Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_boi_duong_hoc_sinh_gioi_quoc_gia_va_qu...

Tài liệu Mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_boi_duong_hoc_sinh_gioi_quoc_gia_va_quoc_te_mon_sinh_hoc_thpt

.DOC
35
104
63

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ HỒNG PHONG SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP TỈNH BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ MÔN SINH HỌC THPT Tác giả: Trần Thị Thanh Xuân Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Chức vụ: Tổ phó chuyên môn Nơi công tác: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong NAM ĐỊNH, NĂM 2014 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ MÔN SINH HỌC THPT 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia, Quốc tế. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: từ ngày 08 tháng 12 năm 2009 đến ngày 11 tháng 04 năm 2014. 4. Tác giả: Họ và tên: Trần Thị Thanh Xuân Năm sinh: 1979 Nơi thường trú: 45 – đường Lê Văn Hưu - Khu đô thị Hòa Vượng Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Địa chỉ: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – 76 Vị Xuyên Điện thoại: 0982826215 5. Đồng tác giả: Không có 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Địa chỉ: 76 Vị Xuyên – Nam Định Điện thoại: 0350 3640297 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ MÔN SINH HỌC THPT A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà. Người coi: “Giáo dục là cốt sách hàng đầu” trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn nhân dân ta phải chăm lo đến sự nghiệp giáo dục, Người căn dặn: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là tinh thần, là tình cảm rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta. Người cũng gửi trọn niềm tin vào thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của nước nhà thông qua lời căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu”. Trong dự thảo bổ sung cương lĩnh năm 1991, Đảng ta xác định rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước “gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 – 2015) là phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Căn cứ vào quy chế tổ chức và hoạt động của trường trung học phổ thông chuyên (Ban hành kèm theo Thông tư số: 06/2012/TTBGDĐT ngày 15/02/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì mục tiêu của trường chuyên là phát hiện những học sinh có tư chất thông minh, đạt kết quả xuất sắc trong học tập và phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện; giáo dục các em thành người có lòng yêu nước, tinh thần vượt khó, tự hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên cứu khoa học và sáng tạo; có sức khỏe tốt để tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Người xưa đã từng nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vì vậy, bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác mũi nhọn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho địa phương nói riêng và cả đất nước nói chung. Nam Định là được coi là vùng đất học học trấn Sơn Nam xưa. Là một trong những điểm được nhà Vua chọn là nơi mở thi hương vào đời Lê và đời Nguyễn. Ở đô thị cổ này, sớm đã có trường học là trường Thành Chung; cũng bởi vậy mà người Thành Nam luôn tự hào là mảnh đất sản sinh nhiều người hiền tài cho đất nước. Kế thừa truyền thống hiếu học, học giỏi và học thành tài, người Nam Định hôm nay lại càng tự hào hơn bởi trên quê hương mình vẫn là nơi sản sinh ra những người Tài – Đức. Trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định là một trong những nôi đó, ban Giám hiệu nhà trường luôn xác định việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Là người trực tiếp phụ trách đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia trong nhiều năm qua, tôi luôn trăn trở và tìm ra những giải pháp đạt hiệu quả trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Mỗi giải pháp được thực hiện và rút kinh nghiệm qua mỗi năm đã làm giàu thêm kinh nghiệm cho bản thân tôi. Với ý thức luôn học hỏi, cầu tiến và tâm huyết với nghề, tôi đã góp phần nhỏ của mình sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo tỉnh nhà với 15 năm liên tục dẫn đầu cả nước về Giáo dục và Đào tạo. B. THỰC TRẠNG Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của các trường THPT hiện nay thường gặp nhiều khó khăn. Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu như sau: nội dung, chương trình đào tạo thiếu tính liên thông và liên môn. Tất cả giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn, tự nghiên cứu và tự sưu tầm tài liệu. Giáo viên dạy bồi dưỡng vẫn phải đảm nhiệm nhiều công tác kiêm nhiệm khác như: chủ nhiệm, tổ trưởng bộ môn,… . Ngoài ra, một bộ phận chưa thực sự yên tâm khi được chọn theo một số lớp bồi dưỡng HSG vì phải mất nhiều thời gian, sợ thiếu kiến thức về các môn liên quan đến thi Đại học. Đặc biệt đối với các môn xã hội như Sử, Địa và một số môn tự nhiên như: Tin học, Sinh học thì học sinh giỏi không mấy tha thiết khi được chọn bồi dưỡng. Hơn nữa, nhiều phụ huynh học sinh e ngại con em mình học không được toàn diện, trở thành “gà nòi”. Chế độ tuyển thẳng của Bộ Giáo dục và đào tạo đối với học sinh giỏi quốc gia đã làm cho nhiều học sinh và phụ huynh không “mặn mà” với các kỳ thi học sinh giỏi, nhất là các môn khoa học cơ bản như toán, lý, hoá, sinh mà thay vào đó sẽ chọn con đường ít chông gai hơn để đi tới đích. Bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc khó khăn và đòi hỏi sự dày công của thầy và sự hết mình của trò. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng gặp những khó khăn như: về thời gian, người thầy phải đảm bảo số tiết theo Luật viên chức và trò phải học đủ tất cả các môn theo chương trình qui định. Do đó, thầy và trò đều cần có thời gian cho hoạt động này. Nhiều địa phương cũng chưa có một chế độ đãi ngộ hợp lí với các Thầy cô trực tiếp phụ trách bồi dưỡng học sinh giỏi. Nhiều Thầy cô giáo đã và đang hết mình cho công việc này, bởi tự trọng nghề nghiệp, niềm đam mê và lòng yêu thương học trò. Chính vì thế, nhiều giáo viên có năng lực chuyên môn tốt nhưng chưa thực sự gắn bó với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Bắt đầu từ năm học 2011 – 2012 đến nay, Bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa nội dung thi thực hành vào trong các đề tuyển chọn học sinh giỏi cấp Quốc gia và đội tuyển dự thi Olympic Quốc tế. Trong khi đó, ở hầu hết các trường THPT không có giáo viên chuyên trách mà phải đưa các giáo viên dạy lý thuyết sang kiêm nhiệm; đồng thời các trang thiết bị thực hành được cung cấp cho các phòng thực thành còn thiếu cả về số lượng, cả về chất lượng, chưa đáp ứng được với chuẩn Quốc tế. Bên cạnh đó, phương pháp học của nhiều học sinh trong các đội tuyển vẫn còn thụ động, còn trông chờ lĩnh hội kiến thức mà giáo viên cung cấp trong mỗi tiết học mà chưa chủ động tự tìm hiểu. Một số em đã xác định được vai trò của tự học nhưng lại chưa tìm ra phương pháp học tập đúng đắn và đạt hiệu quả. Nếu những học sinh ưu tú được ươm, trồng, phát triển trên những mảnh đất có đủ điều kiện về nhiều mặt, đặc biệt được chăm chút bởi những con người có tri thức, có tâm huyết thì chắc chắn Nam Định nói riêng, Việt Nam nói chung sẽ không thiếu nhân tài. Và như vậy, nhân tài Việt Nam không chỉ phụng sự đất nước, mà còn cho cả sự phát triển của nhân loại, nhất là trong thời kỳ hội nhập và mở cửa. C. GIẢI PHÁP 1. Mục tiêu của đề tài - Đề xuất và tiến hành thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia, Quốc tế. - Tăng cường năng lực tự học, năng lực làm việc với tài liệu, giáo trình của học sinh giỏi Quốc gia. - Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của học sinh giỏi quốc gia dưới sự hướng dẫn của giáo viên. - Nâng cao năng lực hợp tác, hiệu quả nhóm học tập của học sinh giỏi trong đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của các giải pháp. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài - Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia, Quốc tế môn Sinh học. 3. Phương pháp nghiên cứu - Điều tra thực tế. - Sưu tầm, tổng hợp tài liệu. - Phương pháp thực nghiệm. 4. Thời gian thực hiện đề tài - Từ năm học 2008 – 2009 đến nay. 5. Giải pháp cụ thể CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Dân tộc Việt Nam có truyền thống hàng nghìn năm văn hiến, truyền thống hiếu học. Một trong những con người tiêu biểu cho truyền thống hiếu học, có nhiều đóng góp trong việc xây dựng nền giáo dục cách mạng Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là người sáng lập ra chế độ mới, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngay sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc giải quyết nạn dốt là một trong những nhiệm vụ cấp bách của chế độ mới. Bởi vì, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “Dốt thì dại, dại thì hèn”. Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục sẽ tạo ra tính liên tục của cách mạng. Trên cơ sở nâng cao dân trí, nhân dân sẽ biết quyền lợi, bổn phận, có kiến thức mới để tham gia vào công việc xây dựng. Sự thành công của các nước, không có yếu tố nào quan trọng hơn giáo dục. Giáo dục sẽ tạo ra “những nguyên liệu” không có sẵn trong tự nhiên như kỹ sư, chuyên gia, bác học… Giáo dục và đào tạo sẽ góp phần quyết định làm cho non sông Việt Nam bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu. Giáo dục tạo ra nhân cách và từng bước hoàn thiện con người. Mặt khác, giáo dục còn là yếu tố quyết định trực tiếp nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, trình độ tổ chức quản lý. Giáo dục sẽ giúp cho người học có một vốn liếng về lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam và thế giới mà nếu không có nó thì sẽ không giữ vững được nền độc lập, không thể tham gia vào công việc kiến thiết xây dựng nước nhà dân giàu, nước mạnh. Giáo dục sẽ giúp cho mỗi người dân có kiến thức mới để biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui, hạnh phúc… Theo Hồ Chí Minh, giáo dục chỉ phát huy hết vai trò, sức mạnh của mình khi thực hiện đúng đắn phương châm, phương pháp giáo dục. Điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Và vấn đề xây dựng con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Bác, điều làm Bác suy nghĩ, trăn trở nhiều nhất là sự nghiệp “trồng người”. Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, ngày 13/9/1958, Bác Hồ đã có bài nói quan trọng về nhiệm vụ của những người thầy giáo với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Bác căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang”. Đúng như lời Bác nói, sự nghiệp trồng người là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang. Với mỗi đối tượng giáo dục đều phải có những phương pháp chung và những giải pháp đặc thù. Bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất vinh quang nhưng không kém phần vất vả. Đối tượng học sinh này có khả năng nhận thức tốt nhưng đây chỉ là điều kiện cần, bởi đó chỉ là một nền tảng bền vững còn việc phát triển nền tảng ấy ra sao còn phải nhờ quá trình rèn luyện và học tập. Và người Thầy chính là người giữ trách nhiệm phát triển nền tảng ấy. Triết gia Aristote cho rằng: Thiên bẩm được sinh ra cùng thân xác, và chỉ là thứ ngang bằng thân xác thôi. Tại sao? Bởi vì thiên bẩm được sinh ra cùng với con người, ai cũng như ai. Ông còn bảo: không có đứa trẻ nào sinh ra mà không cần học. Như vậy thiên bẩm luôn thấp hơn giáo dục. Thiên bẩm mới chỉ là thân xác. Chỉ có giáo dục mới mang đến cho con người tinh thần. Học sinh giỏi phải là người có tư chất thông minh, đồng thời có sự nỗ lực cá nhân, tự học, tự rèn luyện, sự đam mê, nghị lực phi thường đối với công việc của mình làm, lại được sống trong một môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tài năng. Không phải ai có tư chất thông minh cũng đều say mê với công việc, cũng đều có những nỗ lực cá nhân cần thiết để đạt tới tài năng. Ở đây đòi hỏi sự tu luyện của bản thân, công tác giáo dục của gia đình, xã hội và môi trường sống tốt. Vai trò của nhà trường và xã hội trong việc tạo nên điểm tựa cho tài năng nảy nở và phát triển là rất lớn, chẳng khác nào hạt giống tốt được nảy mầm và lớn lên trên mảnh đất màu mỡ. Người tài là những cá biệt, có năng lực đặc biệt xuất sắc, có những cá tính khác thường, và do vậy cần được giáo dục theo một chương trình đặc biệt và cần phải có những giải pháp, những “nghệ thuật” trong quá trình dạy học. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN Giáo trình về phương pháp dạy học của các tác giả: Trần Bá Hoành (1980) “Lí luận dạy học sinh học”; Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành (1998) “Lý luận dạy học Sinh học”; Phan Trọng Ngọ (2006) “Đổi mới phương pháp dạy học”... Luận án tiến sỹ của các tác giả Vũ Đức Lưu, Phan Đức Huy, Lê Thanh Oai, Lê Tấn Diện “Nội dung và biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi hóa học hữu cơ THPT”.. đều đã dành những nội dung quan trọng cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi. CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ MÔN SINH HỌC THPT Từ năm học 2008 – 2009 đến nay, tôi được giao lãnh đội đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia môn Sinh học, tôi đã xây dựng và thực hiện một số các giải pháp sau đây và đạt được những thành công nhất định. 2.1. Nội dung, chương trình và tư liệu Về nội dung và chương trình: Mặc dù, các trường và khối THPT chuyên thành lập được nhiều năm nhưng cho đến thời điểm này vẫn chưa có một chương trình chính thống nào do Bộ Giáo dục và đào tạo quản lý. Bởi vậy, chúng tôi đã chủ động nghiên cứu về nội dung các đề thi HSG môn Sinh học cấp Quốc gia và Quốc tế qua nhiều năm và đã xây dựng được một chương trình khung để đề ra những nội dung phải dạy và mục đích yêu cầu cần phải đạt được. bám sát chương trình chuyên sâu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và dựa trên tình tình thực tế, chúng tôi xây dựng một chương trình khung cho khối chuyên Sinh. Do kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia diễn ra vào cuối học kì I, đồng thời Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép học sinh lớp 11 được tham gia; vì vậy chúng tôi phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thành chương trình trên nền thời gian do Bộ quy định. Những điều chỉnh cụ thể: trong 2,5 năm, chúng tôi phải dạy xong toàn bộ kiến thức nền của cả 3 năm học. Riêng với đối tượng học sinh lớp 11 dự tuyển, chúng tôi dựa trên kết quả học tập trong năm học lớp 10 để lấy khoảng 5- 7 học sinh có năng lực môn chuyên tốt để tăng cường các phân môn Tiến hóa, Sinh thái học và Di truyền học ngay từ đầu năm học lớp 11. Ngoài ra, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến logic cấu trúc và các kỹ năng cơ bản một bài, chương, một tuyến, một phân môn và nhiều phân môn trong nội dung chương tình khung. Logic cấu trúc phải tuân thủ nguyên tắc hệ thống và khái quát, phụ thuộc vào năng lực và đặc thù tư duy của đối tượng cụ thể. Xin đưa ra một dẫn chứng cụ thể về logic cấu trúc một tuyến: Tuyến cơ sở vật chất và cơ chế di truyền, biến dị Chức năng Cấu trúc Cơ chế Sinh học là môn khoa học có tầm kiến thức rộng và các kiến thức Sinh học đang mở rộng với tốc độ nhanh chưa từng có, vì vậy môn Sinh học luôn cần đến sự hỗ trợ kiến thức của các môn học khác như: Toán học, Vật lý và Hóa học… Chúng tôi đã xây dựng một số chuyên đề bổ trợ như: toán xác suất và hóa hữu cơ để phục vụ giảng dạy phân môn Di truyền học, phân môn Sinh lí thực vật cần sự bổ trợ của một số chuyên đề thuộc bộ môn Vật lí và Hóa học… và nhờ sự giúp đỡ của các tổ chuyên môn khác. Trong những năm gần đây, bắt đầu từ năm học 2011 – 2012, Bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa nội dung thi thực hành vào trong các đề tuyển chọn học sinh giỏi cấp Quốc gia và đội tuyển dự thi Olympic Quốc tế. Chính vì thế, trong chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi, chúng tôi đã dành một phần quan trọng cho việc hướng dẫn thực hành. Một yêu cầu bắt buộc là phải thực hiện đầy đủ các bài thực hành trong nội dung chương trình giảng dạy, đảm bảo hiệu quả và rèn kĩ năng thực hành cho học sinh. Về tư liệu: Cho đến nay, Bộ Giáo dục và đào tạo vẫn chưa xuất bản một bộ tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi có tính pháp lý; song theo quan điểm của tôi, việc sử dụng các tư liệu “mở” sẽ phát huy được tính sáng tạo của cả Thầy và trò. Vì thế, các tài liệu để bồi dưỡng học sinh giỏi là do giáo viên tự xây dựng và tham khảo. Nhiều năm qua, bộ môn chúng tôi đã sử dụng các giáo trình dành cho sinh viên các trường Đại học trong nước và trên thế giới, đồng thời tham khảo các tài liệu có giá trị mà các nước tiên tiến đang sử dụng như cuốn Biology của Campbell, các đề thi của số nước như Mỹ, Anh và các đề thi chọn học sinh giỏi trong nước, các đề thi Olympic Quốc tế. 2.2. Bồi dưỡng đội ngũ Hiện nay có nhiều hình thức bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đạt hiệu quả và một trong các hình thức đó là việc tự bồi dưỡng các buổi sinh hoạt nhóm chuyên môn. Trong kế hoạch giảng dạy đầu năm, chúng tôi phân công mỗi giáo viên nghiên cứu sâu một chuyên đề. Đội ngũ giáo viên này phải được phân công cụ thể, rõ ràng để phát huy khả năng và thế mạnh của từng người. Nhóm giáo viên này có trách nhiệm biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng mảng kiến thức. Việc phân chia nhỏ nội dung phù hợp với điểm mạnh của mỗi người sẽ giúp giáo viên đầu tư đào sâu chuyên môn, đọc và dịch tài liệu nước ngoài, tích lũy kinh nghiệm, nghiên cứu kỹ các dạng đề thi về kiến thức và kỹ năng ở các đề thi đã qua. Sau đó, giáo viên sẽ trình bày nội dung chuyên đề để cả nhóm lĩnh hội, bổ sung và hoàn thiện. Nội dung các chuyên đề không chỉ để cho mỗi giáo viên trong nhóm chuyên môn tham khảo mà còn là tài liệu cho học sinh học tập. Ngoài ra, hàng năm, chúng tôi còn cử giáo viên tham dự các khóa bồi dưỡng chuyên đề, mời các chuyên gia, giáo sư có kinh nghiệm về bồi dưỡng đội ngũ, bồi dưỡng cho học sinh giỏi. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tham gia các buổi giao lưu, các buổi hội thảo của khối các trường chuyên cụm khu vực duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ, hội thảo Sinh học toàn quốc, làm quan sát viên trong đoàn Việt Nam dự thi Olympic Quốc tế. 2.3. Phát hiện học sinh có năng lực Đây là một khâu quan trọng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Có câu “Có bột mới gột nên hồ” và câu “Không Thầy đố mày làm nên”. Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, người giáo viên phải phát hiện, đánh giá được tư chất và năng lực của học sinh. Qua nhiều năm phụ trách đội tuyển, tôi thường chú trọng một số năng lực sau đây của học sinh: + Năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề. + Năng lực đọc tài liệu và tư duy mô hình hóa, sơ đồ hóa các khái niệm, các mối quan hệ; kĩ năng thao tác giải quyết vấn đề và sáng tạo cái mới; kĩ năng thực hành. + Năng lực phản biện. Trước mỗi tình huống, học sinh có khả năng phản biện hay không? + Năng lực tự học và năng lực hợp tác. + Khả năng vượt khó và bản lĩnh trước tình huống khó khăn. Có khả năng tìm tòi phương hướng giải quyết vấn đề khó, biết tự bổ sung kiến thức, phương tiện để thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ. + Độ “lì” – sức bền thần kinh. Hai năm gần đây, căn cứ vào chủ trương của ngành, tôi đã mạnh dạn tuyển chọn thêm những học sinh thuộc các khối chuyên khoa học tự nhiên khác như: chuyên Toán. Qua quá trình làm việc, tôi nhận thấy, hầu hết những học sinh này có tư duy logic, khả năng khái quát tốt nhưng lại thiếu phông nền kiến thức Sinh học. Nếu các em này được định hướng đúng thì sẽ tạo ra những triển vọng khả quan trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Cụ thể: trong năm học 2013 – 2014, em Phạm Minh Đức là học sinh lớp chuyên Toán đã đoạt giải Nhất Quốc gia môn Sinh học và đang là thành viên của Đoàn học sinh Việt Nam dự thi Olympic Quốc tế môn Sinh học ở Indonexia vào tháng 7 sắp tới. 2.4. Phương pháp dạy của Thầy và học của Trò Chúng tôi quan niệm, việc trau dồi kiến thức chuyên ngành cho học sinh chuyên là cần thiết nhưng quan trọng hơn là mọi biện pháp sư phạm của giáo viên phải đạt tới cái đích là thắp lên và duy trì ngọn lửa nhiệt huyết của mỗi học sinh với môn Sinh học. Usinxki đã từng nói: “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác”. Phẩm chất, uy tín, năng lực của người thầy có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Thầy cô là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong việc bồi dưỡng năng lực học tập, truyền cảm hứng, niềm say mê môn học cho các em. Để dạy được học sinh có khả năng và phương pháp tự học thì bản thân thầy cô cũng phải tự đào tạo, cố gắng hoàn thiện về năng lực chuyên môn, có am hiểu về kiến thức chuyên sâu, có phương pháp truyền đạt khoa học, tâm huyết với công việc, yêu thương học trò, giúp đỡ đồng nghiệp. 2.4.1. Phương pháp dạy của Thầy Hiện nay, trong các phương pháp dạy học tích cực, đã chuyển việc lấy giáo viên làm trung tâm trong quá trình dạy học sang dạy học định hướng vào học sinh; vì thế vai trò của người Thầy ngày càng quan trọng hơn. Uyliam Batơ Dit đã khẳng định “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn”. Quả đúng như vậy, một người Thầy giỏi, trước hết phải là người biết khơi dậy ngọn lửa đam mê đang tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Nhưng bằng cách nào và làm như thế nào thì đó lại là một nghệ thuật trong nghề dạy học. Theo kinh nghiệm của bản thân tôi, trước hết người giáo viên phải truyền cho học sinh sự tự tin vào chính bản thân mình. Một điều chắc chắn rằng, các em sẽ làm được và thậm chí trong tương lai không xa, các em sẽ thành công hơn cả các Thầy, các Cô. Ngoài ra, trong mỗi giờ lên lớp, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ có tác dụng kích thích học sinh niềm say mê học tập, khả năng tìm tòi, bồi dưỡng năng lực thích ứng và giải quyết các vấn đề đặt ra trong học tập cũng như trong cuộc sống. Theo quan điểm của tôi, một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong nghề dạy học chính là người Thầy phải giải phóng được mọi tiềm năng trong học sinh. Việc tạo ra những tình huống có vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức, những hoạt động khám phá sẽ kích thích được nhu cầu khám phá của học sinh, tạo động lực cho quá trình học tập. Dưới đây là một giáo án được thiết kế theo hướng kích thích khả năng tìm tòi của học sinh: Trên cơ sở những kiến thức về hiện tượng di truyền liên kết với giới tính, học sinh có thể tự trang bị các kiến thức về sự di truyền của tính trạng do gen phân bố trên vùng tương đồng của NST giới tính XY. * Bước 1: Tạo hoạt động khám phá Giáo viên đưa 2 ví dụ: - Ví dụ 1: Ở ruồi giấm, Lai thuận Pt/c ♀ đỏ x ♂ trắng F1: 100% mắt đỏ F2: 100% ♀ mắt đỏ : 100% ♂ mắt trắng Lai nghịch Pt/c ♂ đỏ x ♀ trắng F1: 100% ♀ mắt đỏ : 100% ♂ mắt trắng F2: 100% ♀ mắt đỏ : 50% ♂ mắt đỏ : 50% ♂ mắt trắng Ví dụ 2: Ở một loài côn trùng, giới tính được xác định bởi cặp nhiễm sắc thể XX (con cái, ♀) và XY (con đực, ♂). Biết tính trạng do một gen quy định. Lai thuận Pt/c ♀ đỏ x ♂ trắng F1: 100% mắt đỏ F2: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♂) Lai nghịch Pt/c ♀ trắng x ♂ đỏ F1: 100% mắt đỏ F2: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♀) Học sinh tự nhận thấy: Kết quả của phép lai thuận khác với lai nghịch, sự phân bố kiểu hình ở 2 giới là không đồng đều. Do vậy, gen quy định tính trạng nằm trên NST giới tính. Bước 2: Tự khám phá kiến thức a. Đề xuất các giả thuyết Nhưng một vấn đề đặt ra là gen không thể nằm trên NST X hay trên NST Y, vậy gen phải nằm trên vùng tương đồng của NST XY. b. Lập kế hoạch để giải quyết Để chứng minh giả thuyết này, học sinh phải viết sơ đồ lai trong trường hợp gen nằm trên vùng tương đồng của NST XY. c. Thực hiện kế hoạch giải quyết Học sinh sẽ viết sơ đồ lai để nghiệm đúng các trường hợp trên: - Alen quy định mắt đỏ (A) trội hoàn toàn so với alen a quy định mắt trắng. Lai thuận Pt/c ♀ XAXA (đỏ) x ♂ XaYa (trắng) GP: XA Xa, Ya F1: 100% XAXa : 100% XAYa (100% ♀, ♂ mắt đỏ) ♀ F1 XAXa x ♂ F1 XAYa GP: XA = Xa = 50% XA = Ya = 100% F2: 50% XA XA (♀ mắt đỏ) : 50% XA Xa (♀ mắt đỏ) 50% XAY (♂ mắt đỏ) : 