Phân tích nội dung của liên minh công - nông - trí thức ở Việt Nam trong
thời kỳ CNH HĐH đất nước ( qua văn kiện hội nghị TW 8 khoá 10 của
đảng về vấn đề Tam nông )
Bài làm
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và
các mối quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa
vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã hội
và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng: "lịch
sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp"
và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu
không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong
bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.
Trong cương lĩnh của mình Đảng Cộng sản Việt Nam liên minh công nông là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân - mà nay là liên minh công nông - trí thức chính là cơ sở xã hội vũng chắc để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh và đó cũng chính là
thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc, đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “chỉ có khối liên minh công-nông do giai
cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để lật đổ các thế lực
phản cách mạng, giành lấy và cũng cố chính quyền của nhân dân lao động,
hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên
CHXH” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1989, trang 598)
*Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức Việt Nam
- Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp
công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra
1
đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có điều
kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình.
Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một cách tự
nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt Nam đã
mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được vai trò
lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân vào
làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay quê
hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân, nông thôn một cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời sống
xã hội.
-Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4,53 triệu người, chiếm
6% dân số. Về cơ cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân trong thời kỳ
trước đổi mới nay chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ thấp hơn (1,83 triệu, chiếm
40,8%) so với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68 triệu chiếm
59,2%). Tỷ lệ công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi
mới doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong mấy năm gần đây
dưới sức ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh
tranh của kinh tế quốc tế. Hậu quả tất yếu nhưng không mong muốn của tiến
trình này là hiện có hơn 150000 người vốn là công nhân nhà nước, nay thuộc
diện dư dôi, thất nghiệp. Cơ cấu thành phần cuả công nhân hiện nay rất phức
tạp, có những người vừa làm cho Nhà nước vừa làm cho tư nhân hoặc mang
danh là công nhân nhưng lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá thể.
Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm việc
trong những ngành công nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong
thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các ngành dịch vụ (giao thông vận tải,
2
bưu điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên nhanh cùng với tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện một bộ phận
mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri thức và
kỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trị tăng cao
như tư vấn, thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số công nhân có trình độ
cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%).
Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với
mức độ phát triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp
về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng và sự phân hoá,
phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân trong các ngành
nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống nhất, sức mạnh đoàn
kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay so với thời kỳ trước đổi
mới.
Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ
phận công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính
độc quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức
thu nhập rất thấp.
Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri
thức, tầng lớp công chức, viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước,
quyền lực và vai trò của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp
tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ
chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công nhân thường bị
giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các
ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân
nhưng lại bị thiệt thòi hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ
phận công nhân nhà nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập
3
nên tác phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư
nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường
phải tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để
học tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận
công nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng chịu
làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở
thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu tư
sản trải qua sự rèn luyện và công tác mà có bản chất giai cấp công nhân thì
nhiều người xuất thân từ công nhân khi được đề bạt lên lãnh đạo, quản lý lại
để mai một bảnchất giai cấp của mình. Làm công nhân không phải là mơ
ước và sự tự lựa chọn không chỉ đối với những thanh niên trẻ mà còn đối với
những người đang trong nghề. Tỷ lệ giai cấp công nhân trong các cấp uỷ,
nhất là cấp cao, cấp Trung ương thường không đạt như mong muốn và kế
hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn
của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của Đảng.
Trong những năm tới, sự biến động cơ cấu giai cấp của công nhân Việt
Nam sẽ diễn ra theo những xu hướng: ngày càng đa dạng hoá, phức tạp về
cơ cấu và không thuần nhất. Trong những năm đầu, xu hướng trên diễn ra
mạnh mẽ với tốc độ nhanh. Công nhân có mặt trong tất cả các thành phần
kinh tế. Xu hướng tăng lên nhanh của bộ phận công nhân trong khu vực kinh
tế tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; bộ phận
công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước giảm đi một cách tương đối. Sự
phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân hoá về mức sống, lối sống,
ý thức giai cấp, trình độ chính trị, tư tưởng sẽ diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc.
Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện những xu hướng đó để có những
giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
4
từng bước trưởng thành, phát triển, thể hiện rõ và phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần.
- Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh
đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng
nhóm, từng người cá biệt. Xét về thành phần xuất thân, ở nước ta có nhiều
Đảng viên không phải là công nhân. Nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phải
đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc
đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội
ngũ công nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho
sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất
của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân
Việt Nam (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công
nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu
xa là ở trình độ phát triển kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực
tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển
giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân
5
nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “ Cùng với quá trình phát triển công
nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai
cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao,
có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình”.
Hơn lúc nào hết, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải vươn lên để
xứng đáng là lực lượng trụ cột của liên minh công - nông - trí, của khối đại
đoàn kết dân tộc. Phương hướng củng cố, phát triển công nhân Việt Nam
trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mộtlần nữa đã được Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú
trọng. Đại hội chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số
lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực
ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,
xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước...”
- Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật
chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư
liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản
xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất
thấp. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông
đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách mạng to lớn nhất
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự
giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và
6
đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Tình trạng một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề
truyền thống trong khi có ít cơ hội để chuyển sang những nghề phi nông
nghiệp, và trở thành giai cấp khác. Nhiều nông dân giàu xổi nhờ bán đất ở
khu vực đô thị hoá nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng nghèo đói. Thực trạng
diễn ra là, cơ cấu giai cấp nông dân sẽ đa dạng, phức tạp và hình thành một
bộ phận công nhân nông nghiệp, phong cách lao động của người sản xuất
nhỏ giảm dần. Đội ngũ những người lao động thủ công nghiệp, dịch vụ kỹ
thuật, dịch vụ sinh hoạt và lưu thông tăng lên. Đặc biệt là, một bộ phận nông
dân lao động mang tính chất trí thức xuất hiện ngày càng nhiều, do đó, tính
chất nông dân thuần tuý ngày càng giảm đi. Tính chất nông dân - công nhân,
nông dân - trí thức, nông dân - tiểu thương, nông dân - thợ thủ công,... Sự
phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh
- Trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có
trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của
mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng
khoa học, văn học, nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý... Sản phẩm lao động của
trí thức tác động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát triển xã hội
về cả mặt đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần.
Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất
riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc
vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống
trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã
hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đòi hỏi ngày càng nhiều về tri thức khoa học, công nghệ và
năng lực sáng tạo, kinh doanh. Địa vị xã hội của tầng lớp tri thức được tăng
7
cường và tăng tiến ổn định trong suốt thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, đội ngũ trí
thức hiện nay cũng có sự phân hoá. Nhìn chung, đội ngũ trí thức nước ta có
truyền thống yêu nước,có tinh thần đoàn kết dân tộc. Trong tầng lớp trí thức
đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng về cơ cấu, lượng và chất; phong
phú về cơ cấu nghề; đa dạng về nguồn đào tạo, về thành phần xã hội - giai
cấp xuất thân; sự phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân tầng,
phân hoá về lối sống.
Theo sự phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và theo sự vận hành của cơ chế thị trường thì các đơn vị sự nghiệp
ngày càng tăng lên, do vậy lực lượng viên chức ngày càng phát triển đông
đảo. Càng ngày, lực lượng công chức, viên chức, quân nhân chuyên nghiệp
càng được bảo đảm một cuộc sống ở mức trung lưu. Tuy có hoặc không
tham gia (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các hoạt động kinh doanh, song với
mức sống trung lưu và chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong dân cư (1 đến 2
triệu người) và hoạt động ở những khâu quan trọng của các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội... của đất nước nên nhóm xã hội này đóng một vai
Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở thành người làm
chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở
Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình đấu tranh cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận được
đào tạo trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông dân, công nhân và
các tầng lớp lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi với công nhân,
nông dân và luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày
nay, cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và trí thức ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong
quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
8
Đảng ta chủ trương xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát
triển về số lượng, nâng cao giác ngộ giai cấp, trình độ học vấn và tay nghề,
nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới.
Trong thời kỳ CNH-HĐH, lực lượng sản xuất đang phát triển ngàycàng
cao, tỷ trọng cơ cấu trong nền sản có sự chuyển dịch theo hướng công
nghiệp và dịch vụ tăng lên đáng kể. ở Đồng Nai công nghiệp có mức tăng
trưởng cao (bình quân 19,9%/năm tính từ 1996-2000) năng suất lao động
ngành công nghiệp cao gấp 2 lần ngành dịch vụ và 14 lần ngành nông
nghiệp. Đó là bức tranh của sự chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp
- dịch vụ - nông nghiệp. Trong sự chuyển dịch đó dẫn đến sự chuyển biến
quan trọng trong nội dung liên minh công - nông - trí trong thời kỳ mới.
Công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh dẫn tới sự phân bố lại dân cư. ở
Đồng Nai nhiều khu công nghiệp mới hình thành thu hút hàng vạn lao động
từ nông thôn, là nông dân tham gia vào sản xuất công nghiệp, đồng thời
cũng hình thành và đẩy nhanh quá trình phát triển đô thị. Mọi sinh hoạt, đời
sống của bộ phận nông dân này cũng thay đổi, đồng thời mối quan hệ giữa
nông thôn và đô thị ngày càng nhích gần nhau hơn cũng làm cho công nhân,
nông dân, trí thức có mối quan hệ gần gũi, ảnh hưởng qua lại. Họ tiếp thu
được cái hay và tiêm nhiễm của cái chưa hay của đô thị mới chưa đuợc định
hình, chưa có đầy đủ của nếp sống trật tự, văn minh. Từ đó, ít nhiều cũng
làm thay đổi nếp sống, nếp nghỉ vốn có từ nông thôn của mình. Nhưng về
mặt bản chất họ gắn bó với nhau chặt chẽ về lợi ích hơn. Vấn đề cần được
quan tâm trong thời kỳ này là : do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế biến đổi
ngày càng rộng sự phân công của xã hội , trình độ năng lực, vị trí vai trò và
quyền lợi của mỗi thành viên trong khối liên minh này có khác nhau thì ở
đây vai trò của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là
Đảng Cộng sản phải bằng đường lối, chủ trương và các chính sách cụ thể để
9
lãnh đạo hài hòa lợi ích của giai cấp và tầng lớp trong lợi ích chung của đất
nước, của toàn xã hội, liên minh công - nông có thực sự vững chắc hay
không, vấn đề bản chất của nó là sự liên minh về mặt kinh tế, là sự bình
đẳng về mặt phân phối các lợi ích, về sự công bằng xã hội mà biểu hiện cụ
thể là sự liên minh giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa Nhà nước với
nông dân.
Ví dụ để minh chứng cho mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp :
nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống (trên 75% dân số hiện nay là
nông dân) nông thôn là địa bàn rộng lớn, là thị trường tiêu thụ có ý nghĩa rất
quyết định cho sự phát triển cho các nền kinh tế công nghiệp.
Nhưng nông thôn, nông dân hiện nay còn thiếu trên nhiều mặt, đặc biệt là
đói thông tin. Họ rất ít hiểu biết những vấn đề tưởng đâu sơ đẳng nhất báo
chí đã nêu như trẻ con còn thiếu dinh dưởng nhưng họ lại đem trứng gà, vịt
đi để mua bột ngọt, đồng ruộng thì phun quá nhiều thuốc trừ sâu độc hại, cua
đồng là món ăn có nhiều dinh duỡng cho trẻ con không còn.
Hiện nay việc đổ xô trồng cây này, mai thay cây khác thể hiện điều đáng
quan tâm là chất luợng năng suất thấp khó tiêu thụ. Vấn đề là giống tốt, biện
pháp kỹ thuật chăm sóc. Tất nhiên có thị trường mà ta thường gọi là đầu ra
mà thị trường ngày nay dù nội địa hay ngoài nước đều là khó tính.
Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng
giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển
sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức
sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân
tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công
nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Những hạn chế, yếu
10
kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân
chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ
thống.
Tầm nhìn dài hạn 3 nhóm vấn đề chính: Phát triển nguồn nhân lực - Quản lý
sử dụng đất - An ninh lương thực cần được giải quyết. Nông nghiệp, nông
dân,nông thân cần có tầm nhìn và vị trí xướng đáng bởi nước ta là nước
nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta thì liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức vừa là vấn đề có tính quy luật tất yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vừa là lực lượng sản xuất, lực lượng
chính trị cơ bản và đông đảo nhất của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc.
11
- Xem thêm -