Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phi tập trung ở...

Tài liệu Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phi tập trung ở việt nam

.PDF
77
207
120

Mô tả:

Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán là nơi luân chuyển và phân bổ các nguồn vốn từ khu vực có lợi nhuận thấp sang khu vực có lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho các nguồn vốn được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Do đó, khi vốn đã trở thành một loại hàng hoá đặc biệt, phát triển thị trường chứng khoán là việc rất cần thiết để phát triển nền kinh tế hàng hoá. Thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển bắt đầu từ nhu cầu tự phát về trao đổi và sau đó được phát triển với quy mô lớn dần về phương thức giao dịch, quản lý cũng ngày càng chặt chẽ hơn. Thị trường chứng khoán bao gồm hai loại thị trường: thị trường giao dịch các loại chứng khoán được cấp giấy phép niêm yết (thị trường chứng khoán tập trung) và thị trường giao dịch các chứng khoán của công ty vừa và nhỏ không hoặc chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung (thị trường giao dịch phi tập trung). Sự kết hợp giữa hai loại thị trường này sẽ tạo thành một hệ thống thị trường chứng khoán khá hoàn chỉnh, rộng lớn, sôi động và linh hoạt. Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán tập trung (Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh) đã đi vào hoạt động được 8 năm; hàng hoá trên thị trường tuy đã được bổ sung nhưng vẫn còn khá nghèo nàn; các điều kiện chặt chẽ còn là những cản trở lớn đến việc được tham gia niêm yết khi đại bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước trong diện cổ phần hoá đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là rất cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các công ty vừa và nhỏ, các công ty mới thành lập có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đồng thời cung cấp thêm các loại công cụ đầu tư đa dạng cho các nhà đầu tư, tạo cơ chế giao dịch linh hoạt, chi phí thấp và tạo cơ chế định giá mới để góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 1 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Xuất phát từ những đòi hỏi cấp thiết của thực tế, với sự cố gắng học hỏi của bản thân và được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo đặc biệt là Th.sĩ Nguyễn Thanh Phương, em chọn đề tài “Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam” nhằm mục đích nghiên cứu và rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc thành lập thị trường chứng khoán phi tập trung của một số nước trên thế giới qua đó lựa chọn một mô hình và các giải pháp thích hợp cho việc thành lập thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam. Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo được chia làm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về OTC Chương II: thực trạng hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam và kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới Chương III : Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Em xin chân thành cảm ơn Th.sĩ Nguyễn Thanh Phương và các anh chị tại công ty chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã trực tiếp hướng dẫn em làm đề tài này. Với kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên Báo cáo không tránh khỏi những thiếu sót, em mong thầy cô giáo cùng các bạn đọc góp ý kiến bổ sung cho Báo cáo được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Nguyễn Hoàng - CKB - K7 2 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ OTC I.CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG OTC: Thuật ngữ OTC - nghĩa là giao dịch “ngoài quầy” theo cách diễn đạt nguyên thuỷ - xuất hiện khi các chứng khoán vẫn còn được giao dịch một cách thủ công. Ngày nay, nhờ sự phát triển của kỹ thuật truyền thông và vi xử lý, thị trường OTC hiện đại đã thoát ly xa khỏi các quầy và hoạt động theo một cơ chế được tổ chức với sự trợ giúp về kỹ thuật điện tử rất tinh vi, có khả năng kết nối trên quy mô rộng lớn giữa các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán với nhau, nhưng thuật ngữ OTC vẫn được dùng để mô tả các hoạt động mua bán các chứng khoán không được tham gia trên sở giao dịch. Do đó, theo cách hiểu thông dụng nhất hiện nay thì thị trường OTC được tổ chức bao gồm một mạng lưới các tổ chức trung gian môi giới và tạo lập thị trường, các tổ chức này được kết nối với nhau và kết nối với trung tâm quản lý thông qua một mạng máy tính điện tử diện rộng. Các công ty chứng khoán sẽ liên