50% XaYa (♂ mắt trắng) Tỉ lệ kiểu hình: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♂) Lai nghịch Pt/c ♀XaXa (trắng) x ♂ XAYA (đỏ) GP: Xa XA = YA = 100% F1: 100% XAXa (100% ♀ mắt đỏ) : 100% XaYA (100% ♂ mắt trắng) ♀ F1 XAXa x ♂ F1 XaYA GP: XA = Xa = 50% Xa = YA = 100% F2: 50% XA Xa (♀ mắt đỏ) : 50% Xa Xa (♀ mắt trắng) 50% XAYA (♂ mắt đỏ) : 50% XaYA (♂ mắt đỏ) F2: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♀) Với cách giải quyết trên, học sinh sẽ tự giải thích được cơ sở tế bào học của sự di truyền của tính trạng mà gen quy định nằm trên vùng tương đồng của NST XY. - Sau khi viết sơ đồ lai, học sinh phải giải quyết: Nguyên nhân nào dẫn đến kết quả lai thuận khác kết quả lai nghịch ở ví dụ 2? Tại sao kết quả của ví dụ 1 và ví dụ 2 lại khác nhau? - Cặp NST giới tính của con đực và con cái khác nhau. - Trong ví dụ 1, gen quy định tính trạng nằm trên vùng không tương đồng của NST X. Trong ví dụ 2, gen quy định tính trạng nằm trên vùng tương đồng của NST X. Bước 3: Đánh giá các phương án giải quyết a. Thảo luận và phát biểu Giáo viên cho học sinh thảo luận để đánh giá giả thuyết đã nêu ra. b. Phát biểu kết luận Sau khi thảo luận và thống nhất, học sinh tự rút ra những đặc điểm về sự di truyền của tính trạng do gen nằm trên vùng tương đồng của NST XY quy định: - Kết quả phép lai thuận, lai nghịch là khác nhau. - Sự phân bố kiểu hình ở 2 giới không đồng đều. - Tỉ lệ phân tính kiểu hình ở đời con giống với tỉ lệ phân tính kiểu hình trong quy luật phân li (F 1: 100% kiểu hình trội, F2 phân tính theo tỉ lệ 3 trội : 1 lặn). Bước 4: Áp dụng kiến thức đã khám phá vào thực tiễn Một loại tính trạng do một gen quy định, nếu: - Lai thuận và lai nghịch cho kết quả khác nhau. - F1 cho100% kiểu hình trội, F2 phân tính theo tỉ lệ 3 trội : 1 lặn thì kết luận gen nằm trên vùng tương đồng của NST XY quy định. Song song với việc đổi mới phương pháp dạy học, việc áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã đem lại hiệu quả nhất định trong dạy học. Sử dụng công nghệ thông tin đã làm cho bài giảng trở nên trực quan hơn, giảm bớt tính trừu tượng, bài giảng sống động hơn, thu hút sự tập trung, niềm say mê hứng thú của người học, làm cho người học dễ hiểu và nhớ lâu hơn. Đa phương tiện giúp người giáo viên có thể truyền đạt bằng nhiều con đường khác nhau những lượng thông tin cần thiết giúp cho việc tiếp thu bài học của học sinh. Từ năm 2009 đến nay, chúng tôi đã và đang sử dụng một bộ video clips kèm theo cuốn Biology của Campbell xuất bản để làm nguồn tư liệu cho việc giảng dạy môn Sinh học lớp 10, 11 và 12. Nhờ đó mà những cấu trúc và cơ chế hoạt động ở mọi cấp độ tổ chức sống được mô tả một cách sống động bằng những video clips sinh động, hình ảnh nhãn quan nhằm phát huy những ưu thế của các giác quan trong quá trình học tập của học sinh. Bên cạnh việc sử dụng các clips có sẵn, tôi còn chủ động thiết kế các giáo án dựa trên các phần mềm ứng dụng như Powerpoint, ActivInspire... . Sau đây là một giáo án để dạy bài Cấu trúc và chức năng của màng sinh chất mà tôi đã sử dụng công nghệ thông tin. * Khâu chuẩn bị bài giảng của giáo viên: - Tạo hình ảnh cấu trúc màng sinh chất trong hình ảnh một tế bào. + Có 2 hình ảnh: hình ảnh động cấu trúc màng sinh chất và hình ảnh tế bào. + Dùng Layer: để hình ảnh cấu trúc màng sinh chất ở lớp dưới còn hình ảnh tế bào ở lớp trên. - Tạo hình ảnh về cơ chế vận chuyển chủ động các chất qua màng dưới hình ảnh một màng sinh chất. + Có 2 hình ảnh: hình ảnh động về cơ chế vận chuyển chủ động các chất qua màng và hình ảnh một màng sinh chất. + Dùng Layer: để hình ảnh về cơ chế vận chuyển chủ động các chất qua màng ở lớp dưới còn hình ảnh màng sinh chất ở lớp trên. - Tạo kính lúp + Sử dụng Magic để tạo kính lúp: công cụ mực thần kì để tạo kính lúp nhìn qua một lớp ảnh. * Tiến trình giảng dạy: - Bước 1: Giáo viên cung cấp phương tiện, công cụ cho học sinh; cụ thể là một cấu trúc tế bào, một màng tế bào (màng sinh chất) và một chiếc kính lúp. Học sinh sẽ sử dụng chúng để tự tìm hiểu về cấu trúc và chức năng của màng tế bào. Hình 1 Hình 2 Hình 3 Hình 4 Hình 5 - Bước 2: Sau khi tự khám phá kiến thức, học sinh sẽ ghi lên bảng những đơn vị kiến thức vừa thu nhận. Hình 6 - Bước 3: Học sinh có thể tự kiểm tra bài làm của mình. Hình 7 Với cách thiết kế giáo án như trên thì vai trò của người giáo viên là trang bị phương tiện, công cụ cho học sinh còn học sinh phải tự đi tìm hiểu kiến thức và kiểm tra mức độ chính xác của các đơn vị kiến thức vừa thu nhận. Việc khơi dậy ngọn lửa đam mê trong mỗi học sinh đã là một việc khó đối với giáo viên nhưng việc duy trì ngọn lửa ấy như thế nào thì còn là bài toán nan giải với những người làm công tác giáo dục. Với kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy, chính trong quá trình học tập, các em học sinh tự khám phá ra tri thức lại là nguồn động lực, nguồn nhiên liệu dồi dào để duy trì và thổi bùng lên ngọn lửa đam mê ấy. Trong hành trình đi tìm tri thức, việc định hướng của giáo viên cũng không kém phần quan trọng. Đối với học sinh giỏi, không phải chỉ dừng lại ở việc các em đã đọc được bao nhiêu tài liệu, nhớ được bao nhiêu nội dung mà quan trọng hơn là biết khai thác và sử dụng các tài liệu đó như thế nào? Như vậy, giá trị của một tài liệu phụ thuộc vào khả năng khai thác và phạm vi sử dụng để đạt hiệu quả trong công việc và giáo viên chính là người định hướng việc sử dụng tài liệu của học sinh. Trong quá trình dạy học, người giáo viên phải đưa ra những mục tiêu kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần phải đạt tới và dựa trên những đơn vị kiến thức cơ bản, học sinh sẽ sử dụng tài liệu tham khảo để thực hiện các mục tiêu mà giáo viên đã đề ra. Trong quá trình này, học sinh sẽ phải huy động mọi nội lực của bản thân để tìm ra con đường ngắn nhất, chính xác nhất để đi tới đích cần đạt. Như vậy, thông qua việc làm này sẽ giải phóng được năng lực sáng tạo của học sinh. Một điểm cũng hết sức quan trọng là cần quan tâm đến tâm lí lứa tuổi, tạo áp lực vừa đủ trong quá trình dạy học. Một áp lực vừa đủ, phù hợp với từng giai đoạn không những đạt được mục tiêu dạy học mà còn thúc đẩy quá trình học tập của học sinh. 2.4.2. Phương pháp học của trò Với khối lượng kiến thức khổng lồ, tự học là điều kiện tất yếu trên con đường thành công. Mặc dù gọi là “Tự học” nhưng giáo viên vẫn phải là người định hướng cho quá trình tự học của học sinh. Tôi cho rằng hướng dẫn học sinh tự học là điều rất quan trọng, vì con đường ngắn nhất để học sinh đạt được kết quả học tập tốt là phải tự học, tự nghiên cứu. Nhưng động lực để giúp các em tự học, tự nghiên cứu chính là niềm say mê, hứng thú đối với môn học. Vậy làm sao để khơi gợi được niềm say mê, hứng thú học tập của học sinh? Những giải pháp giúp học sinh tự học mà trong nhiều năm qua tôi đã và đang thực hiện: - Giao cho mỗi học sinh hoặc mỗi nhóm học sinh chuẩn bị một chuyên đề để trình bày trước lớp. Để làm được việc này, học sinh phải biết huy động kiến thức cơ sở, thu thập tài liệu, xử lí thông tin. Ngoài ra, việc làm này cũng giúp cho mỗi học sinh tự khẳng định bản thân trước tập thể, tự phát hiện ra những năng lực tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Trong các hoạt động tập thể, các thành viên sẽ kế thừa thành quả làm việc và sản phẩm trí tuệ của nhau. Mỗi học sinh sẽ có ý thức và trách nhiệm trước tập thể, học cách chia sẻ với bạn bè. - Hướng dẫn học sinh cách “Dạy cho nhau”. Trên cơ sở nắm vững các kiến thức trong mỗi chuyên đề đã được giao chuẩn bị, mỗi học sinh sẽ trở thành “Người Thầy” để có thể hướng dẫn cho những học sinh khác và ngược lại. Hai giải pháp trên đã được cụ thể hóa bằng việc làm cụ thể như sau: Tôi chia toàn bộ thời gian tập huấn thành hai giai đoạn: giai đoạn một chiếm khoảng 2/3 tổng thời gian tập huấn, giai đoạn hai là lượng thời gian còn lại. Ngoài mục tiêu chung, mỗi giai đoạn tập huấn còn nhằm giải quyết các mục tiêu cụ thể. Chính vì vậy, mỗi giai đoạn cần các giải pháp thực hiện khác nhau. A. Giai đoạn II a. Đối với học sinh:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan