1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do và bối cảnh của đề tài:
Thực hiện lộ trình cam kết WTO, từ ngày 1/1/2007, thị trường bán lẻ trong nước
được mở cửa. Đối với dược phẩm, một lĩnh vực có tác động mạnh tới đời sống, việc
mở cửa thị trường bán lẻ sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài
được quyền xuất nhập khẩu, phân phối thuốc ở Việt Nam. Thực tế này sẽ tạo ra nhiều
sức ép với thị trường trong nước, nhất là đối với doanh nghiệp nội địa khi mà hơn 50%
thị phần thuốc trong nước vẫn là thuốc ngoại nhập. Do đó, thị trường bán lẻ trong lĩnh
vực dược phẩm được mở cửa, với việc doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam được quyền xuất nhập khẩu và phân phối thuốc sẽ có những tác động không nhỏ
tới thị trường về cung cầu và giá cả. Tính đến thời điểm hiện nay, thị trường dược Việt
Nam đã hội tụ đầy đủ sắc thái của một thị trường cạnh tranh ở mức độ cao.
Mặc dù vậy, việc thực hiện các lộ trình cam kết WTO đối với lĩnh vực dược phẩm
sẽ vẫn được thực hiện đúng theo kế hoạch. Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho các đối tác nước ngoài kinh doanh và sản xuất dược phẩm hoạt động trong môi
trường thông thoáng, lành mạnh, công khai, bình đẳng và minh bạch.
Tuy nhiên, dược phẩm là một lĩnh vực nhạy cảm có ảnh hưởng lớn tới đời sống nên
Bộ Y tế cùng với các cơ quan chức năng và doanh nghiệp sẽ phải có sự phối hợp chặt
chẽ, với mục tiêu là cung ứng thuốc có chất lượng, giá cả hợp lý, góp phần chăm sóc
sức khỏe người dân tốt hơn.
Công ty dược Bửu Hòa là doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm, đang hoạt động
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, cạnh tranh với các doanh nghiệp trong tỉnh nhà
và các doanh nghiệp ngoài tỉnh. Trước các áp lực đó, Công ty dược Bửu Hòa phải nhìn
nhận được các lợi thế và nhược điểm của doanh nghiệp mình để đưa ra các giải pháp
giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển mạnh mẽ hơn trong thời điểm khó khăn
hiện nay và cho tương lai.
2
Trước tình hình thực tế này kết hợp với quá trình thực tập tại công ty và quầy thuốc
của công ty, tác giả hy vọng đề tài “Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
tại công ty TNHH dược phẩm Bửu Hòa” sẽ giúp công ty có tầm nhìn tổng quát về
những thuận lợi và khó khăn hiện tại… Tác giả hy vọng với những giải pháp đưa ra sẽ
giúp công ty tận dụng được những thế mạnh của mình để có thể nâng cao khả năng
cạnh tranh nhằm gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty.
2. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận:
Ý nghĩa thực tiễn:
Công ty dược Bửu Hòa là công ty có thâm niên trong việc kinh doanh thuốc và thực
phẩm chức năng, công ty phát triển ban đầu từ nhà thuốc, với sự lớn mạnh không
ngừng, hiện nay công ty đã có những khách hàng riêng. Nhưng việc nâng cao khả năng
cạnh tranh trong giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế là việc ưu tiên hàng đầu nhằm giữ
chân khách hàng cũ và tìm kiếm khách hàng mới.
Đề tài nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng về mặt thực tiễn, giúp Công ty dược
Bửu Hòa có những giải pháp để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh và vị thế của
doanh nghiệp mình. Đề tài này sẽ được ứng dụng vào thực tế của công ty.
Ý nghĩa lý luận:
Vận dụng các khái niệm, định nghĩa, các phương pháp phân tích SWOT và việc
phân tích tình hình kinh doanh thực tế của công ty, ý kiến của khách hàng để đưa ra các
giải pháp mà công ty áp dụng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động kinh
doanh trong thời gian tới.
3. Kết quả đạt được và những tồn tại:
Kết quả đạt được:
Đề tài nghiên cứu cung cấp cái nhìn chung về thực trạng của công ty, những điểm
mạnh, những điểm yếu, những cơ hội và những nguy cơ. Qua phân tích, đánh giá kết
3
quả kinh doanh, thị trường mục tiêu, lấy ý kiến khách hàng đề tài đã nêu được những
giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty, nhằm nâng cao doanh thu và lợi
nhuận, giúp công ty phát triển bền vững.
Những tồn tại:
Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định về thời gian, kinh tế nên các giải pháp mà
đề tài nêu ra mới chỉ dừng lại ở những vấn đề cơ bản và là cơ sở để đi vào thực tế thực
hiện. Mỗi giải pháp cần được nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để phát huy hết hiệu quả
khi áp dụng vào thực tế.
4. Dự kiến nghiên cứu tiếp tục:
Nếu có được cơ hội nghiên cứu tiếp tục, tác giả sẽ phát triển việc nghiên cứu các
giải pháp đã đưa ra theo hướng chuyên sâu hơn nữa, thu thập thêm nhiều thông tin hữu
ích và phân tích kỹ hơn nữa nhằm giúp công ty áp dụng các giải pháp một cách hiệu
quả nhất.
5. Kết cấu đề tài nghiên cứu:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 04 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của công ty trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2: Thực trạng kinh doanh công ty TNHH Dược phẩm Bửu Hòa.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty TNHH
Dược phẩm Bửu Hòa.
6. Tổng quan về đề tài:
6.1. Giới thiệu tổng quát về đề tài nghiên cứu:
Trong những năm gần đây, khi nước ta quyết định mở cửa và hội nhập với nền kinh
tế giới, đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh đó, sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp ngày càng gay gắt hơn. Từ khi Việt Nam chính thức trở
4
thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới – WTO, nền kinh tế nước ta trở nên
năng động hơn để hòa mình vào dòng chảy của thế giới, các doanh nghiệp đã và đang
hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, liên quan đến sự sống còn của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh
tranh với các tập đoàn, công ty lớn từ nước ngoài đổ vào Việt Nam đầu tư, các doanh
nghiệp kinh doanh cùng ngành sắp gia nhập vào thị trường…
Ở nước ta, có rất nhiều các công ty dược phẩm cùng được hưởng sự ưu đãi của Nhà
nước, cùng sản xuất các sản phẩm gần giống nhau, nên việc tạo cho công ty mình chỗ
đứng trên thị trường càng trở nên khó khăn hơn. Trước khi gia nhập WTO, ngành dược
phẩm yêu cầu các công ty sản xuất dược phẩm phải đạt tiêu chuẩn GMP theo ASEAN
mới được phép sản xuất, thời gian chuẩn bị đầu tư cho phân xưởng, máy móc, con
người… để đạt được tiêu chuẩn đó tốn rất nhiều tiền. Chưa dừng lại ở đó, vài năm sau,
Cục Quản lý Dược yêu cầu các công ty phải nâng cấp GMP theo tiêu chuẩn WHO, một
tiêu chuẩn cao hơn ASEAN, được toàn thế giới công nhận. Không những phải đạt
GMP theo WHO mà còn phải đạt GLP, GSP, GDP, GPP theo WHO. Đến thời điểm
này, các công ty sản xuất dược phẩm không đạt được các tiêu chuẩn trên thì không
được phép sản xuất nữa.
Các công ty sản xuất dược phẩm đã đạt các tiêu chuẩn GMP, GLP, GSP, GDP, GPP
thì các công ty kinh doanh dược phẩm cũng phải đạt tiêu chuẩn GSP, ISO thì mới được
phép tiếp tục kinh doanh, do ngành dược phẩm là một ngành đặc thù liên quan đến sức
khỏe của cộng đồng. Trong thị trường dược phẩm, một thị trường đầy tiềm năng nhưng
cũng đầy thách thức, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nổ lực hết mình để vượt qua khó
khăn, chọn cho mình con đường đúng đắn nhất để phát triển hơn nữa.
Công ty dược Bửu Hòa là một công ty chuyên kinh doanh dược phẩm sản xuất
trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài, đang hoạt động trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt. Công ty đã đạt được các tiêu chuẩn GSP, GDP, ISO đây là bước thuận lợi
5
hơn trong kinh doanh vì công ty dược Bửu Hòa đã tạo được sự tin tưởng ở khách hàng
của mình.
Đề tài nghiên cứu này sẽ giúp cho công ty thấy được các giải pháp cần thiết trong
hiện tại và tương lai để nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty, đồng thời cũng nâng
cao doanh số và lợi nhuận hơn nữa.
Do những hạn chế về thời gian, nguồn kinh phí và một số hạn chế nhất định của bản
thân nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu khả năng cạnh tranh cho công ty ở thị trường
trong tỉnh nhà và một số tỉnh lân cận.
6.2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu:
Ngành dược phẩm được hình thành và có lịch sử phát triển rất lâu đời, con người có
thể nhịn mặc, nhịn ăn, nhưng không thể không cần đến thuốc khi sức khỏe cơ thể suy
giảm. Kinh doanh dược phẩm liên quan đến sức khỏe nhân dân và sự sống của họ.
Kinh tế càng hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng phải đối mặt nhiều hơn
với các đối thủ mới có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và khả năng cạnh
tranh cao, phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường toàn cầu với những nguyên tắc
nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế. Chúng ta đang phải đối mặt
với những thách thức thật sự to lớn.
Trước nay chưa có tác giả nào thực hiện chuyên đề nghiên cứu các giải pháp nâng
cao khả năng cạnh tranh cho Công ty dược Bửu Hòa nên đề tài này thực sự hữu ích và
mang tính cấp thiết cho hoạt động kinh doanh của công ty.
6.3. Quan điểm chọn đề tài:
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã qua, các doanh nghiệp tại Việt Nam
đã nhận được các chính sách kích thích tăng trưởng nền kinh tế. Tình hình sản xuất
kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không những đã phục hồi mà còn tăng trưởng
mạnh. Tuy nhiên, không phải là khó khăn đã hết. Để tiếp tục phát triển và phát triển
6
bền vững, bản thân doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh cho
mình.
Doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng đón nhận những cơ hội mới trong giai đoạn
hậu khủng hoảng, mà còn vì mỗi giai đoạn đều cần có các giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh phù hợp, linh hoạt để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
6.4. Những điểm mới của đề tài nghiên cứu:
Trước đây có rất nhiều sinh viên đã nghiên cứu các giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh cho doanh nghiệp nhưng chưa có sinh viên nào nghiên cứu “các giải pháp
nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành dược phẩm nói chung và công ty dược Bửu
Hòa nói riêng”.
6.5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm định tính và định
lượng, với các phương pháp chủ yếu sau đây:
− Phương pháp thu thập thông tin từ các số liệu báo cáo của công ty, thu thập từ
các nguồn báo chí, internet…
− Phương pháp ma trận SWOT.
− Phương pháp phân tích thống kê và phân tích dữ liệu, so sánh trên cơ sở những
số liệu và thông tin thu thập được.
− Phương pháp khảo sát thị trường.
7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Lý luận về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm về lý thuyết cạnh tranh:
Cạnh tranh là vấn đề phổ biến và được nghiên cứu từ rất lâu, nhưng cho đến nay
trên thế giới vẫn chưa có khái niệm thống nhất về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Do vậy, để đưa ra khái niệm này một cách có căn cứ, cần điểm lại một số lý
thuyết về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trên thế giới và trong nước.
Sự trao đổi hàng hoá phát triển rất sớm trong lịch sử phát triển loài người,
nhưng chỉ đến khi xuất hiện trao đổi thông qua vật ngang giá là tiền tệ cạnh tranh mới
xuất hiện. Khi nghiên cứu sâu về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của sự cạnh tranh là quy luật điều chỉnh
tỷ suất lợi nhuận và qua đó đã hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này
dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá
dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Ngày nay, trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh vẫn là điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh là môi trường và
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và sự phát triển của xã
hội nói chung [2].
Tóm lại, có thể hiểu: "Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ
thể hiện đại trên thị trường với nhau nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận
lợi và nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất phát triển" [2].
Khi sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nào đó, lợi nhuận mà doanh nghiệp thu
được được xác định như sau:
8
Pr = P.Q - C.Q
Trong đó:
+ Pr: Lợi nhuận của doanh nghiệp
+ P: Giá bán hàng hoá.
+ Q: Lượng hàng hoá bán được
+ C: Chi phí một đơn vị hàng hoá.
Như vậy để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp có các cách như: tăng giá bán P,
tăng lượng bán Q, giảm chi phí C và để làm được những việc này doanh nghiệp phải
làm tăng vị thế của sản phẩm trên thị trường bằng cách áp dụng các thành tựu khoa học
công nghệ, các phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm có chất
lượng tốt, mẫu mã đẹp... và tốn ít chi phí nhất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải có
những chiến lược Marketing thích hợp nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hoá của mình
tới khách hàng giúp họ có thể nắm bắt được sự có mặt của những hàng hoá đó và
những đặc tính, tính chất, giá trị và những dịch vụ kèm theo của chúng [4].
Chỉ khi nền kinh tế có sự cạnh tranh thực sự thì các doanh nghiệp mới có sự đầu tư
nhằm nâng cao sự cạnh tranh và nhờ đó sản phẩm hàng hoá ngày càng được đa dạng,
phong phú và chất lượng được tốt hơn. Đó chính là tầm quan trọng của cạnh tranh đối
với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày càng đẹp
hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn và đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của người tiêu
dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các
sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Những lợi ích mà họ thu được từ
hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ
nhờ có các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng, được quan tâm nhiều hơn. Đây là
những lợi ích làm người tiêu dùng có được từ cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế đất
nước. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh các doanh nghiệp đã không ngừng
9
nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh
nhờ đó mà tình hình sản xuất của đất nước được phát triển, năng suất lao động được
nâng cao. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử
dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những
sản phẩm có chất lượng tốt, giá rẻ.
Cạnh tranh bao giờ cũng mang tính sống còn, gay gắt và nó còn gay gắt hơn khi
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay thị trường quốc tế có nhiều doanh nghiệp
của nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo ra một sức ép
cạnh tranh mạnh mẽ, không cho phép các doanh nghiệp hành động theo ý muốn của
mình mà buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc thúc đẩy khả năng cạnh tranh của
mình theo hai xu hướng:
− Tăng chất lượng của sản phẩm và hạ chi phí sản xuất. Để đạt được điều này các
doanh nghiệp phải biết khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước mình để tạo ra
sự khác biệt cho sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư các
trang thiết bị hiện đại, không ngừng đưa các tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật
vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Những
điều này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho quốc gia, các nguồn lực sẽ được tận dụng
triệt để cho sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước sẽ không ngừng được
cải thiện.
− Như vậy, có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một
cách hợp lý giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Cạnh tranh tạo ra môi
trường tốt cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt này không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có lợi, có doanh
nghiệp bị huỷ diệt do không có khả năng cạnh tranh, có doanh nghiệp sẽ thực sự
phát triển nếu họ biết phát huy tốt những tiềm lực của mình. Nhưng cạnh tranh
không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế các doanh nghiệp làm ăn thua
10
lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực xã hội bằng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhằm
đáp ứng nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Tóm lại: Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia cũng
như của từng doanh nghiệp.
1.1.2. Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa quan
trọng đối với phát triển kinh tế ở các quốc gia. Việc nghiên cứu hiện tượng cạnh tranh
đã từ rất sớm với các trường phái nổi tiếng như: lý thuyết cạnh tranh cổ điển, lý thuyết
cạnh tranh tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại [3].
Có thể tóm lược một số nội dung cơ bản về lý thuyết cạnh tranh trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay như sau:
− Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu, là một quy luật cơ bản trong
nền kinh tế thị trường.
− Cạnh tranh có tính chất hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Cạnh tranh
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn trên
cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì sự sống còn và phát triển của
mình. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có nguy cơ dẫn đến cạnh tranh, giành giật, khống
chế lẫn nhau… tạo nguy cơ gây rối loạn và thậm chí đổ vỡ lớn. Để phát huy được
mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, cần duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh,
hợp pháp và kiểm soát độc quyền, xử lý cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ
thể kinh doanh.
− Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh chuyển từ quan điểm đối kháng sang cạnh
tranh trên cơ sở hợp tác, cạnh tranh không phải là khi nào cũng đồng nghĩa với việc
tiêu diệt lẫn nhau, triệt hạ nhau. Trên thực tế, các thủ pháp cạnh tranh hiện đại dựa
trên cơ sở cạnh tranh bằng chất lượng, mẫu mã, giá cả và các dịch vụ hỗ trợ. Bởi lẽ,
11
khi mà các đối thủ cạnh tranh quá nhiều thì việc tiêu diệt các đối thủ khác là vấn đề
không đơn giản [4].
Tập hợp những quan điểm trên xin đưa ra một khái niệm về cạnh tranh trong kinh
tế, đặc biệt là cạnh tranh giữa doanh nghiệp: trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh luôn
liên quan đến quyền sở hữu. Nói cách khác, sở hữu là điều kiện để cạnh tranh kinh tế
diễn ra. “Cạnh tranh” là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (giữa các quốc gia,
doanh nghiệp) trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế kết hợp áp dụng khoa
học công nghệ trong sản xuất cũng như dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng
sản phẩm chất lượng và giá cả hợp lý và “cạnh tranh” cũng tạo ra sự sai biệt giữa các
sản phẩm cùng loại thông qua các giá trị vô hình mà doanh nghiệp tạo ra. Qua đó,
doanh nghiệp sẽ giành lấy những vị thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa để
tối đa hóa lợi nhuận.
Cạnh tranh không những có mặt tác động tích cực mà còn có các tác động tiêu cực.
Về mặt tích cực:
− Ở tầm vĩ mô, cạnh tranh mang lại: Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần
vào sự phát triển kinh tế, giúp đất nước hội nhập tốt kinh tế toàn cầu.
− Ở tầm vi mô, đối với một doanh nghiệp cạnh tranh được xem như công cụ hữu
dụng để: Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn,
đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó
cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
− Người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm hay dịch vụ tốt hơn với giá thành
hợp lý.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về
mặt xã hội cũng như kinh tế.
− Làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng
độc quyền, làm phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo.
− Dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất
12
chấp pháp luật.
Vì lý do trên, cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế
xã hội, sự can thiệp của nhà nước.“Bên cạnh đó, cần thay đổi tư duy cạnh tranh từ đối
đầu sang hợp tác cùng có lợi, trong hợp tác có cạnh tranh, trong cạnh tranh có hợp tác,
đó là cách ứng xử thông minh”.
1.1.3. Phân loại cạnh tranh:
Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng ngày
nay trong phân tích đánh giá người ta dựa theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường [2]:
− Cạnh tranh giữa người bán và người mua: là một cạnh tranh diễn ra theo quy luật
mua rẻ bán mắc. Trên thị trường người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao
nhất, nhưng người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất có thể. Giá cả cuối
cùng được chấp nhận là giá cả thống nhất giữa người bán và người mua sau một quá
trình mặc cả với nhau.
− Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: là cuộc cạnh tranh dựa trên sự cạnh
tranh mua. Khi số lượng hàng hoá bán ra (cung) nhỏ hơn nhu cầu cần mua của người
mua (cầu) tức là hàng hoá khan hiếm thì cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt, giá cả sẽ
tăng lên vì người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá cần mua.
− Cạnh tranh giữa người bán với người bán: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp với nhau, thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường, cuộc cạnh tranh
dẫn đến là giá cả giảm xuống và có lợi cho thị trường. Trong khi đó đối với những
doanh nghiệp khi tham gia thị trường không chịu được sức ép sẽ phải bỏ thị trường,
nhường thị phần của mình cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn.
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế [2]:
13
− Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có
lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch bằng các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng
suất lao động, giảm chi phí sản xuất làm cho giá trị hàng hoá cá biệt do doanh nghiệp
sản xuất ra nhỏ hơn giá trị xã hội. Kết quả cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật sản
xuất phát triển hơn.
− Cạnh tranh giữa các ngành: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng
minh giữa các doanh nghiệp trong các ngành với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao
nhất. Trong quá trình này xuất hiện sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các
ngành khác nhau, kết quả hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Căn cứ vào mức độ cạnh tranh [2]:
− Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán
và không người nào có ưu thế để cung cấp một số lượng sản phẩm quan trọng mà có
thể ảnh hưởng tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là
ít có sự khác nhau về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Người bán tham gia trên thị
trường chỉ có cách thích ứng với giá cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi
phí và sản xuất một mức sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng
doanh thu cận biên.
− Cạnh tranh không hoàn hảo: là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản
phẩm của họ là không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu
khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù khác biệt
giữa các sản phẩm là không đáng kể. Người bán có uy tín độc đáo đối với người mua
do nhiều lý do khác nhau như khách hàng quen, gây được lòng tin. Người bán lôi kéo
khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như quảng cáo, cung cấp dịch vụ, tín dụng
ưu đãi trong giá cả... đây là loại cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
14
− Cạnh tranh độc quyền: là cạnh tranh trên thị trường ở đó chỉ có một số người bán
sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không độc nhất. Họ có
thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường.
Thị trường có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh
tranh độc quyền. Điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có
nhiều cản trở: Do vốn đầu tư lớn hay do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị
trường này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định
giá. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của
sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa.
Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh, người ta chia thành :
− Cạnh tranh lành mạnh: là cuộc cạnh tranh mà các chủ thể tham gia kinh doanh trên
thị trường dùng chính tiềm năng, nội lực của mình để cạnh tranh với các đối thủ.
Những nội lực đó là khả năng về tài chính, về nguồn nhân lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, về uy tín, hình ảnh của công ty... trên thị trường hay của tất cả
những gì tựu chung trong hàng hoá bao gồm cả hàng hoá cứng (hàng hoá hiện vật)
và hàng hoá mềm (dịch vụ).
− Cạnh tranh không lành mạnh: là cạnh tranh không bằng chính nội lực thực sự của
doanh nghiệp mà dùng những thủ đoạn, mánh lới, mưu mẹo nhằm cạnh tranh một
cách không công khai thông qua việc trốn tránh các nghĩa vụ mà Nhà nước yêu cầu
và luồn lách qua những kẽ hở của pháp luật.
1.2. Lý luận về khả năng cạnh tranh:
Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá về kinh tế các nước và thế giới, hoạt
động kinh tế trở nên hết sức quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh tế các quốc gia
cũng như thế giới phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
15
Nói đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể hiểu: "Khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp là khả năng về năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí
của nó một cách lâu dài và có ý thức, ý chí trên thị trường cạnh tranh đảm bảo thực
hiện một tỷ lệ lợi nhuận đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp".
Hiện nay, người ta đã tính toán được rằng để đảm bảo cho yêu cầu nêu trên thì tỷ lệ
lợi nhuận đạt được phải ít nhất bằng tỷ lệ cho việc tài trợ cho những mục tiêu của
doanh nghiệp. Vì thế, nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có khả năng
cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì
sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài, nếu không nói vĩnh viễn
như là quá trình duy trì sự sống.
1.2.1. Phân loại khả năng cạnh tranh:
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ [2]:
Một sản phẩm, dịch vụ được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có
mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tương tự với chất lượng hay
dịch vụ ngang bằng hay cao hơn.
Theo lý thuyết thương mại truyền thống, khả năng cạnh tranh được xem xét qua lợi
thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Theo Michael E. Porter, khả
năng cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của bản thân
để tạo sản phẩm có gía trị thấp và có sự khác biệt. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh,
doanh nghiệp cần xác định lợi thế cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ được hiểu là những thế mạnh có thể huy động để đạt thắng lợi trong
cạnh tranh. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh:
− Lợi thế về chi phí: tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh.
Các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động được xem là nguồn lực để tạo ra
lợi thế cạnh tranh.
16
− Lợi thế về sự khác biệt hóa: sự khác biệt hóa của sản phẩm, dich vụ làm tăng giá trị
cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi
sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá
thậm chí cao hơn đối thủ của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp [2]:
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút, sử dụng có
hiệu quả yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế bền vững.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như mô hình tổ
chức của doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, năng lực cán bộ, năng lực vốn,
năng lực công nghệ, năng lực của lao động.
Quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu đặt ra yêu cầu gay gắt phải nâng cao khả năng
cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng phát
huy nội lực, nắm bắt cơ hội cho mình hơn nữa. Đồng thời, việc nâng cao khả năng cạnh
tranh là quá trình liên tục, thường xuyên, đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng khai
thác các tiềm năng, lợi thế, tận dụng cơ hội để mở rộng kinh doanh, luôn cải tiến chất
lượng sản phẩm, nâng cao năng suất.
Khả năng cạnh tranh của quốc gia [2]:
Khả năng cạnh tranh của quốc gia là khả năng của nền kinh tế quốc gia đó có thể
tạo ra sự tăng trưởng trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.
Khả năng cạnh tranh của một quốc gia là tập hợp các thể chế, chính sách, các yếu tố
xác định mức năng suất của một nước. Trong đó, mức năng suất đặt ra một mức độ
thịnh vượng chắc chắn mà một nền kinh tế có thể đạt được. Nền kinh tế cạnh tranh hơn
có xu hướng có thể tạo ra mức thu nhập cao hơn cho người dân của mình. Mức năng
suất cũng xác định được tỷ suất lợi nhuận của đầu tư trong nền kinh tế đó. Do tỷ suất
17
lợi nhuận là nhân tố xác định nền tảng của tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, nền kinh tế
có tính cạnh tranh hơn sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong trung hạn và dài hạn.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Theo mô hình Kim cương của M. Porter
có thể thấy, có ít nhất 6 nhóm yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, điều kiện cầu (thị trường), điều kiện yếu tố (nguồn lực đầu vào), các ngành
cung ứng và liên quan (cạnh tranh ngành), các yếu tố ngẫu nhiên và yếu tố nhà nước.
Tuy nhiên, có thể chia các nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
làm hai nhóm: các yếu tố bên trong doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài doanh
nghiệp.
1.2.2.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp [4]:
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đang sử dụng các chỉ tiêu thuộc 5 nhóm yếu tố
bên trong doanh nghiệp trong việc xác định khả năng cạnh tranh gồm: khả năng quản
lý (triết lý kinh doanh, sự tin tưởng vào quản lý nghiệp vụ, sự hiện diện chuỗi giá trị),
chất lượng nhân lực (mở rộng đào tạo nhân viên), năng lực marketing (định hướng
khách hàng, đổi mới mẫu mã, tăng cường tiếp thị, mở rộng thị trường quốc tế, kiểm
soát hoạt động phân phối ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới bán lẻ), khả năng đổi mới,
năng lực nghiên cứu và phát triển (chỉ tiêu cho nghiên cứu và phát triển).
Theo cách tiếp cận truyền thống, các yếu tố bên trong của doanh nghiệp ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh gồm: khả năng tổ chức quản lý của doanh nghiệp, trình độ
công nghệ, năng lực tài chính, trình độ tay nghề của người lao động.
Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Được thể hiện ở các mặt sau:
18
− Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý: không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn mà
còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ pháp luật trong nước và quốc tế, thị
trường, ngành hàng, … đến kiến thức về xã hội, nhân văn.
-
Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ
chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận. Việc hình
thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu quả cao
có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra quyết định nhanh
chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của doanh nghiệp.
-
Trình độ, khả năng quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch định
chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp… Điều này có ý nghĩa lớn
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn và
do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trình độ thiết bị, công nghệ
Là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao
năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Công nghệ còn tác động đến
tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của
doanh nghiệp.
Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng trực tiếp sử
dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao động còn
là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quá trình sản
xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến và sáng chế… Do vậy, trình độ của lực
19
lượng lao động tác động rất lớn đến chất lượng và độ tinh xảo của sản phẩm, ảnh
hưởng lớn đến năng suất và chi phí của doanh nghiệp. Đây là một yếu tố tác động trực
tiếp tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức cạnh tranh, doanh
nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao động, nâng cao tay nghề
của người lao động dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí thỏa đáng, khuyến khích
người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế, cải tiến…
Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng
lực quản lý tài chính… trong doanh nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn
– là một yếu tố sản xuất cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng
vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí
vốn, giảm giá thành sản phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản
xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua
sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy, năng lực tài chính phản
ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có nếu
muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển nguồn vốn,
tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, điều quan trọng là
doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu
quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những người cho vay vốn.
Năng lực marketing của doanh nghiệp và khả năng xác định lượng cầu
Là khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường, khả năng thực hiện chiến lược 4P
(Product, Place, Price, Promotion) trong hoạt động marketing. Khả năng marketing tác
động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp
20
phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh
nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan trọng tác động tới khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển, văn minh tiêu dùng ngày càng cao, thì
người tiêu dùng càng hướng tới tiêu dùng những hàng hóa có thương hiệu uy tín. Vì
vậy, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một tất yếu đối với những doanh nghiệp
muốn tồn tại trên thị trường.
Mặt khác, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều khâu như tiêu
thụ, khuyến mãi, nghiên cứu thị trường… do đó dịch vụ bán hàng và sau bán hàng
đóng vai trò quan trọng đến doanh số tiêu thụ - vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Là yếu tố tổng hợp gồm nhiều yếu tố cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị,
tài chính cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm
của doanh nghiệp. Năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải
tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất,
hợp lý hóa sản xuất.
Yếu tố liên quan đến mức độ cạnh tranh lĩnh vực kinh doanh của
doanh nghiệp, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp tham gia cạnh
tranh
Doanh nghiệp nào lựa chọn lĩnh vực có mức độ cạnh tranh càng thấp thì càng thuận
lợi, vì vậy, hiểu biết thị trường để quyết định kinh doanh ở lĩnh vực có mức độ cạnh
tranh thấp là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công và mang lại lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ có tác dụng thúc
đẩy doanh nghiệp nhiều hơn là môi trường độc quyền.
- Xem thêm -