tục đưa lên mạng báo giá hai chiều và khối lượng chứng khoán tối đa có thể thực hiện mua hoặc bán. Với mạng lưới này, các công ty chứng khoán cũng có thể thực hiện việc đàm phán, thương lượng giá và khối lượng giao dịch trên cơ sở báo giá, thông báo về kết quả giao dịch cho trung tâm quản lý, trung tâm thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán. Cơ chế thiết lập giá trên thị trường này chủ yếu là theo thoả thuận, mua bán phi tập trung tại nhiều địa điểm đồng thời vẫn được quản lý, giám sát tốt. Như vậy, thị trường OTC là một thị trường có tổ chức và hoạt động theo các quy định của pháp luật, nó khác biệt hoàn toàn so với thị trường “chợ đen” - là thị trường tự phát và không có điều chỉnh của pháp luật. Có thể nói thị trường OTC có một số đặc điểm sau: Nguyễn Hoàng - CKB - K7 3 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam - Các giao dịch có thể được tiến hành ở mọi nơi do thị trường OTC không có sàn giao dịch tập trung hay có thể nói các giao dịch được tiến hành thuận lợi hơn so với giao dịch trên TTGDCK. - Các giao dịch có thể được tiến hành trực tiếp giữa người mua và người bán dựa trên sự thương lượng về giá cả, số lượng và phương thức thanh toán. - Tại cùng một thời điểm có thể tồn tại nhiều mức giá đối với một cổ phiếu đặc thù do các giao dịch có thể được tiến hành một cách riêng rẽ tại các quầy của các công ty chứng khoán khác nhau. - Thị trường OTC không giới hạn số lượng thành viên giao dịch như trên SGDCK. Tuy nhiên, thị trường OTC được phát triển thành một hệ thống có tổ chức và gần giống với SGDCK ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản. Thị trường chứng khoán phi tập trung có mối liên hệ chặt chẽ với Sở Giao dịch chứng khoán. Trong các giai đoạn phát triển ban đầu, thị trường OTC có chức năng như là một nhánh của Sở Giao dịch chứng khoán. Trong quá trình phát triển, nó sẽ vừa có sự cạnh tranh (nhưng không loại trừ) và vừa có sự hợp tác liên hệ với SGDCK để có thể tương trợ lẫn nhau phát triển và góp phần lớn đến sự phát triển về số lượng và chất lượng của thị trường vốn. Có thể khái quát các chức năng của thị trường OTC như sau: - Đóng vai trò chuẩn bị ban đầu cho Sở Giao dịch chứng khoán, cung cấp các cổ phiếu không niêm yết với khả năng thanh khoản cao và giới thiệu các cổ phiếu đã hội đủ các tiêu chuẩn niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán. - Đóng vai trò bổ trợ cho SGDCK thông qua việc cung cấp các lô lẻ cổ phiếu, đình chỉ và tạm ngưng giao dịch các cổ phiếu. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 4 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam - Cùng với Sở Giao dịch chứng khoán, giữ cho giá cả dao động ở mức thấp nhất thông qua việc kiểm tra chéo thông tin giá cả của các cổ phiếu. II. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA OTC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 1. Những tác động tích cực của OTC Thị trường chứng khoán (Thị trường chứng khoán tập trung và thị trường OTC) là một thể chế tài chính bậc cao mà hoạt động của nó thông qua các giao dịch cụ thể là mua bán, trao đổi cổ phiếu, trái phiếu với nhiều loại hình khác nhau, phù hợp với tâm lý muôn vẻ của người dân, qua đó cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, ngân hàng và Chính phủ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư và phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán ra đời là một bước phát triển cao và hoàn thiện của thị trường vốn, đồng thời nó cũng trở thành một công cụ quan trọng của thị trường vốn. Công cụ này có những lợi thế rất căn bản so với các công cụ khác (thị trường ngầm hoặc thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng), cụ thể là: Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường OTC có tính thanh khoản rất cao nên việc hình thành thị trường này sẽ thoả mãn được nhu cầu của người có vốn và người cần có vốn. Tâm lý của người có vốn là muốn để vốn ở nơi vừa có thể sinh lợi nhuận cao nhưng lại vừa có thể dễ dàng rút vốn về khi cần thiết. Còn người cần có vốn lại muốn huy động vốn với thời hạn dài, ổn định và với chi phí thấp. Nếu gửi ngân hàng thì các yêu cầu trên không thể thoả mãn được cùng một lúc. Song, nếu mua chứng khoán trong điều kiện đã có thị trường chứng khoán, nhất là thị trường OTC, thì hai yêu cầu trên sẽ được thoả mãn: người sử dụng vốn có thể mua chứng khoán, khi cần tiền mặt có thể bán chúng vào bất kỳ lúc nào mà không ảnh hưởng gì đến người sử dụng vốn. Ngoài ra, trong quá trình vận hành của nền kinh tế, luôn xuất hiện một số quỹ có vốn bằng tiền tạm thời nhàn rỗi như quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi, Nguyễn Hoàng - CKB - K7 5 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam quỹ tương hỗ. Hoạt động tách biệt giữa các khoản thu và chi của các loại quỹ này đã dẫn đến việc thường xuyên có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi. Để tránh tình trạng “vốn chết” trong qúa trình vận hành, các tổ chức quản lý quỹ này thường gửi vào ngân hàng lấy lãi hoặc tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán, nhằm tạo ra khả năng sinh lời cao hơn. Thị trường OTC tạo ra nhiều cơ hội đầu tư khác nhau, với những mức độ rủi ro khác nhau, có thể thoả mãn được yêu cầu của tất cả các đối tượng trong xã hội. Các công ty vừa và nhỏ có thể tham gia huy động vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh v.v trong khi các nhà đầu tư (người có vốn) cũng tiếp cận nhanh hơn với các đối tượng cần vốn và cơ chế giải phóng vốn thông thoáng, dễ dàng hơn. Đó là vì các công cụ thị trường chứng khoán rất đa dạng với nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu khác nhau (cả về thời gian, tính chất và mức độ an toàn cũng như quy mô). Thị trường OTC cùng với thị trường chứng khoán tập trung tạo thành một hệ thống đánh giá giá trị doanh nghiệp và nền kinh tế một cách tổng hợp nhất, chính xác nhất (kể cả giá trị vô hình và hữu hình) thông qua cung cầu, giá cả và chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó cũng tạo ra môi trường cạnh tranh rất mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. So với thị trường chứng khoán tập trung, thị trường OTC có cơ chế rộng mở hơn nên cũng dễ dàng huy động vốn hơn và tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường này cũng cao hơn. Thông qua cơ chế hoạt động của thị trường OTC, Chính phủ cũng có thể huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho chương trình phát triển kinh tế. Ở nhiều nước có thị trường chứng khoán phát triển, các chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung thì cũng được tham gia vào thị trường OTC, nhất là các chứng khoán của Chính phủ (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương...). Nguyễn Hoàng - CKB - K7 6 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào các chính sách và các biện pháp kinh tế của Chính phủ. Ngân sách Nhà nước càng lớn mạnh thì khả năng thực hiện các mục tiêu, chiến lược kinh tế càng dễ dàng. Thông tin qua thị trường chứng khoán, Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức của Chính phủ có thể phát hành các loại trái phiếu Nhà nước bán cho các hộ gia đình, các tổ chức kinh tế xã hội để có tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách hoặc có vốn để xây dựng các công trình công cộng, các dự án của Nhà nước... Các doanh nghiệp nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì cũng có thể phát hành trái phiếu để vay vốn trên thị trường sơ cấp là nơi làm tăng thêm vốn đầu tư cho nền kinh tế từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế (trong nước và nước ngoài) mà không làm tăng thêm lượng tiền trong lưu thông. Cũng như thị trường chứng khoán tập trung, thị trường OTC cũng là một trong những công cụ kiểm soát và huy động các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Trên thực tế, các khoản vốn đầu tư từ nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất kinh doanh, và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình này nếu như không có TTCK thì sẽ không phát huy hết được hiệu quả của nó. Bản thân các nhà đầu tư nước ngoài khi xem xét về khía cạnh môi trường đầu tư, họ thường tính đến khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi thấy cần thiết và điều đó chỉ có thể thực hiện được khi có thị trường chứng khoán, nơi luôn tạo ra sự chu chuyển cho các luồng vốn đầu tư Nguyễn Hoàng - CKB - K7 7 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam (chuyển hoá tư bản từ trạng thái này sang trạng thái khác) và cung cấp các thông tin một cách chính xác nhất để tìm hiểu các đối tác đầu tư. Việc tham gia của nhà đầu tư nước ngoài còn được thể hiện thông qua việc mua trực tiếp các chứng khoán là các cổ phiểu, trái phiếu của các công ty trong nước và việc tham gia vào các công ty chứng khoán liên doanh hoặc công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Điều này sẽ tạo ra tính sôi động của thị trường trên cơ sở chứng khoán hoá các tài sản và nợ cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khả năng xâm nhập cũng như vươn ra thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp trong nước và tạo ra khả năng kiểm soát việc tham gia sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài... Bên cạnh việc tạo ra sân chơi cho các công ty vừa và nhỏ không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên SGDCK, thị trường OTC cũng tạo tiền đề cần thiết để các chứng khoán hội đủ các điều kiện sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. 2. Những mặt hạn chế của OTC Thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu mà hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều sử dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nó cũng có những nét hạn chế nhất định, có thể gây ra những hậu quả khó có thể lường hết được, làm ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, người ta thường ví thị trường chứng khoán như con dao hai lưỡi, biết sử dụng thì sẽ mang lại rất nhiều sự tiện lợi nhưng ngược lại không biết cách sử dụng và phát huy hiệu quả thì có thể gây rối loạn trong nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn mở cửa hội nhập hiện nay, nó có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính mang tầm quốc gia, khu vực và thế giới. Trong đó, những biểu hiện tiêu cực trên thị trường chứng khoán thường thấy như: Nguyễn Hoàng - CKB - K7 8 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ. Đây là yếu tố rất khó kiểm soát trên SGDCK và lại càng khó kiểm soát hơn trên thị trường OTC. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng giá sẽ tăng lên trong tương lai và qua đó thu lợi nhuận. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng đột biến và giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra và trở nên rất nguy hiểm khi có nhiều người cấu kết với nhau để đồng thời mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó. Sự cấu kết giữa những người đầu cơ đó sẽ tạo ra một sự khan hiếm hay thừa thãi giả tạo làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột ngột, gây nhiều tác động tiêu cực đến thị trường. Hiện tượng giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán. Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt, tiếp xúc được với những thông tin nội bộ cũng như các thông tin quan trọng khác, không được phép công bố của doanh nghiệp và sử dụng các thông tin đó cho giao dịch nhằm thu lợi bất chính thì được gọi là giao dịch nội gián. Thị trường chứng khoán là nơi chứa đựng các thông tin nhiều chiều, trong đó có các thông tin từ nội bộ công ty cũng như các thông tin từ sở giao dịch, có thông tin chính thức được phổ biến và có thông tin chưa được phép phổ biến. Hoạt động giao dịch nội gián được xem là một hành động phi đạo đức về mặt thương mại, vì một số người sử dụng các thông tin không được công bố để trục lợi và hành động này đã đi ngược với nguyên tắc của thị trường là các nhà đầu tư đều có quyền bình đẳng và công khai thông tin như nhau. Luật pháp về thị trường chứng khoán đã có những điều khoản nghiêm cấm về hành vi giao dịch nội gián. Ở Việt Nam, việc mua bán nội gián cũng là một hành vi bị cấm. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 9 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Thông tin sai sự thật: Việc thông tin sai sự thật về hoạt động của công ty cũng như các chứng khoán giao dịch trên thị trường, tạo ra sự hoảng loạn của thị trường, dẫn đến tình trạng bán ồ ạt một loại chứng khoán nào đó với giá quá thấp làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó phục vụ cho mục tiêu, ý đồ phá hoại công ty hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp để nắm giữ , thao túng hoặc thâu tóm công ty. Việc phao tin đồn gây bất lợi cho các nhà đầu tư chân chính thường được gắn liền với các hoạt động như đầu cơ, trục lợi, lũng đoạn thị trường. Ngoài ra, cũng cần xét đến yếu tố chính trị tác động bên ngoài do phá hoại thị trường và biến động dây chuyền từ các Sở Giao dịch chứng khoán. Thông tin sai sự thật cũng là một trong các hành vi bị cấm trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Dễ huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây nên khủng hoảng thị trường: Cơ chế vận hành thị trường chứng khoán cho phép các nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư một cách nhanh chóng, tuy nhiên các đối tượng đầu tư cũng hàm chứa một tính lỏng rất cao (việc rút vốn nhanh), nhất là trên thị trường OTC. Chính vì điều này, nhiều lúc đã gây nên những tác hại không thể lường trước đối với thị trường. Khi một lĩnh vực đầu tư nào đó có xu thế cao, nhiều khi giá chứng khoán được đánh giá cao hơn rất nhiều so với giá trị thực. Tuy nhiên, khi có những xu hướng biến động bất lợi có ảnh hưởng đến giá chứng khoán, các nhà đầu tư lại bán tống, bán tháo các loại chứng khoán nhằm thu hồi vốn, bảo vệ lợi ích đầu tư và đồng vốn, điều này trong thực tế đã gây ra không ít trường hợp làm thị trường hoảng loạn và có thể dẫn đến sụp đổ. Bài học thực tế qua ba lần khủng hoảng thị trường chứng khoán quốc tế (1929, 1987 và 1997) là một minh chứng điển hình cho việc rút vốn ồ ạt dẫn đến khủng hoảng thị trường chứng khoán. IV. CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA OTC Nguyễn Hoàng - CKB - K7 10 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Về bản chất, chứng khoán là “tư bản giá”, khác hẳn so với các loại hàng hoá thông thường khác, do đó, thị trường chứng khoán là một loại thị trường đặc biệt, tuy có rất nhiều người tham gia nhưng lại có rất ít người có khả năng phân tích và xác định được giá cả của chứng khoán trên thị trường, nhất là đối với thị trường OTC. Chính vì vậy, mọi sự cấu kết hoặc mua bán nội gián xảy ra sẽ gây tác hại rất lớn cho người đầu tư và cho nền kinh tế. Để hạn chế khiếm khuyết trên, tất cả các thị trường OTC đều đưa ra những nguyên tắc hoạt động. Trong đó, có một số nguyên tắc đã được tiêu chuẩn hoá và trở thành chuẩn mực quốc tế, đó là: 1. Nguyên tắc công khai Tất cả các hoạt động trong lĩnh vực phát hành chứng khoán ra công chúng và kinh doanh chứng khoán trên OTC đều phải công khai. Công khai về hoạt động của nhà phát hành, công khai về các loại chứng khoán được chào bán, chào mua, công khai về giá cả, số lượng chứng khoán được mua, bán.. . Bản thân các công ty có chứng khoán niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin theo định kỳ, tức thời và thông tin theo yêu cầu một cách trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư, ví dụ trong trường hợp công ty phát hành có những thay đổi như: Thay đổi tên hay địa chỉ của trụ sở chính; tăng hay giảm vốn; Khi hoá đơn, séc đã phát hành hết hạn hay khi các giao dịch với ngân hàng bị đình chỉ; Khi các vụ kiện tụng ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc quản lý công ty, ảnh hưởng không tốt đến công ty; Sát nhập với một công ty khác; Các hoạt động kinh doanh bị đình chỉ... Ngoài ra các tổ chức phát hành phải nộp các báo cáo định kỳ như báo cáo kinh doanh, báo cáo kiểm toán, danh sách cổ đông. 2. Nguyên tắc trung gian Giao dịch mua bán chứng khoán qua thị trường OTC cũng tuân theo các nguyên tắc chung về thị trường chứng khoán đó là phải qua các trung Nguyễn Hoàng - CKB - K7 11 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam gian thị trường, tức là qua các công ty môi giới chứng khoán; còn giá giao dịch được hình thành theo nguyên tắc thoả thuận. Nguyên tắc trung gian là căn bản cho việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán (thị trường chứng khoán tập trung và thị trường OTC). Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực, thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ được lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Bởi lẽ, trong số các nhà đầu tư chứng khoán không phải ai cũng hiểu biết và nhận thức được hết tính chất phức tạp của chứng khoán. Chính vì vậy, nếu không có những người môi giới chứng khoán có kỹ năng phân tích dựa trên những căn cứ xác đáng một cách kỹ lưỡng, thì người đầu tư có thể bị nhầm lẫn hoặc bị lừa gạt. Nguyên tắc trung gian trong giao dịch chứng khoán được thể hiện thông qua các nhà môi giới và các nhà kinh doanh chứng khoán. Đối với các nhà môi giơí trung gian, họ được hưởng hoa hồng trên cơ sở môi giới giao dịch cho khách hàng. Khách hàng có thể sử dụng hoàn toàn các dịch vụ từ nhà môi giới (môi giới trọn gói), trên cơ sở các nhà môi giới cung cấp đầy đủ các dịch vụ có liên quan đến chứng khoán cho khách hàng, như đại diện cho khách hàng để thương lượng, mua bán chứng khoán, thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến chứng khoán, nhận chi trả cổ tức cho khách hàng, và có thể đáp ứng cho khách hàng trong các nghiệp vụ mua trước, bán sau (giao dịch bảo chứng), hoặc liên quan đến vấn đề tư vấn, lựa chọn đầu tư vào các loại chứng khoán. Ngoài ra các trung gian môi giới cũng có thể chỉ nhận môi giới một phần dịch vụ các nhà đầu tư yêu cầu, như việc chỉ làm trung gian mua bán một số loại chứng khoán nào đó mà thôi. Đối với các nhà kinh doanh chứng khoán, đó là những trung gian giao dịch trên thị trường, nhưng không phải môi giới giao dịch cho khách hàng mà cho chính bản thân họ (tự doanh), chính bằng nguồn vốn đầu tư của họ, để Nguyễn Hoàng - CKB - K7 12 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam hưởng mức chênh lệch giá trong quá trình kinh doanh. Quá trình giao dịch cho bản thân, các nhà kinh doanh chứng khoán với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận, nên có thể gây ra các hiện tượng đầu cơ, thao túng, làm sai lệch giá cả, gây ra biến động giá chứng khoán. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh chứng khoán này vừa có thể là các nhà giao dịch tự doanh, vừa là các nhà tạo lập thị trường. Khi cung chứng khoán lớn hơn cầu, giá hạ, họ sẽ là người mua vào, và ngược lại khi cầu chứng khoán lớn hơn cung họ sẽ là người bán ra, nhằm mục đích bảo đảm cho thị trường được vận hành liên tục và không bị gián đoạn. Do vậy, trong cơ cấu của thị trường chứng khoán không thể thiếu các nhà kinh doanh chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường. 3. Nguyên tắc thực hiện công bằng Các chuyên gia chứng khoán và các nhà tạo lập thị trường trên thị trường OTC đều là những người được tiếp cận với các thông tin đặc biệt do họ thường xuyên tiếp cận trực tiếp với các thông tin trên sổ lệnh, vì vậy họ có nhiều khả năng là những đầu mối làm “rò rỉ” thông tin khi có sự biến động thị trường. Nếu không bị cấm, các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường có thể sử dụng các thông tin này (bao gồm các thông tin nội bộ) để thực hiện kinh doanh cho chính mình nhằm thu lợi nhuận. Do vậy, những đối tượng này thường bị kiểm soát rất chặt chẽ và đều phải khách quan, công bằng đối với tất cả các khách hàng. V. CÁC ĐỐI TƯỢNG THAM GIA OTC Những nguyên tắc hoạt động trên đòi hỏi việc mua bán chứng khoán trên thị trường OTC không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa người mua và người bán, mà phải có sự tham gia của một số đối tượng khác, trước hết là người làm trung gian, môi giới và người tổ chức việc mua bán, định giá. Đồng thời, để đảm bảo sự an toàn của thị trường, sự tham gia, quản lý giám sát của Nhà nước đối với thị trường chứng khoán là hết sức quan trọng. Như Nguyễn Hoàng - CKB - K7 13 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam vậy, có thể thấy thị trường OTC bao gồm một số đối tượng tham gia cơ bản như sau: 1. Hàng hoá cho thị trường Việc buôn bán chứng khoán trên các SGDCK bị giới hạn trong những chứng khoán của các công ty lớn với những điều kiện niêm yết quy định khá chặt chẽ.Còn thị trường OTC tiến hành buôn bán nhiều loại chứng khoán khác nhau, bao gồm: các cổ phiếu của các công ty cổ phần, công ty bảo hiểm, các chứng khoán của Chính phủ và địa phương, cổ phiếu của các quỹ tương hỗ v.v. Hầu như tất cả các chứng khoán được phát hành đều được buôn bán trên thị trường OTC. Sau đó, một số chứng khoán mới được niêm yết và buôn bán trên các sở giao dịch chứng khoán. Số còn lại sẽ vẫn tiếp tục buôn bán trên thị trường OTC. 2. Các nhà môi giới và các nhà tạo giá Nhà tạo giá, nói chung, là một công ty có hoạt động kinh doanh chứng khoán cho riêng mình (tự doanh) và được công nhận tư cách tạo giá đối với một số lượng chứng khoán nào đó. Ở thị trường sàn giao dịch đó là các chuyên gia trên sàn (specialist) còn trên thị trường OTC, nhà tạo giá là các nhà buôn chứng khoán (dealers) tham gia cung cấp giá rao mua (bid) và chào bán(offer) liên tục cho một chứng khoán đặc thù nào đó. Việc này được gọi là tạo ra một giá thị trường (thuật ngữ: to make a market) cho chứng khoán. Khi đã chào giá như vậy, họ sẽ sẵn sàng thực hiện mua hoặc bán với số lượng được nêu bằng chính tài khoản của công ty họ. Không giống như thị trường sàn giao dịch, nơi mà mỗi chứng khoán chỉ duy nhất có một chuyên gia tạo giá, trong thị trường OTC số lượng nhà tạo giá cho một chứng khoán có thể nhiều hơn. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 14 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Một công ty hay cá nhân muốn làm một nhà tạo giá đối với một chứng khoán nào đó, họ cần phải đáp ứng một yêu cầu tối thiểu về tiêu chuẩn. Trong đó, thường có hai điều kiện tiên quyết là: - Phải đăng ký và đã được công nhận là thành viên của tổ chức chủ quản thị trường OTC. - Phải đáp ứng giá trị vốn thuần tối thiểu đối với từng loại thị trường chứng khoán được giá, đồng thời duy trì mức đó suốt quá trình hoạt động. Sau khi được chấp nhận tư cách một nhà tạo giá, họ còn phải đảm bảo một số chuẩn mực khi đưa ra giá cả cho các chứng khoán mà họ đảm nhận. Yêu cầu cụ thể thường là : - Phải cung cấp liên tục giá nêu từ hai phía mua và bán (two - sided quotations) đối với CK được uỷ nhiệm tạo giá để duy trì thị trường. - Phải sẵn sàng thực hiện giao dịch ít nhất là một đơn vị giao dịch (thường là một lô tròn 100 cổ phần) với giá được nêu của mình. - Phải đảm bảo rằng các giá nêu trên là hợp lý so với giá thị trường của chứng khoán trong cuộc. - Tôn trọng triệt để các giới hạn chênh lệch tối đa cho phép. - Báo cáo hàng tháng các dữ liệu giao dịch và các thông tin khác theo quy định về giao dịch chứng khoán và yêu cầu chủ quản. - Thống kê và báo cáo lượng giao dịch (theo ngày) đối với chứng khoán được tạo giá. - Mẫn cán thực hiện các nhiệm vụ liên tục trong thời gian làm việc hàng ngày. Cơ chế tạo giá đối với một chứng khoán theo cách cùng lúc có sự tham gia của nhiều công ty, cộng với sự tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu trên Nguyễn Hoàng - CKB - K7 15 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam đây, sẽ cung cấp cho thị trường một giá tốt nhất, đảm bảo sự điều hoà liên tục và cần thiết cho thị trường. Trên thị trường OTC, không thể không kể đến vai trò của các nhà môi giới, thông thường những nhà môi giới đăng ký đều là những nhà tạo lập thị trường. Nhà tạo lập thị trường là người thực hiện chức năng duy trì thị trường cho một loại chứng khoán. Chẳng hạn, đối với chứng khoán A là chứng khoán không niêm yết và được mua bán trên thị trường phi tập trung (OTC). Nhà tạo lập thị trường là người đặt ra mức giá bán chứng khoán A cho bên mua với sự thách giá trên cơ sở tương ứng với mức giá mà bên bán (khách hàng của họ) yêu cầu. Sau khi nhà đầu tư đặt lệnh mua bán chứng khoán A trên thị trường OTC, nhà môi giới sẽ chuyển lệnh này tới nhà kinh doanh (thuộc bộ phận kinh doanh của công ty môi giới). Nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm người có thể bán số chứng khoán A (nhà môi giới bên bán). Lúc này, nhà môi giới bên bán đóng vai trò là người tạo lập thị trường cho chứng khoán A. Trên thực tế có nhiều nhà môi giới sẵn sàng bán chứng khoán A và như vậy sẽ có rất nhiều nhà tạo lập thị trường đối với chứng khoán A tương đương với các mức “thách giá” khác nhau. Nhà kinh doanh bắt đầu tiến hành thương lượng về giá cả của chứng khoán A với các nhà tạo lập thị trường để có thể đạt được mức giá tối ưu. Giao dịch sẽ được thực hiện khi nhà kinh doanh tìm được nhà tạo lập thị trường bán số chứng khoán A với mức giá thấp nhất. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà môi giới đã đăng ký đều là những nhà tạo lập thị trường. Để có thể trở thành một nhà tạo lập thị trường thì người môi giới phải thực sự quan tâm đến việc tạo dựng thị trường cho một loại chứng khoán. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 16 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Vai trò của các nhà tạo lập thị trường được thể hiện thông qua các hoạt động sau: - Duy trì tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán khi chứng khoán đó được phát hành ra thị trường; - Tăng khả năng thực hiện giao dịch một loại chứng khoán có thể sinh lời do sự cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau đối với cùng loại chứng khoán đó; - Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tới một loại chứng khoán không niêm yết trên thị trường; - Tăng tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán khi tăng số lượng các nhà tạo lập thị trường; Bên cạnh đó, các nhà tạo lập thị trường có xu hướng cạnh tranh với nhau do luôn có nhiều nhà tạo lập thị trường đối với một loại chứng khoán, do đó thị trường OTC được đánh giá là có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Tham gia mua bán trên thị trường OTC còn có các định chế tài chính, các quỹ đầu tư các công ty bảo hiểm... và giữa các nhà tạo lập thị trường với nhau. 3. Người phát hành chứng khoán Là những người huy động vốn bằng cách in và bán các chứng khoán cho người đầu tư. Thuộc loại này gồm có Chính phủ, các công ty cổ phần và một số tổ chức khác. 4. Người quản lý và giám sát thị trường Là người đảm bảo cho thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư, đảm bảo việc mua bán chứng khoán diễn ra công bằng, công khai, tránh những tình trạng tiêu cực có thể xảy ra. Ở nước ta, việc giám sát và quản lý thị trường chứng khoán do Uỷ Nguyễn Hoàng - CKB - K7 17 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam ban chứng khoán Nhà nước chịu trách nhiệm. Nội dung quản lý Nhà nước về thị trường OTC bao gồm: xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về thị trường chứng khoán và đưa ra các giải pháp cần thiết để đảm bảo thị trường hoạt động tốt: cấp, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép trong lĩnh vực phát hành và kinh doanh chứng khoán. Ngoài các đối tượng trên, trong hoạt động của thị trường OTC còn có các đối tượng hỗ trợ khác như: các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, lưu giữ chứng khoán, sang tên, đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán, trung tâm đào tạo hành nghề chứng khoán... Tất cả các tổ chức này ra đời và phát triển, tạo ra một hệ thống dịch vụ khép kín, phục vụ cho các đối tượng chính trên hoạt động có hiệu quả trên thị trường, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường vốn nói chung phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. VI. GIAO DỊCH TRÊN OTC Đây là vấn đề lớn và chỉ giải quyết được bằng chính khả năng tổ chức và quản lý giám sát, thậm chí bằng tất cả uy tín của tổ chức chủ quản điều hành (ở Mỹ là NASDAQ). Kế đến phải cần sự trợ giúp hiệu quả của các thành tựu về thông tin với các phương tiện trang bị càng hiện đại càng tốt. Do vậy, hiệu quả hoạt động của thị trường OTC sẽ tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức và đóng góp của hệ thống thông tin. Đối với người đầu tư, việc giao dịch cũng gần giống như ở thị trường sàn giao dịch. Thị trường sàn giao dịch có thuận lợi cơ bản là thông tin về giá cả và chứng khoán đã có một nề nếp phổ biến trên nhiều phương tiện, tạo dễ dàng khi cần truy cập. Nhưng đối với thị trường OTC lại có một số điểm khác biệt: Công ty chứng khoán có thể thực hiện lệnh cho khách hàng theo các hình thức sau: Nguyễn Hoàng - CKB - K7 18 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam - Có thể thu xếp để hưởng hoa hồng, tương tự như giao dịch chứng khoán niêm yết trên sàn, trường hợp này họ mua cho tài khoản chung của khách hàng. - Có thể mua vào tài khoản của họ, kê giá lên, rồi bán lại cho khách hàng, theo căn bản tự doanh nếu công ty có chức năng tự doanh. - Hoặc công ty có sẵn chứng khoán tồn kho và muốn bán ra, trường hợp này được xem là bán “có kê giá”, chứ không được coi là thu xếp “ăn hoa hồng”. Khoản kê giá được quy định rõ ràng và chặt chẽ, đó là chênh lệch giữa giá thực (net price) mà khách đầu tư phải trả so với giá thị trường nội bộ tại thời điểm được các nhà tạo giá nêu ra liên tục trong hệ thống báo giá (interdealer offering price). Các công ty chứng khoán không được vừa ăn kê giá vừa hưởng hoa hồng. Luật lệ kinh doanh chứng khoán ở một số nước cũng không cho phép các công ty kinh doanh chứng khoán (dealers) kinh doanh (tự doanh) các loại chứng khoán đã niêm yết (listed) trên sàn giao dịch, ngoại trừ có quy định khác. - Về thủ tục chi phối việc mua bán, giao nhận hàng và tiền cũng được áp dụng thống nhất (giống như cho Sở giao dịch) theo luật lệ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Cách thức mua bán chứng khoán trên thị trường OTC giống như việc mua bán một hàng hoá thông thường. Giả sử nhà đầu tư X cần mua một loại chứng khoán Y được phép giao dịch trên thị trường, nhà đầu tư X sẽ phải đến một công ty thành viên Z trên thị trường OTC để đặt lệnh mua. Nếu Z đang có sẵn các loại chứng khoán Y thì các thủ tục sẽ được tiến hành theo mức giá mà công ty chào bán tại thời điểm đó. Trong trường hợp này Z đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, thực hiện mua, bán cho chính mình và đồng thời cũng tự gánh chịu mọi rủi ro nếu có. Công ty chứng khoán luôn sẵn sàng mua vào, bán ra giống như cửa tiệm vàng và hưởng chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 19 Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam Khoản chênh lệch này co giãn tuỳ theo cung cầu trên thị trường, sự cạnh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường và mức khống chế tối đa của pháp luật theo từng thời kỳ. Trong trường hợp Z không có sẵn các chứng khoán Y mà X đặt mua, các nhân viên của Z sẽ tiến hành truy cập trên mạng máy tính để tìm xem ai đang ở vị thế là nhà tạo lập thị trường đối với chứng khoán Y, tức là người đang có trong tay các chứng khoán Y niêm yết trên mạng, giá mua vào, bán ra nào là tốt nhất. Trên cơ sở đó Z sẽ chọn một người bán có giá tốt để X mua được rẻ nhất. Việc mua bán này cũng có thể được thương lượng thêm để có được mức giá tốt hơn so với giá đang niêm yết. Trong trường hợp mua hộ cho khách hàng, Z đóng vai trò là nhà môi giới để hưởng hoa hồng bằng cách cộng thêm vào giá mua chứng khoán của nhà đầu tư X hoặc trừ vào giá bán nếu X là người bán chứng khoán. Tỷ lệ hoa hồng này do pháp luật quy định, công ty chứng khoán không được định đoạt một cách tuỳ ý. Nguyễn Hoàng - CKB - K7 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan