn mực trong bài nói nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện nói cho học sinh; góp phần thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS. CHƯƠNG 3: BIÊÔN PHÁP, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIÊÔN ĐỀ TÀI I. Cơ sở đề xuất giải pháp : Giáo viên dạy Ngữ văn là người hiểu và nắm rõ vai trò của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn, nhằm phát triển đồng bộ bốn kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết của học sinh THCS. Qua cách diễn đạt, phong cách, điệu bộ của học sinh trong giờ luyện nói, giáo viên có cơ hội giáo dục, uốn nắn về mặt ứng xử, đồng thời bổ sung, điều chỉnh kiến thức cơ bản về kỹ năng làm văn cho học sinh. Giờ luyện nói sẽ có ý nghĩa giáo dục toàn diện của nó, tuy trọng tâm vẫn là rèn luyện ngôn ngữ nói, phương pháp tư duy và nghệ thuật giao tiếp. Cùng với sự đổi mới của cấu trúc chương trình đã nhấn mạnh đến ưu thế của tiết luyện nói, đây là cơ sở để tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hiệu lực đúng mức của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn . II.Các giải pháp chủ yếu : Với quan điểm dạy học theo phương pháp mới hiện nay đã nhấn mạnh : “Thầy chủ đạo, trò chủ động”, “ Học sinh là chủ thể của sáng tạo”. Để phát huy tính tích cực của học sinh, thì giáo viên phải làm tốt vai trò của người 12 nhạc trưởng. Cụ thể để dạy thành công được tiết luyện nói môn Ngữ văn, giáo viên cần phải quan tâm đặc biệt đến những khía cạnh sau : - Giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung, yêu cầu bài nói để các em hình dung được mình sẽ nói cái gì ? (xác định đề tài) ; nói với ai ? (xác định giao tiếp) ; nói trong hoàn cảnh nào ? (xác định hoàn cảnh giao tiếp) ; nói để làm gì ?(xác định mục đích giao tiếp) ; nói như thế nào ? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe). - Tạo cho học sinh có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ. Điều này tưởng chừng như đơn giản nhưng tương đối khó thực hiện, bởi đa số học sinh rất ngại nói hoặc không tự tin khi nói trước đông người (nhất là học sinh lớp 8,9). Vì thế điều quan trọng là bên cạnh việc chuẩn bị tốt về kiến thức, kỹ năng giáo viên cần tạo ra những tình huống giả định tương đối gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh để các em có thể nói được và có nhu cầu muốn nói. - Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói : như không khí hào hứng của lớp, thái độ dễ hợp tác của những người tham gia giao tiếp, sự động viên, khuyến khích kịp thời của giáo viên. Còn đối với học sinh : + Phải thực hiện tốt các yêu cầu chuẩn bị cho tiết luyện nói theo đề bài, thể loại cụ thể dưới sự hướng dẫn của giáo viên. + Cần viết đề cương : tìm ý, sắp xếp ý cho đề bài luyện nói. Không yêu cầu học sinh viết thành văn, không thuộc lòng, không nói từ đầu đến cuối bằng một giọng đều đều, phải phân biệt giọng điệu cho phù hợp. III. Tổ chức triển khai thực hiện : - Trước khi triển khai thực hiện một tiết luyện nói giáo viên phải xác định trọng tâm của luyện nói là gì ? Sự khác nhau của giờ luyện nói trong môn Ngữ văn với các giờ môn học khác. + Khác nhau trước hết là ở nội dung nói. Nội dung nói ở các giờ học khác gắn với nội dung của mỗi bài học, mỗi hoạt động. Nội dung nói của giờ Ngữ văn 13 gắn chặt với nội dung đang học. Nghĩa là luyện nói trong giờ Ngữ văn không phải thích nói gì cũng được. + Khác ở tính chất của giờ luyện nói, nếu như nói ở các giờ học và các hoạt động khác là nói một cách tự do, thì nói ở giờ luyện nói môn Ngữ văn buộc học sinh phải tập nói có bài bản, thưa gửi ; nói có sửa chữa, uốn nắn, có sự theo dõi, đánh giá của người khác. - Để làm tốt việc rèn luyện kỹ năng nói ngoài những yêu cầu cụ thể về nội dung của mỗi giờ luyện nói, mục đích chung của các giờ luyện nói trong chương trình vẫn là rèn luyện cho học sinh có kỹ năng nói tự tin, thành thạo. Chính vì thế khi tiến hành các giờ luyện nói, giáo viên hướng học sinh tuân thủ theo những yêu cầu sau : + Phải nói theo dàn bài đã được chuẩn bị trước (dàn bài ngắn gọn, bám sát yêu cầu đề bài, nêu được các ý chính, học sinh dựa vào dàn bài để nói) + Tránh nói vòng vo, tránh đọc lại hoặc học thuộc lòng để đọc lại bài văn mà chi tiết đã có trước (bài văn mẫu). + Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và thuyết phục người nghe, thể hiện cảm xúc chân thành, không gò bó, áp đặt. + Tác phong tự nhiên, tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy. + Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu. - Hình thức lên lớp giờ luyện nói cần được đa dạng hóa, nhằm phát huy tính chủ động và năng động, sáng tạo của học sinh. * CÁC BƯỚC CƠ BẢN KHI TIẾN HÀNH CHO GIỜ LUYÊÔN NÓI: 1. Bước 1 : Kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh. Bước này tôi đặc biệt chú ý, không thể bỏ qua hay lơ là được vì đây là cơ sở cho tiết luyện nói. Mặt khác, kiểm tra chặt chẽ khâu chuẩn bị ở nhà sẽ tạo cho 14 học sinh có thói quen học tập, tự giác và giáo viên có biện pháp kịp thời đối với những học sinh còn yếu hoặc lười học. Tôi kiểm tra sự chuẩn bị bài của các em bằng nhiều hình thức khác nhau: Gọi các em mang vở lên kiểm tra, hoă âc là tôi xuống dưới lớp kiểm tra sắc xuất vài em , có khi tôi yêu cầu các em tổ trưởng đi kiểm tra từng bạn trong tổ mình để báo cáo lại với tôi. Dưới đây là hình ảnh các em học sinh lớp 9A đang kiểm tra sự chuẩn bị bài của tổ mình . Các em tổ trưởng kiểm tra sự chuẩn bị bài của tổ mình. 2. Bước 2: Thống nhất lại dàn ý chung Phần này tôi không đi lại từng bước nhỏ như phần chuẩn bị bài vì sẽ mất thời gian. Tôi chỉ đưa ra những câu hỏi, những vấn đề có tính chất giải đáp vướng mắc mà các em gặp phải trong phần chuẩn bị bài. Trên cơ sở đó, xây dựng dàn ý chung làm cơ sở để đánh giá nội dung bài nói của học sinh. 3. Bước 3: Đưa ra yêu cầu cho bài nói của học sinh. 15 Tôi nêu yêu cầu tiết luyện nói chung để học sinh rõ (chỉ áp dụng cho tiết luyện nói đầu tiên của khối lớp, những tiết sau, bước này sẽ do học sinh tự nhắc lại ở trước lớp). - Nội dung : Nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn ý thống nhất để trình bày cho có hệ thống. - Kỹ thuật nói : trình bày rõ ràng, mạch lạc, nói thành câu trọn vẹn. Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp - Tác phong : Bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời thưa gửi, kết thúc phải có lời cảm ơn. i 4. Bước 4: Nói trước nhóm của học sinh : Tôi chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ ( 2 bàn quay vào làm thành mô ât nhóm ) thứ nhất là để cho thuâ nâ tiê ân trong viê âc tổ chức sắp xếp của lớp học,rút ngắn được thời gian ổn định .Thứ hai là để nhiều em cùng được nói. Sau đó tôi dành thời gian khoảng 10 phút để cho các em trình bày bài nói của mình trước nhóm. 16 Hình ảnh các em học sinh luyênê nói trước nhóm của mình. 5. Bước 5 : Học sinh trình bày bài nói trước lớp: Để cho học sinh có điều kiện trình bày bài nói của mình một cách tự nhiên, hiệu quả, tôi lựa chọn nhiều hình thức, nhiều cách trình bày bài nói khác nhau. - Trình bày bài nói theo từng phần : mở bài, thân bài, kết bài đến cả bài. - Trình bày bài nói theo sự phân công của tổ, nhóm (chọn học sinh khá của tổ nhóm trình bày trước, để học sinh trung bình, yếu có điều kiện học tập và chuẩn bị). - Học sinh trình bày bài nói theo thứ tự luân phiên (đa phần học sinh đều có thể trình bày bài nói). - Học sinh trình bày bài nói theo yêu cầu, mức độ khác nhau : giỏi, khá, trung bình, yếu. 17 Em Hoàng Văn Hà đang nói trước lớp 18 6. Bước 6 : Nhận xét, đánh giá Nếu cứ để cho học sinh cứ thay phiên nhau lên trình bày bài nói của mình mà không có sự nhận xét, đánh giá, góp ý của thầy cô, bạn bè thì tiết luyện nói sẽ phản tác dụng. Trong tiết luyện nói, học sinh giữ vai trò chủ động, tích cực thì giáo viên thể hiện rõ vai trò của người chủ đạo, hướng dẫn. Vì thế tôi đã hướng dẫn học sinh theo dõi, nhận xét, đánh giá từng phần, từng nội dung cụ thể. Em Hoàng Thị Vân Anh nhâ n Ô xét các bạn nói trước lớp. Sau đó tôi tổng hợp ý kiến từ học sinh, chỉ ra ưu, khuyết điểm cũng như mặt mạnh, mặt yếu của từng em, để các em kịp thời phát huy, sữa chữa và uốn nắn. Khi các em nói xong tôi nhẹ nhàng, tế nhị, đánh giá tương đối chính xác, rõ ràng từng đối tượng học sinh . Luôn tạo ra không khí thân ái, gần gũi để các em trao đổi, trình bày ý kiến của mình được tự nhiên hơn. Tôi cũng lựa chọn ưu 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan