Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Toán. ...

Tài liệu Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Toán.

.DOC
19
396
99

Mô tả:

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SƠ YẾU LÝ LỊCH:  Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng  Ngày sinh: 20/10/2010  Năm vào nghành:2005  Chức vụ: Giáo viên giảng dạy  Đơn vị công tác: Trường THCS Hợp Thanh  Trình độ chuyên môn: Đại học Toán – Tin ứng dụng  Bộ môn giảng dạy: Toán 1 PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU I/ Lý do chọn đề tài Tình trạng học sinh học yếu môn Toán ở cấp THCS đang là một thực tế đáng lo ngại và là nỗi băn khoăn,trăn trở của nhiều giáo viên dạy toán.Về số lượng học sinh yếu,kém nhiều hay ít và mức độ tiến bộ của học sinh yếu,kém nhanh hay chậm trong quá trình giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của nhà trường. Tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục giống nhau, nhưng mỗi học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau,có điều kiện hoàn cảnh và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình khác nhau, có động cơ và thái độ học tập khác nhau,môi trường giáo dục khác nhau thì năng lực học tập,khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác nhau.Tình trạng học sinh học yếu kém còn trầm trọng hơn đối với học sinh trên địa bàn vùng sâu,vùng xa,vùng đồng bào dân tộc,vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.Có nhiều nguyên nhân làm học sinh học yếu môn toán,song nguyên nhân chính là học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn,có nhiều lỗ hổng về kiến thức,kĩ năng.Chính vì vậy,tình trạng học sinh học yếu môn Toán ngày càng tăng và nguy hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm khác làm cho các em ngày càng hổng kiến thức nhiều hơn. Trên địa bàn mà tôi đang trực tiếp giảng dạy,học sinh đa số là con em nông thôn,điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho con cái học tập chưa cao. Ngoài giờ lên lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình,không có thời gian để tự học. Sự quan tâm kèm cặp con cái còn hạn chế. Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu. Vì thế hầu hết các em sợ học môn Toán. Là một giáo viên đã có gần 10 năm gắn bó với nghề Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em nên Tôi thiết nghĩ cần phải nghiên cứu,tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng trên mới có thể nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn,tạo cho học sinh niềm say mê học tập nhất là môn Toán. Vì lý do trên nên Tôi chọn đề tài: Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Toán. II/ Mục đích nghiên cứu Sở dĩ tôi chọn đề tài này là mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình quy định,nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập toán cho học sinh. Từ đó phát huy,khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút,lôi cuốn các em ham thích học môn toán,đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. III/ Phạm vi - đối tượng nghiên cứu Kiến thức môn toán bậc THCS như đã trình bày đóng vai trò nền tảng. Vì thế khắc phục tình trạng yếu kém môn toán ở bậc THCS là vấn đề không chỉ của riêng một cá nhân giáo viên dạy toán nào. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả rõ ràng trong việc nghiên cứu và thể nghiệm trong đề tài này tôi chủ yếu tập trung đi sâu vào phương pháp dạy học toán cho học sinh yếu,kém thuộc lớp 9 của trường. IV/ Nhiệm vụ của đề tài 1. Khảo sát chất lượng học sinh về môn toán nhằm xác định đối tượng học sinh yếu kém . 2. Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự yếu kém môn toán ở học sinh. 2 3. Phân loại đối tượng học sinh từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp và lập kế hoạch khắc phục hiện trạng yếu kém đó. 4. Thực hiện kế hoạch khắc phục yếu kém trong học sinh về môn toán. 5. Đúc rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém toán. V/ Phương pháp. Đề tài này được hoàn thành trên phương pháp thống kê tổng hợp,quan sát,phân tích nguyên nhân và phương pháp thực nghiệm sư phạm. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Học sinh học yếu kém toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức,rèn luyện kĩ năng cần thiết đối với những học sinh khác. Về mặt lý luận,người thầy phải nắm vững đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó đề ra các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh. Hơn nữa với chủ đề năm học là: Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục thì việc tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán là góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục hay chính là thực hiện tốt chủ đề năm học. Ngoài ra toán là môn học có tính tư duy cao,đòi hỏi học sinh phải có năng lực tư duy tốt,phương pháp học tập đúng đắn,có niềm tin và sự say mê thì mới có kết quả học tập tốt. Nhưng thực tế dạy học hiện nay thì đa phần học sinh rất ngại học toán. Kết quả học tập môn toán tương đối thấp,hơn nữa chương trình sách giáo khoa lại là một chuẩn kiến thức chung đó. Quan điểm của sự đổi mới phương pháp hiện nay là: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm,yêu cầu người giáo viên phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh,đặc biệt là học sinh yếu mới có thể đạt được hiệu quả giáo dục cao. Trình tự dạy học môn toán cho học sinh yếu,kém dựa trên các nội dung phụ đạo học sinh yếu và được áp dung theo phương pháp dạy học mới nhằm đặt học sinh ở vị trí trung tâm. Học sinh phải tích cực,chủ động,sáng tạo,tự giác,chủ động tìm tòi phát hiện giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng thu nhận được. Quy trình chung để giảng dạy đối với học sinh yếu,kém theo các bước: - Tạo tiền đề xuất phát - Lấp lỗ hổng kiến thức - Luyện tập vừa sức - Giúp đỡ học sinh có thái độ và phương pháp học tập Tìm ra phương pháp bồi dưỡng học sinh yếu môn toán là vấn đề mà hầu như giáo viên dạy toán nào cũng quan tâm để cải tiến chất lượng bộ môn. Vì lẽ đó không ít giáo viên đã nghiên cứu,đề xuất nhiều giải pháp tốt. Song,thực tế giảng dạy mỗi vùng,miền,địa bàn giáo dục lại khác nhau nên Tôi tiếp tục nghiên cứu một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán cho đối tượng mà tôi giảng dạy trên địa bàn xã Hợp Thanh. Nội dung chủ yếu là đưa ra các giải pháp khắc phục tình trạng học yếu môn toán của học sinh lớp 9,giúp các em tiến bộ hơn trong học tập. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA SÁNG KIẾN I/ Sơ lược lịch sử của sáng kiến. 3 Thực trạng hiện nay cho thấy vấn đề học sinh yếu kém ở các bộ môn rất trầm trọng. Trong đó môn toán không phải là ngoại lệ. Với vai trò quan trọng của bộ môn có tính quyết định đến chất lượng học tập bộ môn khác. Hơn nữa chương trình toán THCS là những viên gạch nền móng đầu tiên cho cả quá trình học tập sau này. Xuất phát từ lòng thương yêu học sinh như con em của mình và lương tâm của một người thầy giáo. Tôi thật sự băn khoăn,trăn trở trước những khó khăn,chán nản của học sinh khi học môn toán. Có những học sinh muốn học nhưng lại thấy khó quá,và không biết bắt đầu học từ đâu.Với sự trao đổi,góp ý của đồng nghiệp,tôi đã thử nghiệm trên đối tượng học sinh lớp 9 ở trường tôi về phương pháp giúp đỡ học sinh yếu, kém học tốt môn toán và thực tế đem lại kết quả khả quan. Sự tiến bộ rõ rệt của học sinh là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bản sáng kiến kinh nghiệm này. II/ Thực trạng của sáng kiến. 1/ Thực tế địa bàn và phụ huynh học sinh Trường THCS Hợp Thanh- xã Hợp Thanh là một xã có nhiều thôn nằm xa khu trung tâm,phần lớn gia đình học sinh còn nhiều khó khăn,phải đi làm ăn xa. Tỉ lệ học sinh thuộc hộ nghèo còn nhiều nên gia đình học sinh không có điều kiện quan tâm đến việc học tập của con em mình,phó thác cho nhà trường. Đôi lúc được giáo viên chủ nhiệm mời đến để trao đổi,bàn bạc về việc học tập của học sinh thì nhiều phụ huynh còn không đến.Nhiều gia đình còn bất lực trước con em của mình. Họ không kiểm soát được thời gian học tập nên đôi khi các em đã lợi dụng để đi chơi và chểnh mảng việc học tập của mình.Mặt khác có những phụ huynh của những em học sinh yếu không bao giờ kiểm tra sách vở của các em,phó thác việc học tập cho nhà trường.Nhiều em thuộc diện yếu kém được nhà trường tổ chức học phụ đạo miễn phí cũng không chịu tham giác học nghiêm túc,thường xuyên trốn học đi chơi mà phụ huynh không hề hay biết. Hơn nữa với gia đình khó khăn không có điều kiện cho bữa cơm hàng ngày của các em,quần áo không đủ mặc nói gì đến các điều kiện để cho các em học tập như: Sách tham khảo, vở ,đồ dùng học tập.... Chính những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em. 2/ Thực tế về giáo viên Một số giáo viên tay nghề còn non yếu,chưa nhiệt tình trong công tác giảng dạy,ít chịu học tập,giao lưu,dự giờ các giáo viên có chuyên môn và nghiệp vu tốt. Việc nắm bắt các phương pháp, quy trình dạy học còn mơ hồ hoặc thờ ơ,chưa hiểu đúng về đổi mới phương pháp dạy học.Giáo viên ít chịu nỗ lức tìm tòi để có những cách dạy hiệu quả mang lại chất lượng giáo dục thiết thực.Còn một số giáo viên thì do điều kiện kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn,phải lao vào làm thêm các công việc khác thì mới đủ miếng cơm manh áo hằng ngày nên không có nhiều thời gian cho nghiên cứu bài giảng trên lớp. Mặt khác với đối tượng học sinh lớp 9- là lớp cuối cấp, các em phải lĩnh hội một khối lượng kiến thức khổng lồ và phải biết tổng hợp từ các lớp dưới nên nhiều em thấy hoang mang, lo lắng. Các em vừa phải bắt nhịp những kiến thức mới,mở rộng của lớp 9,vừa phải kết hợp với kiến thức các lớp dưới để làm bài.Vì vậy những em có sức học không tốt, không nắm vững kiến thức cơ bản từ trước đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn.Và một thực tế rất đáng buồn là ở các lớp dưới các em đã không chú trọng học tập và khắc sâu kiến thức.Cứ nghĩ đến khi thi vào lớp 10 là chỉ cần đến lớp 9 học là đủ.Với những suy nghĩ và lỗ hổng kiến thức đó thì việc lĩnh hội và học tập ở lớp 9 là rất khó khăn,các em sẽ bị rơi vào tâm lý hoang mang không biết bắt đầu học từ 4 đâu và học như thế nào.Và tình trạng này nếu kéo dài sẽ dẫn đến một hậu quả hết sức nghiêm trọng-đó chính là việc các em không tiếp thu được kiến thức ở lớp 9,cứ như mình đang ngồi nhầm lớp.Khi đó giáo viên giảng dạy sẽ thấy một thể hiện rất rõ từ phía các em học sinh.Với những điều đã nêu trên nếu giáo viên giảng dạy không nắm bắt được tâm lý cũng như phương pháp,cách thức học tập phù hợp sẽ để lại hậu quả rất lớn: Các em đến lớp cũng như không,học cũng như không học và đến lớp chỉ là để đủ sĩ số,không bị thầy cô giáo mời phụ huynh vì lỗi nghỉ học. Trên thực tế có một số giáo viên nói chung và một số giáo viên bộ môn toán nói riêng chưa thực sự quan tâm đến yếu tố này; chưa thực sự quan tâm tới những kiến thức thiếu hụt ở lớp dưới để kịp thời bù đắp và đi từng bước. Vì vậy họ lên lớp với những lập trình sẵn có của mình,chỉ chú trọng đến truyền đạt kiến thức mới của lớp 9 mà chưa có biện pháp hoặc định hướng khôi phục kiến thức ở lớp dưới cho các em. Nếu cứ như vậy thì hiệu quả giờ học sẽ không có,các em ngồi học nhưng không hiểu gì.Vì vậy với mỗi giáo viên dạy toán nói chung và nhất là giáo viên dạy toán lớp 9 nói riêng phải luôn chú trọng đến điều này,phải dành tâm huyết và tình yêu thương học trò để có thể tìm ra những hướng đi phù hợp trong mỗi bài dạy. Muốn làm được điều đó thì giáo viên phải hết sức kiên trì và phải lập một nội dung chương trình phù hợp để giúp các em từng bước thu nạp những kiến thức vào đầu.Bắt đầu bằng những kiến thức gốc,kiến thức cơ bản để tạo tâm lý tự tin,vững vàng cho các em. 3/ Thực tế về học sinh. Việc học bài ở nhà của học sinh hình như không có( Nếu có thì cũng chỉ là học qua loa,chiếu lệ cho xong). Trong một lớp tỉ lệ học sinh yếu chiếm khá đông,dẫn đến tiến trình học tập chậm rãi. Tính tự quản,tự giác của học sinh trong học tập còn rất nhiều hạn chế chưa nhận thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập,các em còn ham chơi,lười học. Xuất phát từ tình hình khó khăn thực tế như đã nêu ở trên,để nâng cao chất lượng dạy – học,nhằm hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu tôi nhận thấy cần chú ý đến những đặc điểm sau: a) Có nhiều lỗ hổng về kiến thức,kỹ năng Có nhiều học sinh kỹ năng tính toán rất kém,khi thực hiện một dãy các phép toán thì luôn sai sót,đặc biệt là sai dấu. Nguyên nhân là học sinh không nắm được thứ tự thực hiện các phép toán nào trước,phép toán nào sau. Hay khi thực hiện các bài toán có dấu ngoặc thì không nắm được quy tắc dấu ngoặc,không nhớ đổi dấu khi có dấu trừ đằng trước dấu ngoặc cũng như không đổi dấu khi chuyển vế. Đặc biệt với tình trạng học sinh lớp 9 thì việc hổng nhiều kiến thức từ các lớp dưới đang là vấn đề cần bàn. Có nhiều em không thuộc bảy hằng đẳng thức đáng nhớ chứ chưa nói gì đến việc vận dụng. Các phương pháp phân tích đa thức thành nhân tử hầu như học sinh không biết và không làm được bài tập .... b) Tiếp thu kiến thức chậm,nắm kiến thức hời hợt,không biết vận dụng kiến thức trong bài tập. Học sinh yếu thường chậm hiểu,có khi bị buộc chặt vào lời giảng của giáo viên hoặc cách phát biểu trong sách giáo khoa. Thay cho việc tiếp thu nôi dung bài bằng việc nắm kiến thức một cách hình thức.Học sinh có thể đọc vanh vách các hệ thức về cạnh và đường cao ,cạnh và góc trong tam giác vuông, có thể đọc được quy tắc khai phương một tích,khai phương một thương,hoặc 7 hằng đẳng thức đáng nhớ nhưng các em lại không biết vận dụng cho đúng,hay không biết 5 phân biệt các kiến thức đó. Việc cộng,trừ,nhân ,chia phân số hay những khai triển hằng đẳng thức còn nhiều sai sót thì việc làm mottj bài tập tổng hợp lớp 9 dẫn đến kết quả sai là điều hiển nhiên. c) Năng lực tư duy kém,thiếu linh hoạt. Học sinh yếu môn toán thì thường lười suy nghĩ,chủ yếu trông chờ vào giáo viên giải bài tập trên bảng rồi chép vào vở,khả năng tập trung chú ý thấp,khả năng phân tích ,tổng hợp hạn chế ,nắm kiến thức không chắc nên học sinh thường vận dụng kiến thức một cách máy móc,không tìm hiểu kĩ yêu cầu đề bài,không biết phân tích bài toán. Ví dụ: - Các dạng bài tìm x có sử dụng phép khai phương một tích,khai phương một thương hoặc đưa thừa số ra ngoài căn, cộng trừ các đơn thức đồng dạng đã biết ở lớp 8 cho ở dang tổng hợp. Chẳng hạn: Tìm x biết + – = 13 - Hoặc những bài tập về rút gọn biểu thức có sử dụng các phép biến đổi về căn bậc hai,đổi dấu biểu thức... Đa số học sinh yếu không biết cách bắt đầu giải ra sao? Phép toán nào phải giải quyết trước,phép toán nào giải quyết sau. d) Thực hành tính toán kém,hay sai sót nhầm lẫn Đối với học sinh yếu khi thực hiện tính toán thường xuyên sai dấu khi thực hiện một dãy các phép toán,nhất là các biểu thức có chứa dấu ngoặc, biểu thức chứa căn,kĩ năng tính rất chậm.Còn lúng túng và khó khăn trong khi thực hiện các phép toán cộng,trừ ,nhân,chia... d) Diễn đạt thiếu mạch lạc,lập luận thiếu căn cứ,sử dụng thuật ngữ toán học còn thiếu chính xác. Đối với học sinh khi giải toán việc sử dụng thành thạo,chính xác ngôn ngữ toán học kết hợp với bài toán có lời văn là rất khó và càng khó khăn hơn đối với học sinh yếu ,kém. Khi gặp các bài toán có lời văn các em không biết diễn giải lập luận có căn cứ,không biết chuyển đổi thành ngôn ngữ toán học,không hiểu sâu xa vấn đề dẫn đến diễn đạt thiếu mạch lạc,lập luận thiếu căn cứ,sử dụng thuật ngữ toán học thiếu chính xác. e) Thái độ học tập thờ ơ,phương pháp học tập môn toán chưa tốt. Nhiều em học sinh chưa tự giác học tập,chưa có động cơ học tập nên học không tốt. Có nhiều em học các môn xã hội rất khá nhưng rất ngại học toán.Tâm lý chung của học sinh là rất sợ các môn tự nhiên, nhất là môn toán.Các em học yếu thường không có sự cố gắng liên tục,trong giờ học thường thiếu tập trung,không chú ý.Hay tìm cách vắng những buổi học có môn toán.Có thái độ rất thụ động và thờ ơ với việc học tập. Bài tập giao về nhà hầu hết các em không chịu làm hay chỉ làm cho có,trong tư thế đối phó. Tệ hơn có em còn chép nguyên văn trong sách giải hay của bạn bè mà không hiểu gì,thậm chí có những học sinh cá biệt không bao giờ làm bài tập ở nhà,thái độ thiếu hợp tác trong giờ học,không mang sách vở đầy đủ,có khi còn không chịu ghi bài. Ngay cả một số em đã tiến bộ được một thời gian rồi lại tiếp tục thiếu sự cố gắng dẫn đến tình trạng sa sút không có lối thoát...Nhiều em thiếu tự tin vào bản thân mình. Đôi khi làm bài tập đúng rồi nhưng khi giáo viên hỏi lại thì các em lúng túng,ngập ngừng không tự tin vào bài giải của mình. Khi học ở nhà,các em cũng không có phương pháp học tập và quy trình làm việc đúng.Thường là chưa nắm lý thuyết đã vội lao vào làm bài tập,mà lại không bao giờ làm ngoài nháp.Đây là đặc thù của học sinh học yếu các môn tự nhiên nói 6 chung.Làm không được lại nản chí,quay sang học lý thuyết một cách miến cưỡng,hình thức,bó chặt vào các ví dụ sách giáo khoa hay học vẹt đối phó. 4/ Thực tế về bộ môn Đặc thù của môn toán là thiếu tính sinh động,hấp dẫn nên học sinh không có ý thức tìm hiểu,khám phá kiến thức mới như các môn học khác. Hơn nữa thiết bị dạy học cho môn toán chưa nhiều,chưa sinh động nên học sinh ít có hứng thú khi học môn Toán. Một trong các nguyên nhân khiến các em sợ học bộ môn toán : Đó là mọt trong các bộ môn khoa học đòi hỏi người học phải có tính tư duy cao,tính kiên trì,nhẫn nại,điều này không phải ai cũng có sẵn,càng không thể học vẹt,không thể học tùy hứng. II/ Khảo sát chất lượng Từ thực tế giảng dạy ở trường THCS Hợp Thanh,một trường thuộc xã khó khăn trong huyện. Tháng 9 năm 2011 tôi đã bắt đầu nghiên cứu và tìm ra cách khắc phục tình trạng hóc inh học yếu môn toán của mình. Số liệu thống kê từ lớp tôi giảng dạy năm 2011-2012 Kết quả khảo sát chất lượng môn toán đầu năm 2011-2012 Lớp Sĩ Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu Điểm kém số 9C 35 0/35 02/35 15/35 10/35 8/35 9E 30 0/35 01/35 10/30 12/30 7/30 Nhìn chung kết quả khảo sát như trên là còn quá yếu kém. CHƯƠNG III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Với thực trạng học sinh học yếu môn toán như trên nếu không khắc phục được những điều đó sẽ làm cho tình trạng học kém ngày càng trở nên trầm trọng.Nguy hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm khác làm cho học sinh trở nên bế hơn và thật đau lòng khi học sinh càng học càng không biết gì” .Chính vì vậy,giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết,không thể giải quyết trong một sớm,một chiều mà có lộ trình hợp lý,có những biện pháp sát thực,hiệu quả và kịp thời,nhất là phải phù hợp với từng học sinh. Để khắc phục phần nào tình trạng trên tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mà tôi cũng đã bước đầu thực hiện để cải thiện tình trạng học sinh yếu kém môn toán cũng như việc nắm kiến thức kĩ hơn,sâu hơn,vận dụng linh hoạt kiến thức đó vào làm bài tập ở đon vị trường tôi như sau: Trong tiết học đồng loạt,bằng những biện pháp phân loại học sinh giáo viên đã có thể tác động vào từng đối tượng học sinh trong đó có diện học sinh yếu kém. Tuy nhiên bên cạnh đó,việc giáo viên cần phải giúp đỡ cụ thể riêng đối với nhóm học sinh yếu kém. Mục đích của việc giúp đỡ riêng này là làm cho nhóm học sinh này theo kịp các yêu cầu chung của tiết học trên lớp và có thể hocf vào việc học đồng loạt tốt hơn. Những giúp đỡ riêng có thể là ngoài giờ chính khóa,cũng có khi là giúp đỡ riêng trong giờ chính khóa. Nôi dung giúp đỡ nhóm học sinh yếu kém môn toán có thể tiến hành theo các giải pháp sau: CÁC GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM MÔN TOÁN I/ GIẢI PHÁP TÂM LÝ 7 Ngay từ đầu để học sinh yêu thích môn học của mình,tôi đã tạo sự gần giũ với các em từ những tiết học đầu tiên bằng cách hỏi thăm tình hình học tập của lớp,trao đổi một số kinh nghiệm học tập đạt hiệu quả,đặc biệt phân tích cho các em sự khác phối hợp,liên kết,logic kiến thức từ các lớp dưới,chú ý đến những học sinh có hoàn cảnh khó khăn,động viên các em bằng cách kê những gương học tập vượt khó mà các em có thể học tập.Luôn tạo cho các em tâm lý thoải mái trong giờ học. Trong quá trình dạy giáo viên cần phải có thái độ nhẹ nhàng kể cả khi học sinh làm bài hoặc trả lời không đúng hay khi mắc khuyết điểm nào đó. Những lúc như vậy càng cần cư xử khéo léo với các em,xử lý tốt các tình huống sư phạm. Bên cạnh đó việ đánh giá nhận xét học sinh phải công bằng,khách quan và công tâm,công khai kết quả sau các giờ kiểm tra,cần phải có nhận xét bài làm của học sinh.Phải có kiến thức vững vàng để giải đáp các thắc mắc một cách thuyết phục. Để bài giảng hay tiết học của mình thêm sinh động tôi luôn tìm tòi tài liệu,tranh ,ảnh về các nhà toán học nổi tiếng giới thiệu cho các em biết hay những câu chuyện,câu đố,bài thơ vui về toán học mà tôi sưu tầm trên mạng Internet,sách,báo... Xây dựng cho các em thói quen học tập tích cực,động viên kịp thời những học sinh tiến bộ,cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng đắn,khuyến khích các em . không ngừng cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó khăn để vươn lên trong học tập,khuyến khích các em phát biểu trong giờ học. II/ GIẢI PHÁP DẠY HỌC 1/ Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu,kém Thông qua học bạ dưới lớp,thông qua bài khảo sát đầu năm,kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản,trọng tâm mà các em đã được học. Qua đó giúp tôi nắm bắt được những đối tượng học sinh yếu kém và những lỗ hổng” kiến thức của các em.Trên cơ sở đó tôi phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm ” Tương đồng về kiến thức”. Rồi tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục. 2/ Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là: a/ Học sinh có nhiều lỗ hổng về kiến thức cũng như kĩ năng do: * Nguyên nhân khách quan: - Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất lẫn cũng như thời gian,dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế. - Do học sinh có sự khủng hoảng nhất thời về mặt tinh thần trong cuộc sống dẫn đến sao nhãng việc học hành. * Nguyên nhân chủ quan: - Kiến thức bị hổng do học sinh lười học ở các lớp dưới. b/ Do khả năng tiếp thu chậm. c/ Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. 3/ Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu,kém. a/ Trước hết, tôi chú trọng khắc phục các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy trên cương vị giáo viên chủ nhiệm. * Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn Ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải đi mò cua,bắt ốc,bán hàng để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian để học tập.Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi đã có ý kiến đề 8 xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được,giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật chất cho các em.Ngoài ra tôi còn phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa,bút,vở...Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em đó trong học tập. * Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần. Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa,hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng,có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc cảu bố mẹ....Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em,động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần,góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn. * Với đối tượng học sinh học yếu kém do lười học Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em,phân tích cho các em hiểu mặt tốt,xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Về mặt chuyên môn,tôi tăng cường công tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà,trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu,gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời,cho điểm khuyến khích,động viên các em,giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn. Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các em học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung cảu những tiết học trên lớp,tiến tới có khả thể hòa nhập vào việc dạy học đồng loạt. Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém cảu học sinh. Đây là một nỗi đau hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi,thôi thuc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu,kém học tốt môn toán hơn thông qua các biện pháp cụ thể sau: b) Khắc phục các yếu tố chủ quan: * Tạo tiền đề xuất phát Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức,kỹ năng sẵn có của học sinh.giáo viên cần phải có trách nhiệm làm tái hiện lại những kiến thức kĩ năng đó.Với học sinh khá, giỏi những kiến thức,kỹ năng có khi cần tái hiện những lúc thích hợp liên quan đến nội dung mới.Nhưng đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này.Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề để đảm bảo trình độ xuất phát bằng cách tách thành từng khâu riêng biệt,tái hiện một cách tường minh để những tiết trên lớp đạt hiệu quả. Trước hết,tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình,vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK,SGV,chuẩn chương trình... Sau đó,phân tích những tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở mức độ nào(qua quá trình tìm hiểu,quan sát ở học sinh trên lớp,qua các bài kiểm tra...) Tiếp đến,tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh trông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức,kỹ năng trước khi dạy nội dung mới vào các buổi học ngoài giờ chính khóa. Chẳng hạn đối với chương trình đại số 9 9 Trước khi dạy bài về rút gọn biểu thức, để học sinh học tốt dạng toán này thì các em buộc phải nắm được các kiến thức,kỹ năng liên quan như: Biến đổi hằng đẳng thức,phân tích đa thưc thành nhân tử,quy đồng mẫu các phân số,quy tắc cộng,trừ phân số,quy tắc dấu ngoặc”. Ví dụ 1: Rút gọn biểu thức sau P = -1 + 3 +1 – 6 -4 x-1 với x≥0, x#1 ? Muốn thực hiện rút gọn biểu thức trên trước hết ta phải làm gì? HS: Phải phân tích được x- 1 thành nhận tử bằng cách sử dụng hằng đẳng thức x- 1 = ( )2 – 12 = ( +1)( – 1) ?Tiếp theo ta phải làm như thế nào HS: Ta phải quy đồng mẫu các phân số P = -1 + 3 +1 – 6 -4 x-1 = ( x +1) (-1)( x +1) + 3 (-1) (-1)( x +1) – 6 -4 (-1)( x +1) ? Tiếp theo ta cộng như thế nào? HS: Ta cộng tử,giữ nguyên mẫu P = ( x +1) + 3 (-1) – 6 -4 (-1)( x +1) ? Nhắc lại quy tắc nhân một đơn thức với một đa thức và quy tắc phá dấu ngoặc có dấu trừ đằng trước. HS: - Lấy đơn thức nhân lần lượt với từng hạng tử của đa thức - Nếu đằng trước dấu ngoặc là dấu trừ thì ta đổi dấu tất cả các hạng tử trong dấu ngoặc. P = x+ + 3 – 3 - 6 +4 (-1)( x +1) P = x – 2 + 1 (-1)( x +1) P = ( – 1)2 (-1)( x +1) P = – 1 x +1 Ví dụ 2: Trước khi dạy bài ” Sự xác định đường tròn” giáo viên cần ôn lại các kiến thức kĩ năng như: Trung điểm của đoạn thẳng,cách vẽ trung điểm của đoạn thẳng,vẽ đường thẳng vuông góc với một đoạn thẳng cho trước qua một điểm cho trước đã học ở lớp 6,rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng thước,êke và compa thành thạo để có thể xác định được tâm của đường tròn đi qua 3 điểm không thẳng hàng. Như vậy trong buổi phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền để của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khóa,giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn,phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt. Khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp thu bài mới không mấy khó khăn. Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý: - Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước,hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một - Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học,chi tiết,cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống. - Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm,qua đó các em được lặp lại nhiều lần,giúp các em dễ khắc sâu kiến thức. 10 Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn,tiếp thu bài mới tốt hơn,yêu thích học môn toán hơn. * Lấp lỗ hổng về kiến thức và kỹ năng Qua tìm hiểu thực tế cho thấy : Kiến thức có nhiều lỗ hổng” là một „ bệnh phổ biến của học sinh yếu kém toán.Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ phục vụ cho nội dung sắp học. Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới. Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức,kỹ năng của học sinh. Tìm ra những „”lỗ hổng” điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ. Trong quá trình giảng dạy,tôi thấy ở học sinh yếu kém toán lớp 7 thường bị hổng kiến thức chủ yếu ở phần tập hợp số nguyên,các kỹ năng như thực hiện các phép tính trên số nguyên ,các kỹ năng như thực hiện các phép tính trên số nguyên,quy đồng mẫu các phân số...ở số học. Còn về hình học,học sinh thường vẽ hình theo diễn đạt còn kém,các khái niệm về trung điểm của đoạn thẳng,tia phân giác của góc còn chưa nắm vững... Trong quá trình dạy học trên lớp,người giáo viên phải luôn coi trọng tính vững chắc của kiến thức kỹ năng,phải quan tâm phát hiện những lỗ hổng kiến thức kỹ năng. Có những lỗ hổng có thể có thể khắc phục được ngay nhưng cũng có những lỗ hổng dù là điển hình nhưng trên lớp chức đủ thời gian khắc phục và giáo viên phải có kế hoạch tiếp tục giải quyết.Chẳng hạn học sinh không nắm vững thứ tự thực hiện các phép toán thì có thể khắc phục được ngay. Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ kém và cả giao bài về nhà. Ở các buổi học kém,tôi đã hệ thống hóa những kiến thức,kỹ năng còn hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung kiến thức và kỹ năng cần bù đắp. Chẳng hạn: Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng cộng trừ số nguyên, phân số hoặc quy đồng các phân thức không cùng mẫu thì một mặt ở giờ học phụ kém tôi giúp các em nhớ lại cách thực hiện đồng thời cho các em cho các em thực hành nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để mau chóng lấy lại được kiến thức và kỹ năng cơ bản . Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá kiểm tra giúp đỡ,hướng dẫn thêm cho nhóm. Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự. Ngoài ra,thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập cho học sinh tôi đã cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết cách tra cứu sách vở,tài liệu để tự mình lấp những lỗ hổng” đó. * Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức Đối với học sinh yếu kém, người giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức kỹ năng lên hàng đầu, việc này còn hơn là chạy theo mục tiêu đề cao,mở rộng kiến thức. Khi làm việc riêng với học sinh yếu kém cần để các em tăng cường luyện tập các bài tập vừa theo sức mình. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém,vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn. Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? Yêu cầu cái gì? 11 Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thời giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này. Đẻ rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường,cùng mức độ. Ngòa ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau(phân bậc mịn). Do đó người giáo viên cần lưu ý các yêu cầu sau: + Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và cùng mức độ,chẳng hạn cho các em thực hiện các bài tập về rút gọn biểu thức chứa căn thức bậc hai có mẫu thức cần biến đổi ở từng dạng thật nhuần nhuyễn. Các bài toán có vận dụng quy tắc đổi dấu,hằng đẳng thức cho các em làm càng nhiều càng tốt mà không sợ bị nhàm chán. Cụ thể: Khi dạy bài tập về rút gọn biểu thức tôi thường hướng dẫn học sinh một số biến đổi thường gặp ở mẫu,sau đó mới cho làm bài tập theo từng dạng. Một số biến đổi thường gặp ở mẫu: - Mẫu có nhân tử chung Ví dụ: x- = ( -1) hoặc x + = ( +1).... - Mẫu ở dạng hằng đẳng thức: * (a+b)2 = a2 + 2ab +b2 hoặc (a-b)2 = a2 -2ab + b2 Ví dụ: x + 2 +1 = ( +1)2 ; x - 2 +1 = ( -1)2 ; Làm tương tự đối với x + 4 + 4 ; x - 4 + 4 ; * a2 – b2 = (a+b)(a-b) hoặc a2 – b2 = (a+b)(a-b). Ví dụ : x – 1 = ( ) - 12 = ( +1)( -1) x - 4 = ( )2 - 22 = ( +2)( -2) Làm tương tự đối với x – 9; x – 16...... * a3 + b3 =(a+b)( a2 – ab + b2) ; a3 – b3 =(a-b)( a2 + ab+b2) Ví dụ: x – 1= ( )3 – 13 = ( -1)(x + +1) x + 1= ( )3 + 13 = ( +1)(x - +1) Làm tương tự đối với x – 8 ; x + 8; x + 27 ; x – 27.... - Mẫu ở dạng nhóm,tách để phân tích đa thức thành nhân tử Ví dụ: x + –x-1 = ( x + ) – ( x+1) = (x+1) –(x+1) = (x+1)( -1) x + -2 = x + 2 - -2 = (x + 2 ) – ( +2) = ( +2)( -1) ....còn nhiều ví dụ tương tự như thế. Sau khi tôi đã cho học sinh nắm rõ một số biến đổi như trên thì bài tập luyện tập ở lớp và về nhà gồm hệ thồng bài tập như sau: Bài tập 1: Rút gọn biểu thức P = ( 1 + +1) : x+ với x>0 Bài tập 2: Rút gọn biểu thức M = x-1 x- - x+1 x+ + x+1 với x>0, x#1 Bài tập 3: Rút gọn biểu thức sau: a) A = ( 2 -3 + 1 +3) : +1 -3 với x>= 0 ; x #9 b) B = ( x-9 – 1 +3): ( 1 -3 – 1 ) với x>0 ,x#9 c) C = 2 +3 +1 -3 + 3-11 9-x với x>=0; x # 9 .............. 12 + Tăng cường các bài tập về tính toán,chứng minh có sử dụng các hệ thức về cạnh và đường cao trong tam giác vuông; các hệ thức về cạnh và góc trong tam giác vuông. + Sử dụng các dạng bài tập chi tiết hơn. Ví dụ đối với các bài tập về hàm số và đồ thị hàm số phải bắt đầu từ những dạng bài tập đơn giản như: - Dạng 1: Tính đồng biến và nghịch biến a) Tìm m để hàm số sau đồng biến,nghịch biến y = (1-4m)x +2 b) Cho hàm số y = -0,5x2 . Kết luận nào sau đây đúng? A. Hàm số trên luôn luôn đồng biến B. Hàm số trên luôn luôn nghịch biến C. hàm số trên đồng biến khi x>0 và nghich biến khi x < 0. D. Hàm số trên đồng biến khi x< 0 và nghịch biến khi x > 0. - Dạng 2: Vẽ đồ thị Bài tập 1: a) Vẽ đồ thị các hàm số sau trên cùng một hệ trục tọa độ y = 2x; y = x+1 b) Vẽ đồ thị các hàm số sau trên cung một hệ trục tọa độ y = x+2 ; y = x2 c) Cho các hàm số sau: y = 2mx – m -2 và y = (m-1)2 Vẽ đồ thị các hàm số trên khi m = 2 - Dạng 3: Tìm tọa độ giao điểm + Cách 1: Bằng đồ thị + Cách 2: bằng lập luận, tính toán Bài tập 1: Tìm tọa độ giao điểm của các hàm số sau a) y = x ; y = 2x -3 b) y = x2 và y = 2x +3 Bài tập 2: Cho hàm số y = x2 có đồ thị là parabol(P) và hàm số y = x+2 có đồ thị là đường thẳng d. - Vẽ đồ thị hai hàm số đã cho trên cùng một hệ trục tọa độ - Gọi A và B là giao điểm của d và (P). Tính diện tích tam giác OAB. Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu,kém khong nên ra quá nhiều và khó,các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra,chấm,chữa và cho điểm để động viên,khuyến khích các em. Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức mình,các em yếu kém sẽ tự tn hơn,không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã.Sự tự tin giúp các emcos thể leo hết các nấc thang dành cho mình.Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại. * Giúp đỡ học sinh rèn luyện kỹ năng,thái độ và phương pháp học tập phù hợp Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa đọc kỹ,thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập,đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài,trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả,viết nháp lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập toán: - Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập. - Trước một bài tập cần đọc kĩ đầu bài,vẽ hình rõ ràng,viết nháp cẩn thận. 13 - Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức ( tốt nhất là bằng bảng hoặc sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải quyết một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập. Chính vì những lý do như vậy nên người giáo viên cần tìm hiểu,phân tích,tìm ra nguyên nhân học yếu của từng học sinh để có biện pháp khắc phục hợp lý và hiệu quả,kiên trì động viên học sinh,giúp đỡ các em từng bước có niềm tin vào mình,từ đó có thái độ và phương pháp học tập đúng đắn. Giáo viên cần cung cấp cho học sinh các kiến thức sơ đẳng về cách thức học tập như: Phải nắm vững lý thuyết mới tiến hành làm bài tập,cần phải đọc kĩ đề bài,phân tích các yêu cầu của bài toán.Đối với hình học phải vẽ hình sáng sủa,đúng và rõ ràng.Phải nắm được các định nghĩa,tính chất,định lý liên quan đến bài tập đó,phải biết được đâu là giả thiết,đâu là kết luận của bài toán....Thì mới tìm ra cách làm.Đối với đại số thì phải nắm được công thức,quy tắc tính toán. Khi làm bìa phải làm nháp,viết nháp rõ ràng.Đây là điều mà đa số học sinh yếu không bao giờ thực hiện. Bên cạnh đó người giáo viên cần chú trọng dạy cho học sinh biết rèn luyện tính tự giác học tập- đó là việc tự học ở nhà.Thực chất việc rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Theo giáo sư Nguyễn Hải Châu(Vụ giáo dục trung học) thì: “ Trong các phương pháp học tập mang lại hiệu quả cao thì cốt lõi là phương pháp tự học.Nếu rèn luyện cho học sinh được phương pháp,kỹ năng,thói quen,ý chí tự học thì sẽ tạo cho học sinh lòng ham học,khơi dậy nội lực vốn có của mỗi học sinh,kết quả học tập sẽ tăng lên gấp bội,tạo ra sự chuyển biến từ học tập thị động sang học tập chủ động”.Vì vậy rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh được coi là một tiêu chí quan trọng và cần thiết để khắc phục tình trạng học sinh học yếu,không chỉ là môn Toán mà là tất cả các môn học. * Tích cực hóa hoạt động nhóm Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp mới,giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ băn khoăn kinh nghiệm của bản thân và cùng nhau xây dựng kiến thức mới. Bằng cách thảo luận,học sinh có thể nói ra điều mình đang nghĩ,từ đó mỗi học sinh nhận thức rõ được trình độ hiểu biết của mình về vấn đề được nêu ra,thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Trong phương pháp này,thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của các thành viên,nó là bước trung gian giữa sự làm việc độc lập của từng học sinh với sự làm việc chung của cả nhóm. Khi phân nhóm học tập,giáo viên cần chú ý đến sự đồng bộ giữa các nhóm phải có đủ các đối tượng học sinh giỏi,khá,trung bình,yếu để các em có thể phát huy hết năng lực của bản thân mình.Sự phân nhóm không nên cứng nhắc,không phải lúc nào cũng là chia theo bàn mà cũng có khi để các em tự chọn nhóm học tập cho mình. Sau mỗi nội dung đã giảng giải,thông qua các kiến thức đã cung cấp,giáo viên có thể định hướng cho học sinh cách giải quyết vấn đề cần thảo luận,cần thực hành hay tính toán. Tôi nhận thấy theo phương pháp này,học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo,thông qua đó học sinh sẽ tự khám phá được những điều mình chưa rõ mà không phải thụ động tiếp thu những tri thức do giáo viên sắp đặt.Hơn nữa,được trực tiếp thảo luận,học sinh sẽ nắm được kiến thức mới,kỹ năng mới.Tuy nhiên cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng,cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học,hoạt động nhóm càng nhiều thì thì phương pháp dạy học càng đổi mới là sai lầm. 14 Theo tôi để đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhóm thì phương tiện nhất thiết phải có là bảng phụ nhóm. Vì qua đó,học sinh được theo dõi một cách trực tiếp,được đóng góp ý kiến và công sức của mình vào bài tập của nhóm mình,từ đó các em sẽ có hứng thú học tập.Khi báo cáo kết quả của nhóm,giáo viên nên khuyến khích các em mà có lực học yếu hơn mà đã nắm bắt được vấn đề lên trình bày chứ không nhất thiết phải là em nhóm trưởng. * Giúp đỡ học sinh yếu ngoài giờ lên lớp. Giáo viên nên chủ động gặp từng phụ huynh học sinh để trao đổi về việc của học sinh cùng với phụ huynh tìm ra giải pháp tối ưu nhất để các em tiến bộ.Kinh nghiệm cho thấy,càng cá nhân hóa triệt để càng tốt,giáo viên làm việc với nhóm độ 1-2 học sinh thì hiệu quả cao hơn với số lượng đông. Tôi nhận thấy học sinh càng yếu thì càng phải có hướng giúp đỡ càng nhiều.Ngoài giờ dạy trên lớp giáo viên phải dành riêng thời gian để quan tâm đến đối tượng học sinh yếu bằng cách dạy phụ đạo riêng.nếu có nhiều học sinh yếu thì có thể phân công các khá,giỏi trong lớp có trách nhiệm giúp đỡ bạn yếu bằng hình thức khuyến khích các em thực hiện tốt phong trào học tập chung của cả lớp nhưng giáo viên vẫn phải quan tâm đến những học sinh yếu này để giúp các em ngày càng tiến bộ. PHẦN IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM GIẢI PHÁP MỚI Qúa trình thực hiện nêu trên đối với học sinh khối 9 ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm. Những năm trước đây khi còn chưa sử dụng phương pháp mới mỗi lớp có tới 3540% học sinh yếu kém.Nhưng nay với cách làm này năm học vừa qua chỉ còn 1520% học sinh yếu,không có học sinh kém. Hơn thế nữa qua cách làm này,các em rất hứng thú và yêu thích môn toán hơn,tự tin hơn trong học tập. Sau đây là một số kết quả cụ thể số liệu thống kê của lớp tôi giảng dạy năm học 2011-2012 - Kết quả khảo sát chất lượng môn toán đầu năm học 2011-2012 Lớp Sĩ số 9C 35 9E 30 Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu Điểm kém 0/35 0/35 02/35 01/35 15/35 10/30 10/35 12/30 8/35 7/30 Bằng việc áp dụng các giải pháp để bồi dưỡng học sinh yếu kém đã trình bày trên đây,kết hợp với những phương pháp dạy học mới,cùng với sự nỗ lực của thầy và trò nên chất lượng học tập đã có sự chuyển biến rất khả quan. Điều đó thể hiện qua bảng khảo sát sau: - Kết quả điểm thi môn Toán học kì I năm 2011 – 2012 Lớp Sĩ số 9C 35 9E 30 Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu Điểm kém 1/35 1/35 02/35 01/35 20/35 15/30 07/35 10/30 05/35 03/30 15 - Kết quả điểm thi môn Toán học kì II năm học 2011-2012 Lớp Sĩ số 9C 35 9E 30 Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu Điểm kém 02/35 01/35 07/35 05/35 21/35 16/30 05/35 06/30 0/35 0/30 Ngoài các kết quả cụ thể về học tập nêu trên tôi còn theo dõi ý thức học tập của các em và thấy được rằng :các em học sinh lớp 9 nói chung và các em học sinh hcoj yếu môn Toán nói riêng đã phần nào xóa bỏ được rào cản về phương pháp cũng như cách thức học tập.Các em đã tự tin hơn khi tham gia học các tiết toán cũng như làm các bài toán,bài kiểm tra hay các bài tập mà được giao về nhà. Một số em đã mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình khi học trên lớp.Quan trọng hơn cả là các em học sinh yếu đã phần nào nắm đước các kiến thức sơ đẳng về cách thức học tập bộ phải nắm vững lý thuyết mới tiến hành làm bài,cần học tâp bộ môn như: cần đọc kĩ đề bài,phân tích các yêu cầu của bài toán. Đối với hình học phải vẽ hình sáng sủa,đúng và rõ ràng. Phải nắm được các định nghĩa,tính chất,định lý liên quan đến bài tập đó....Đây là những điều mà đa số học sinh yếu trước kh tôi gnhien cứu không bao giờ thực hiện. Các kết quả trên đây cho thấy kết quả học tập của học sinh học yếu ngày càng được nâng lên và hơn nữa nó cho thấy các giải pháp này không những áp dụng được cho đối tượng học sinh lơp 9 mà có khả năng áp dụng cho học sinh các khối lớp khác. PHẦN IV: KẾT LUẬN 1. Bài học kinh nghiệm Với mục đích khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán nói chung và học sinh họ yếu môn toán lớp 9 nói riêng tại đơn vị công tác của mình tôi áp dụng các giải pháp nêu trên gồm: A. Giải pháp tâm lý B. Giải pháp dạy học - tạo tiền đề xuất phát - lấp lỗ hổng kiến thức - luyện tập vừa sức - Giúp đỡ học sinh về thái độ và phương pháp học tập - Tích cực hóa hoạt động nhóm - giúp đỡ học sinh yếu ngoài giờ lên lớp 2. Kiến nghị và đề xuất Do điều kiện công tác nên tôi mới chỉ áp dụng được giải pháp này ở trương THCS Hợp Thanh trong năm học 2011-2012 đối với 2 lớp 9.Kết quả đạt được đã có song mới đạt được những kết quả ban đầu và chưa đạt được đích cuois cùng như giải pháp mong muốn.tuy nhiên để thay đổi được tình trạng học sinh học yếu môn toán,để đưa các em hòa nhịp với các bạn khác trong lớp không phải một sớm ,một chiều mà làm được nhất là đối với các em vùng xâu,vùng xa,vùng khó khăn này. Nhung tôi tin rằng với các giải pháp trên sẽ phần nào giúp học sinh khắc phục được tình trạng học yếu môn toán và có phương pháp học tập đúng đắn không những riêng bộ môn toán mà cho tất cả các môn học khác,không chỉ cho các em học sinh lớp 9 mà cả các em học sinh khói khác nữa. 16 Kết quả thu được có thể chưa cao vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như sự phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp,với phụ huynh học sinh... nhưng tôi tin rằng vơi phương pháp dạy như trên chắc chắn học sinh sẽ tiến bộ hơn và ngày càng yêu thích học môn toán. Với khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế,tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của tổ chuyên môn,sự góp ý của đồng nghiệp để giải pháp được hoàn thiện hơn. Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần: - Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối tượng học sinh yếu kém. - Có kế hoạch phụ kém kịp thời - nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài giờ chính khóa và đặc biệt tăng cường các buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém - tăng cường phối hợp giữa gai đình với nhà trường,giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. - Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ giúp nhau học tập... C KẾT LUẬN Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu,kém học tốt mon toán là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương,một chút hy sinh và có tinh thần trách nhiệm. Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm,hy sinh cao cả cảu người thầy tất că vì tương lai các em.Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phái lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục. Mỗi người thầy có một cách làm riêng,song với cách làm nêu trên, với thành công ban đầu thiết nghic đó là một kết quả đáng phấn khởi đói với người thầy dạy toán. Việc làm này không dễ thành công trong ngày một,ngày hai mà là sự cố gắng bền bỉ và tận tụy thì mới mang lại kết quả tốt. Với vốn kiến thức của mình còn hạn chế,bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn,nên không tránh khỏi những hạn chế,khiếm khuyết. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý,bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi ngày càng phong phú và hữu hiệu hơn. 3 17 MỤC LỤC Phần 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Phần 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN Phần 3: CƠ SỞ THỰC TIỄN 1 . GIÁO VIÊN 2học sinh 2. Phụ huynh học sinh 3. bộ môn toán Phần iv: GIẢI PHÁP 1Giải pháp tâm lý 2. Giải pháp dạy học Phần V: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM GIẢI PHÁP Phần VI: KẾT LUẬN 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. phan Đức Chính- Tôn Thân: SGK toán 9 NXBGD 2. thiết kế bài giảng toán 9 tập 1,2 – NXBHN 3. SGV toán 9 tập 1,2 NXBGD 4. Nhóm tác giả: lê Văn Hồng- Phạm Đức Quang- Nguyễn Thế Thạch- Nguyễn Duy Thuận- tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III(2004-2007),NXB Giáo dục 2007 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan