Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mot so giai phap giup hs lop 6hoc tot mon am nhac_ trần thị lưu...

Tài liệu Mot so giai phap giup hs lop 6hoc tot mon am nhac_ trần thị lưu

.DOC
18
134
116

Mô tả:

MỤC LỤC: I – MỞ ĐẦU:…………………………………………………………………. 2 I.1 – Lý do chọn đề tài: ……………………………………………………… 2 I.2 – Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: ………………………………………… 3 I.3 – Đối tượng nghiên cứu: …………………………………………………. 4 I.4 – Giới hạn phạm vi nghiên cứu: ………………………………………… 4 I.5 – Phương pháp nghiên cứu: ……………………………………………… 4 II – NỘI DUNG:………………………………………………………………. 4 II.1 – Cơ sở lý luận:…………………………………………………………… 4 II.2 – Thực trạng: …………………………………………………………….. 5 a. Thuận lợi, khó khăn: ………………………………………………………. 5 b. Thành công, hạn chế: ……………………………………………………… 6 c. Mặt mạnh, mặt yếu: ……………………………………………………….. 6 d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: …………………………………... 7 e. phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:………. 7 e. 1 - Phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.:………………………………………………………………. 7 e.2 - Khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh:……………………… 7 e. 3 - Học sinh phát biểu cảm nhận về bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau: ……. 8 e.4 - Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát: ………………………………….. 9 e. 5 - Giáo viên phải biết sử dụng phương tiện dạy học như một yếu tố gây xúc cảm: ………………………………………………………………………………………11 e. 6 - Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ học âm nhạc: ……………………………………………………………………………………. 11 e. 7 - Chơi trò chơi: ………………………………………………………………….. 12 II.3 – Giải pháp, biện pháp: ………………………………………………… 12 a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: ……………………………………… 12 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: ……………….. 13 c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: ………………………………. 13 II.4 - Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: ……14 III – KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ: ……………………………………………14 III.1 – Kết luận: ……………………………………………………………. 14 III.2 – Kiến nghị: ………………………………………………………….. 15 1 I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1/ Lý do chọn đề tài. Âm nhạc là vốn văn hóa lâu đời mang đậm đà bản sắc dân tộc, khi âm nhạc tồn tại thì nhu cầu thưởng thức âm nhạc là động lực thúc đẩy khả năng sáng tạo của mỗi con người. Yếu tố đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển âm nhạc dân gian đa dạng và phong phú. Âm nhạc còn là phương tiện giáo dục tích cực góp phần hình thành ở học sinh một tâm hồn trong sáng, thị hiếu âm nhạc lành mạnh, tư duy sắc sảo, lòng khát khao sáng tạo, giàu tình cảm luôn tự tin và có cái nhìn đẹp hơn, hoàn thiện hơn nhằm giúp các em giảm bớt căng thẳng cho những tiết học sau. Thông qua việc học âm nhạc ở trường THCS nói chung và khối lớp 6 nói riêng, môn Âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh theo mục tiêu đào tạo, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người mới. Tuy nhiên âm nhạc trong nhà trường THCS với tư cách là một môn học có mức độ nhất định về mục đích và nội dung, song mục đích của việc dạy và học môn âm nhạc trong nhà trường phổ thông là giáo dục văn hoá âm nhạc cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kiến thức sơ giản các kỹ năng nhằm tạo điều kiện cho khả năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ thuật âm nhạc, khơi dậy ở các em những khả năng sáng tạo trong hoạt động âm nhạc, củng cố thêm về tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuật và nhu cầu âm nhạc. Thông qua những phương tiện của nghệ thuật âm nhạc để bồi dưỡng khả năng nhận thức, phát triển tư duy, óc sáng tạo góp phần cùng các môn học khác phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh, bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật, đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng làm cho không khí của nhà trường thêm vui tươi lành mạnh. Từ mục tiêu giáo dục và những lí do chung của môn học Âm nhạc nói trên, bản thân tôi nhận thấy đó là một hướng đi và là một phương pháp giáo dục đúng đắn mang tính đặc thù của việc giáo dục cái hay cái đẹp, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ âm nhạc góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách toàn diện của con người mới: Đức - Trí - Thể - Mĩ. Trong nghệ thuật âm nhạc, sự sáng tạo của mỗi cá nhân 2 đóng vai trò cực kì quan trọng. Sáng tạo có nhiều mức độ, có thể phát triển từ những ý tưởng đã có, có thể là thay đổi hệ thống nguyên tắc. Học sinh khối lớp 6 ở trường THCS đang trong thời kì phát triển nhanh về thể chất, tâm sinh lí, giai đoạn này các em có nhiều ước mơ, suy nghĩ về cuộc sống. Trong quá trình học âm nhạc, đây là giai đoạn rất thích hợp để phát huy tính sáng tạo của học sinh. Mục đích giáo dục âm nhạc, bao gồm những mục tiêu yêu cầu giáo dục cụ thể, là sự phản ảnh kết quả mong muốn sau một quá trình giáo dục - dạy học. Kết quả ấy cũng chính là mô hình hay kiểu nhân cách cần hình thành, kiểu tập thể cần xây dựng ở học sinh, thông qua môn học âm nhạc. Có ba mức độ từ thấp lên cao biểu hiện của học tập tích cực là: bắt chước - tìm tòi - sáng tạo. Sẽ thiệt thòi cho các em về nghệ thuật âm nhạc, nếu giáo viên không tạo điều kiện để HS học tập, rèn luyện và thể hiện sự sáng tạo của mình. Môn âm nhạc ở THCS nói chung và khối lớp 6 nói riêng gồm 3 phân môn là: Học hát, tập đọc nhạc, nhạc lí và âm nhạc thường thức. Trong đó, phân môn Học hát là phân môn chủ yếu để tổ chức được nhiều hoạt động gây hứng thú trong một tiết học âm nhạc hơn. Là phân môn phát huy được nhiều tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Vậy phải dạy như thế nào? Kết hợp các hoạt động ra làm sao để phát huy được tính sáng tạo, để tạo được hứng thú của học sinh? Xuất phát từ những lý do và niềm hứng thú đó cá nhân đi vào nghiên cứu một đề tài hết sức lý thú và không có tham vọng gì hơn ngoài việc trình bày những kinh nghiệm trong mấy năm qua đứng trên bục giảng, giảng dạy bộ môn âm nhạc, việc đi vào tìm hiểu, đánh giá việc dạy và học môn âm nhạc là điều cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy học – "Tạo hứng thú cho Học sinh lớp 6 trong tiết học hát" I. 2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: Giúp giáo viên có những phương pháp dạy hát hiệu quả nhất để phát huy tính sáng tạo của HS. Xuất phát từ mục tiêu chung của bộ môn âm nhạc ở trường THCS, là giáo viên trực tiếp giảng dạy cần phải xác định tốt những nhiệm vụ sau đây: 3 - Xác định rõ mục tiêu của từng bài học trong từng tiết học. - Xây dựng và phát triển năng lực âm nhạc của học sinh thông qua việc Học hát được thể hiện trong sách giáo khoa (SGK ). - Qua việc hướng dẫn học sinh học hát, giáo viên phải giáo dục cho các em có được tình cảm, đạo đức trong sáng, lành mạnh, hướng tới những điều thiện và cái đẹp trong cuộc sống . - Xây dựng khả năng tham gia hoạt động âm nhạc, giúp cho việc phát triển toàn diện cân bằng và hài hoà. - Phát hiện những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, động viên và giúp các em phát triển năng khiếu của mình. - Giúp học sinh hát đúng, tập hát diễn cảm, trang bị cho các em một số động tác phụ họa áp dụng vào sinh hoạt âm nhạc trong đời sống hàng ngày, cung cấp cho các em thêm một số kiến thức mang tính văn hoá âm nhạc. - Với tư cách là người giáo viên dạy môn âm nhạc ở trường THCS, bản thân cố gắng vận dụng các phương pháp tối ưu nhất đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Bên cạnh đó, bản thân luôn bám sát nội dung chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng, nội dung sách giáo khoa ở bộ môn âm nhạc lớp 6 để hiểu rõ mục tiêu môn học, biết cách tổ chức tiết dạy và có phương pháp phù hợp với từng tiết dạy nhằm làm cho nội dung bài học sẽ trở nên nhẹ nhàng hấp dẫn hơn. Nhưng, nếu giáo viên chưa nắm được mục tiêu môn học, coi môn học hoàn toàn là môn năng khiếu thì sẽ dẫn đến tình trạng dạy môn học này như dạy trong các trường năng khiếu (chuyên nghiệp), yêu cầu quá cao về các kĩ năng thực hành, biến nội dung các bài học trở nên quá phức tạp và điều tất yếu là dẫn đến quá tải. Để khắc phục tình trạng trên, khi thực hiện chương trình về bộ môn Âm nhạc, trước hết giáo viên cần nắm vững mục tiêu của môn học, đó là giáo dục thẩm mĩ, để giúp học sinh hiểu biết cái đẹp, cảm nhận cái đẹp và sáng tạo cái đẹp nói chung, chứ không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức và kĩ năng về âm nhạc. Điều mà giáo viên đặc biệt lưu tâm, đặc biệt chú ý đó là giáo dục cho học sinh những tri thức cần thiết về cái hay, cái đẹp, giáo dục thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh, rèn luyện cho học sinh có hiểu biết và thể hiện tính thẩm mĩ trong cuộc sống thông qua việc học môn âm 4 nhạc. Như Các-Mác đã nói : “Con người phải biết xây dựng cuộc sống theo qui luật của cái đẹp” I. 3/ Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh lớp 6D – Điểm học Buôn Tung – Trường THCS Lê Quý Đôn I. 4/ Giới hạn phạm vi nghiên cứu : - Từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014. I. 5/ Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp: Hướng đẫn, luyện tập. - Biện pháp: Làm mẫu, sửa sai. II. PHẦN NỘI DUNG II. 1/ CƠ SỞ LÝ LUẬN : - Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu của bộ môn. - Căn cứ vào nội dung chương trình sách giáo khoa. - Căn cứ vào chương trình giảm tải của Bộ giáo dục.Phân phối chương trình môn Âm nhạc THCS. - Căn cứ vào chuẩn kiến thức kỹ năng THCS. Với tư cách là nhà giáo, giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu kỹ cơ sở lý luận và nắm vững các kiến thức về bộ môn và phương pháp giảng dạy bộ môn nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. II. 2/ THỰC TRẠNG: a. Thuận lợi, khó khăn: * Thuận lợi: - Âm nhạc là một môn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học nghiêm túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những tiêu chuẩn để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học. - Nhà trường và BGH quan tâm thường xuyên; có đồ dùng, thiết bị giảng dạy, phù hợp với đặc trưng của bộ môn. 5 - Giáo viên luôn có ý thức tự học hỏi để nắm chắc về chuyên môn, tích cực tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp mới để vận dụng trong quá trình giảng dạy. - Học sinh tương đối ngoan ngoãn, đa số các em rất yêu thích môn Âm nhạc. Đặc biệt là phân môn Học hát. Học sinh cảm nhận giai điệu các bài hát khá tốt. Thực hiện tốt các bài hát với đàn do giáo viên trực tiếp đàn. * Khó khăn: - Cơ sở vật chất cho việc dạy và học âm nhạc của nhà trường chưa thực sự đầy đủ, ngoài đàn organ. Nhà trường chưa có phòng học riêng cho bộ môn, tranh ảnh còn hạn chế để phục vụ cho việc dạy học bộ môn âm nhạc. Trường học có 2 điểm học cách xa nhau, điểm học phụ còn thiếu thốn rất nhiều về cơ sở vật chất. Cuộc sống của người dân điểm lẻ còn khó khăn nên ít có sự quan tâm đến việc học tập của con em. - Đối với HS lớp 6D tại điểm học lẻ Buôn Tung nói riêng và điểm học chính nói chung đa phần các em là con em nông thôn, điều kiện chưa được đầy đủ, việc học thêm các môn văn hoá khác đôi khi còn chưa đủ điều kiện thì làm gì nói đến chuyện học thêm các môn khác như Âm nhạc – Mỹ thuật… HS ít được quan tâm, vì thế hiểu biết về âm nhạc đang còn hạn chế, chưa sâu rộng, không kích thích các em học tập. Đa phần HS bị chi phối, ảnh hưởng về các môn chính, lo cho thi, lo đánh giá, phần nào sao nhãng việc học môn âm nhạc. Một nguyên nhân khách quan khác cũng không kém phần quan trọng liên quan đến hiệu quả và chất lượng bộ môn đó là thời gian dành cho bộ môn quá ít (1tiết/ tuần). - Mặt khác, đa số các bậc Phụ huynh học sinh chỉ quan tâm đến các môn học chính như Văn, Toán, ... mà chưa quan tâm đến bộ môn Âm nhạc bởi họ cứ nghĩ rằng đây chỉ là môn học phụ. - Sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác rất ít. Giáo viên phải tự tìm tài liệu, sưu tầm đồ dùng dạy học để phục vụ cho việc dạy và học. b- Thành công – Hạn chế: * Thành công: Môn học âm nhạc ở trường THCS mỗi tuần chỉ có một tiết, thật ít ỏi nhưng các em được làm quen với phân môn Học hát là một tác động lớn vào thế giới tinh thần 6 của các em. Với những phương pháp dạy này, trong những năm qua đối với việc học âm nhạc ở trường, tôi thấy kết quả chất lượng được nâng lên rõ rệt, các em đã biết trình bày hoàn chỉnh một bài hát (hát kết hợp vận động theo nhịp bài hát, biểu diễn) biết cảm nhận về nội dung bài hát. Bởi được hướng dẫn tận tình gợi mở và gần gũi luyện tập của GV, kết hợp giữa nhạc cụ, bảng phụ, đài, băng nhạc và làm mẫu chính xác, phát hiện và sửa sai kịp thời của GV đã động viên cổ vũ các em kịp thời bằng những lời động viên, khuyến khích và xếp loại Đạt. Nhắc nhở các em sau khi học bài mới thì các em phải có sự ôn luyện ở nhà để ghi nhớ và khắc sâu kiến thức, do đó trong giờ học rất sôi nổi và thoải mái, các em thi đua nhau trả lời câu hỏi của GV đưa ra, có tinh thần xung phong lên trình bày bài trước lớp, tự chọn cho bản thân, cho nhóm các cách biểu diễn, cách giới thiệu, cách trình bày bài hát,…. đem lại cho các em lòng tự tin, sự hứng thú say mê trong học tập, tình cảm Cô - Trò luôn gần gũi, gắn bó. Việc học tốt trong giờ học chính khoá đã giúp HS hoạt động tốt trong các hoạt động ngoại khoá. - Kết quả cụ thể được minh chứng qua học kỳ I vừa rồi, 100% học sinh lớp 6D, đều xếp loại Đạt. Đó là một kết quả đáng mừng cho học sinh, giáo viên và cả nhà trường. * Hạn chế: - Các dụng cụ như thanh phách chưa đáp ứng đủ trong các tiết dạy nên ảnh hưởng khi tổ chức các hoạt động dạy học. c- Mặt mạnh – mặt yếu: * Mặt mạnh: - Học sinh tương đối ngoan ngoãn, vâng lời Thầy cô. - Tích cực, chủ động và sáng tạo trong các hoạt động trên lớp. - Đa số học sinh đều thích học bộ môn Âm nhạc, đặc biệt phân môn học hát. - Giữa Cô và trò luôn có mối quan hệ thân thiết, giao lưu tình cảm với nhau, tạo được sự thoải mái trong mỗi tiết học. - Giáo viên tự chơi đàn và hát mẫu cho học sinh trong mỗi tiết học hát, có sử sụng hình ảnh minh họa, liên hệ với thực tiển, gần giũ với học sinh. 7 * Mặt yếu: - Giáo viên chưa thực sự thành thạo về cách sử dụng máy chiếu nên gây ảnh hưởng đến một số tiết dạy áp dụng CNTT. - Phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến môn học này của con em.,…. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: - Học sinh yêu thích bộ môn âm nhạc, có ý thức và muốn được phát huy tính sáng tạo, tính thể hiện khả năng, năng khiếu của bản thân. - Xuất phát từ tâm lý lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi nhạy cảm hiếu động ham thích ca hát. - Từ thực tiễn giảng dạy cũng như thực tiễn của học sinh nông thôn ít có điều kiện để tiếp nhận tri thức về âm nhạc. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng: e. 1 - Phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới: Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp, với thái độ vui vẻ thân mật đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong việc kiểm tra miệng...đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học mới. Nhưng sự hứng thú học tập chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu đề mục mới, tạo sự hấp dẫn đối với học sinh. Giáo viên có thể dùng hình ảnh minh hoạ nội dung của bài hát cho học sinh nhận biết để giới thiệu vào bài, có thể sử dụng trò chơi giải ô chữ để vào bài, giáo viên có thể sử dụng những đoạn nhạc đã được xử lí làm méo tiếng và cho các em nghe đoán bài hát … cũng đều rất hấp dẫn học sinh. e.2 - Khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh. Để học sinh không bị thụ động trong cách lựa chọn tiết tấu cho bài hát, GV khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh bằng cách như sau: GV thay đổi tiết tấu, tempo hay dịch giọng bản nhạc để học sinh nhận biết và thực hành. *Ví dụ 1: Bài hát Tiếng chuông và ngọn cờ. 8 GV đàn cho HS hát với tiết tấu polka rồi lần lượt chuyển tiết điệu pasodoble, Chacha, Disco..., yêu cầu học sinh nghe và hát theo nhịp đàn. ? Các em hãy cho biết sự thay đổi tiết tấu mà các em vừa trình bày có phù hợp với bài hát không? HS nêu ý kiến dựa vào kỹ năng nghe của bản thân. *Ví dụ 2: Bài hát Hành khúc tới trường. GV thay đổi tốc độ của bài hát: Từ tempo 110 xuống 90 hoặc thay đổi tiết tấu từ Machl sang Beat ballat.. Em có nhận xét gì nếu thay đổi tốc độ cũng như tiết tấu cho bài hát như chúng ta vừa trình bày? HS trả lời: BH Hành khúc tới trường nếu hát ở tốc độ chậm cũng như tiết tấu nhẹ nhàng mềm mại sẽ không phù hợp với sắc thái của bài hát vì bài hát có tính nhịp đi, hùng mạnh . GV giải thích: Cơ bản một bài hát có thể sử dụng nhiều tiết tấu và tempo khác nhau tuy nhiên dựa vào tính chất của bài để lựa chọn tiết tấu và tempo phù hợp như thế mới truyền tải được sắc thái cũng như ý tưởng của tác giả. Với cách trình bày như vậy chắc chắn từng ngày HS sẽ có những cảm nhận mới trong mỗi lần hát và nghe hát. e. 3 - Học sinh phát biểu cảm nhận về bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong học tập, so với bắt chước thì tìm tòi sáng tạo là hình thức cao nhất thể hiện tính tích cực học tập của HS, hãy bắt đầu khuyến khích các em mạnh dạn nói lên những cảm nhận của mình về môn học, về bài hát. HS có thể không ủng hộ ý kiến của GV, của bạn bè, có thể trình bày những ý kiến, tư tưởng của mình. Đó là cơ sở để có kĩ năng sáng tạo lớn hơn. GV cần tạo điều kiện để HS tự nhận xét, tự đánh giá, tự cảm nhận để có thể điều chỉnh cách học theo hướng tích cực. *Ví dụ: Cách 1: - Sau khi cho HS nghe hát mẫu và đọc lời ca, GV đặt câu hỏi: Em hãy nêu cảm nhận của mình về bài hát Tiếng chuông và ngọn cờ? 9 HS sẽ trả lời qua phần gợi mở của GV:. VD: Nội dung bài hát nói lên điều gì? Giai điệu bài hát như thế nào? Qua bài hát này bản thân em học tập được gì? Em sẽ phải làm gì để xứng với những điều mà nội dung bài hát muốn chuyển tải tới…? Có thể HS trả lời chưa được trôi chảy hoặc ý tứ chưa được sâu sắc, song qua nhận xét và khắc hoạ của giáo viên thì học sinh từ chỗ hiểu nội dung bài hát còn mơ hồ sẽ hiểu sâu sắc hơn và đặc biệt là sẽ có trách nhiệm hơn trong việc học tập cũng như rèn luyện Cách 2: - Học xong bài hát, GV chia lớp thành 2-> 3 nhóm. Lần lượt từng nhóm viết lời giới thiệu cho bài hát. GV nhận xét, chấm điểm. + Lời giới thiệu nhóm 1: Trẻ em trên trái đất đều mơ ước được học hành, được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, thầy cô và bạn bè - một cuộc sống yên vui, hòa bình, hữu nghị đoàn kết và đầy tình thân ái giữa các dân tộc trên toàn thề giới. Chúng em mong sao trên trái đất sẽ không còn chiến tranh, không còn tiếng đạn bom đau thương, chia lìa. Hành tinh của chúng em sẽ tràn ngập màu xanh của hoà bình và hạnh phúc. Hôm nay chúng em xin được gửi đến thầy giáo và các bạn ca khúc Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) đó là tất cả những gì mà tuổi thơ trên toàn thế giới của chúng em hằng mong ước! + Lời giới thiệu nhóm 2: Bác Hồ đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành - biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Vậy mà nay trên thế giới vẫn đang còn hàng triệu trẻ em còn phải chịu nhiều vất vả khổ cực, không đủ ăn đủ mặc không được đến trường do chiến tranh gây nên. Chúng ta cần phải làm gì để giúp đỡ những bạn ấy, làm gì để không còn cảnh chiến tranh chia lìa? Các bạn ơi chúng ta hãy hát vang bài ca Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) cầu mong cho mọi người trên thế giới được sống trong hoà bình hữu nghị và đầy tình nhân ái! e. 4 - Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát. 10 Thông thường mỗi bài hát giáo viên đều hướng dẫn học sinh hát kết hợp vận động giúp cho các em tự nhiên khi hát. Tuy nhiên, ở một số bài GV có thể dạy HS một vài động tác tay hoặc múa đơn giản, phù hợp để các em có thêm những lựa chọn khi biểu diễn bài hát. *Ví dụ 1: Với bài hát Đi cấy, GV hướng dẫn một số động tác múa đèn của Thanh Hóa hoặc bài hát Vui bước trên đường xa GV hướng dẫn một vài động tác nhẹ nhàng uyển chuyển… Như vậy những điều đó sẽ không chỉ giúp cho cách trình bày bài hát thêm sinh động mà các em còn được tìm hiểu về những điệu múa mang tính chất đặc trưng vùng miền hay các động tác vui nhộn của tân nhạc rất cuốn hút và đặc sắc. Thông qua những tiết học như vậy HS sẽ có những áp dụng sáng tạo trong những lần hội diễn văn nghệ trong nhà trường, các hoạt động ngoại khoá, biết cách dàn dựng và sử dụng những động tác múa phù hợp với thể loại bài hát… Khi học GV đưa ra yêu cầu HS tự chọn nhóm 4 -> 5 HS và biểu diễn bài hát có động tác phụ hoạ. GV không nên áp đặt các em vào từng nhóm, để các em tự chọn sẽ làm HS phấn khởi, vui thích khi được làm việc trong nhóm phù hợp về sở thích, về âm vực, chất giọng… - HS sẽ tự chọn nhóm có giọng hát thích hợp về âm vực để trình bày bài hát. - HS tự chọn cách trình bày bài: Các em có thể trình bày bài một hoặc hai lần, có mở đầu có kết thúc, mỗi câu hát sẽ do em nào đảm nhiệm hay cả nhóm cùng hát. Bài hát gồm mấy đoạn, tính chất như thế nào? (GV có thể gợi ý trước). Ngoài ra, HS có thể chọn để sử dụng các cách hát như lĩnh xướng, hoà giọng, đối đáp…làm thế nào để phù hợp với nội dung cũng như cấu trúc bài hát. Như vậy hình thức trình bày bài hát của mỗi nhóm sẽ rất đa dạng, phong phú, giàu tính sáng tạo. - HS tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: HS có thể nghĩ ra động tác phù hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp (hát kết hợp vận động hoặc múa, hát kết hợp một vài động tác diễn xuất). - Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt hiệu quả cao, GV cần tạo điều kiện về thời gian cho HS chuẩn bị. Thông thường GV thông báo trước một tuần để HS chọn nhóm và 11 tập cách trình bày, biểu diễn bài hát. (Không thể vừa luyện tập vùa thể hiện trong 1 tiết học) e. 5 - Giáo viên phải biết sử dụng phương tiện dạy học như một yếu tố gây xúc cảm. Một giờ học sinh động giáo viên không thể không sử dụng phương tiện dạy học. Đồ dùng dạy học phổ biến đó là sách giáo khoa, nhạc cụ tranh ảnh. Các phương tiện đó giáo viên phải biết sử dụng cho phù hợp với nội dung từng bài học. Biết minh hoạ một cách độc đáo, thú vị sẽ kích thích hứng thú học tập của các em. Kinh nghiệm đã xác nhận nếu chỉ lặp lại những kiến thức trong sách giáo khoa thì học sinh cũng không hứng thú học tập và vai trò của giáo viên trên lớp cũng không phát huy được. Mặt khác nếu thoát ly sách giáo khoa làm cho học sinh khó nắm kiến thức cần thiết thì bài giảng dù có hấp dẫn sinh động đến mấy cũng không mang lại hiệu quả sư phạm. Vì vậy phải biết kết hợp kiến thức sách giáo khoa phải vừa mở rộng kiến thức. Đặc biệt với môn nhạc phải chú trọng thực hành giáo viên dạy nhạc không có nhạc cụ, không biết sử dụng nhạc cụ thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán, hiệu quả bài dạy không cao. Tiết dạy powepoint với màu sắc sinh động, những hình ảnh ngộ nghĩnh, các video hấp dẫn sẽ thu hút học sinh chú ý vào bài giảng đem lại hiệu quả cao trong mỗi bài dạy. Các mẫu chuyện tranh ảnh đòi hỏi giáo viên phải có để minh hoạ thêm cho học sinh, ngoài ra học sinh cũng phải có đầy đủ các phương tiện học tập như: sách, vở, bút, thanh phách, mõ... e. 6 - Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ học âm nhạc. Việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ học không chỉ một lần mà phải rèn luyện thường xuyên từ phút đầu đến phút cuối giờ học. Hơn nữa phải làm cho mức độ hứng thú ngày càng tăng đến nỗi các em không để ý thời gian trôi đi nhanh chóng 12 và đến khi giờ học kết thúc học sinh còn luyến tiếc. Đó là một việc làm không đơn giản đối với mỗi giáo viên. Đặc biệt là tình trạng học sinh cá biệt, lười biếng không chịu chú ý vào bài giảng mà thường gây rối các bạn trong lớp. Vậy yêu cầu đặt ra là giáo viên làm sao phải thu hút được sự chú ý của tất cả các em vào bài giảng. Ở lứa tuổi THCS các em đã có sự chuyển đổi tâm lý rất rõ rệt, giáo viên cần nắm bắt tâm lý lứa tuổi để đưa ra những phương pháp tạo hứng thú của học sinh trong giờ học. Sự mới mẻ, đổi mới trong từng tiết dạy sẽ tạo được cho học sinh cảm giác chờ đợi, mong ngóng đến tiết học mới. Việc ghi điểm khuyến khích học sinh cũng là một cách tạo hứng thú đối với học sinh, nhưng cần chú ý chỉ cho điểm thưởng thật xứng đáng với việc học tập của các em. Theo kinh nghiệm của bản thân, có thể chuẩn bị những bông hoa điểm tốt thi đua giữa các tổ, nhóm, cuối tháng tổng kết xem tổ nào đạt được nhiều hoa điểm tốt sẽ được nhận một phần quà nhỏ khuyến khích động viên tinh thần học tập của các em. e. 7 - Chơi trò chơi. - Sau khi học sinh hát đúng giai điệu của bài hát GV hướng dẫn học sinh chơi trò chơi: Giáo viên làm kí hiệu tay theo các chữ cái A, U, I. Khi GV đưa tay theo kí hiệu, học sinh hát giai điệu chỉ với các chữ cái theo đúng kí hiệu GV hướng dẫn trước lớp. *Ví dụ 1: Bài hát: Vui bước trên đường xa Câu 1, GV đưa tay kí hiệu chữ A, HS hát "A" theo giai điệu của câu 1. “À à, à à a à á a” Câu 2, Gv đưa tay kí hiệu chữ U, HS hát "U" theo giai điệu của câu 2. “U ú u u ù ụ ù u u ù u” GV tiếp tục thay đổi các kí hiệu khác cho đến hết bài hát. Trò chơi này giúp các em thay đổi không khí học tập, đồng thời để kiểm tra việc ghi nhớ giai điệu của HS . - Trò chơi "Ai nhanh tai hơn” 13 Ví dụ sau khi học xong bài hát giáo viên sử dụng đàn đánh giai điệu một tiết nhạc bất kì cho học sinh nghe và hát lời ca câu nhạc đó. Trò chơi này giúp HS mau thuộc lời ca, phát triển tai nghe Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát vừa giúp học sinh nắm kiến thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra không khí sôi nổi cho HS, tạo hứng thú cho HS học môn Âm nhạc cũng như học các môn học khác. II.3/ GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: * Học sinh: - Hát đúng, chính xác giai điệu các bài hát - Hát đúng tính chất bài hát. - Biết hát có vận động phụ hoạ. - Biết thể hiện bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau. - Biết biểu diễn trên sân khấu. - Sáng tác lời ca mới hiệu quả dựa trên giai điệu một số bài hát. * Giáo viên: - Sử dụng đàn, hát nhuần nhuyễn thành thạo. - Sáng tạo nhiều động tác vận động minh hoạ, nhiều hình thức biểu diễn bài hát khác nhau. - Sưu tầm nhiều trò chơi phù hợp, vui và hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy hát. - Nâng cao năng lục bản thân, trình độ chuyên môn cho giáo viên. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: - Xuất phát từ sự thay đổi về mặt tâm sinh lý lứa tuổi và một số học sinh còn xem môn học âm nhạc là một môn phụ, các em chỉ quan tâm đến môn học mà các em đã định hướng cho nghề nghiệp tương lai sau này nên một số học sinh chưa thực sự hứng thú học. 14 Qua thời gian thực tế tôi thấy trong quá trình dạy nhiều nơi chưa đáp ứng hết yêu cầu của bộ môn. Bởi vì đặc trưng của bộ môn âm nhạc là khác so với nhiều môn khác nhưng có một số giáo viên trong quá trình dạy còn hơi cứng nhắc vì vậy học sinh thấy tiết học nhạc còn nặng nề không tập trung học. Để cung cấp kiến thức khoa học giáo dục tư tưởng và rèn luyện kỷ năng cho học sinh , giáo viên phải làm cho học sinh ham mê hứng thú học tập làm cho quá trình học tập của các em trở nên tự giác tạo nên niềm vui trong sáng và bổ ích. Bất kỳ môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú học tập đối với học sinh. Bản thân nghệ thuật âm nhạc nói chung và môn âm nhạc ở trường là nguồn cảm hứng là sự kích thích, sự say mê học tập của học sinh nhưng không phải dạy như thế nào cũng gây được hứng thú cho học sinh. Xuất phát từ thực tế hiện nay là đang đổi mới phương pháp dạy học, học sinh tự chủ động chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người hướng dẫn điều khiển việc tạo hứng thú học tập cho các em có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: - Giáo viên có sự say mê, tìm tòi những giải pháp, phương pháp mới phù hợp với từng nội dung bài học - Luôn gần gũi với học sinh, yêu nghề mến trẻ, quan tâm và hiểu được tâm sinh lý lứa tuổi với từng học sinh. - Luôn tìm hiểu tài liệu mới, luôn học hỏi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ bản thân. - Luôn thoải mái, vui vẻ với trò trong mỗi tiết học, chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học trong mỗi tiết dạy. - Có các trang thiết bị, sách vở, máy móc,… - Học sinh có sự yêu thích bộ môn, thái độ học tập tốt, đầy đủ dụng cụ học tập. II. 4/ KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 15 Với sự áp dụng các biện pháp nói trên, năm qua không chỉ giảng dạy môn âm nhạc lớp 6 mà còn lớp 7,8, 9. Tôi nhận thấy đa số học sinh đều rất hứng thú học tập, kiểm tra đều đạt kết quả cao. - 100% 38/ 38 học sinh lớp 6D đều xếp loại Đạt ( Đ) ở học kỳ I năm học 2013 – 2014. - Hs rất hứng thú, tích cực học tập và thực hiện các hoạt động trong tiết học hát. - Hs tự chuẩn bị được lời giới thiệu bài hát, cách thức biểu diến, hát kết hợp múa phụ họa cho bài hát. - Học sinh được giáo dục cả Đức – Trí _ Thể - Mỹ về nội dung bài hát và liên hệ giáo dục của bản thân sau mỗi bài hát III. PhÇn KÕt luËn, KIẾN NGHỊ: III. 1/ KẾT LUẬN: Có thể nói rằng môn âm nhạc ở trường phổ thông có vị trí quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Ngày nay với nội dung chương trình đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài những môn học chính thì môn học âm nhạc giúp cho học sinh phát trển thị hiếu thẩm mỹ nghệ thuật, nâng cao dần một bước về tiếp xúc với âm nhạc tạo đà cho sự giáo dục và phát triển toàn diện về nhân cách cho học sinh. Việc dạy môn âm nhạc ở trường THCS trong quá trình đổi mới ngày nay; đặc biệt học sinh lớp 6 – là nền tảng vững chắc cho các nội dung cao hơn ở các khối 7, 8, 9 là vô cùng cần thiết. Tất cả các giáo viên đứng lớp, giáo viên chuyên biệt và các cấp chỉ đạo cần hiểu rõ điều này để môn âm nhạc ngày càng phát huy tác dụng góp phần vào sự nghiệp đào tạo các em cho tương lai đất nước. Từ thực trạng dạy phân môn Học hát ở học sinh lớp 6, từ kiến thức được học trong nhà trường bản thân tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm. Có thể nói phần lớn 16 các yếu tố làm cho học sinh hứng thú học tập đó là đều phụ thuộc vào vai trò của giáo viên. Những cách thức, những con đường gây hứng thú cho học sinh trong học tập môn âm nhạc là hết sức phong phú, mỗi người có một phương pháp biện pháp riêng của mình. Trên đây tôi mới chỉ đề cập phần nào đến kinh nghiệm của bản thân chắc chắn không tránh khỏi sự thiếu sót. Mong quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm để đề tài được hoàn thiện hơn nữa. III. 2/ KIẾN NGHỊ:. Để thực hiện đào tạo các em học sinh trở thành những người phát triển toàn diện về: Đức - Trí - Thể - Mĩ… ngoài việc người giáo viên phải có năng lực thực sự thì việc khách quan, ngoại cảnh, khuôn viên, môi trường là những điều tác động lớn đến các em. Do đó để tạo điều kiện cho việc dạy - học của thầy trò thuận lợi, bản thân tôi là người đứng lớp dạy bộ môn âm nhạc cần kiến nghị một số vấn đề sau: - Tổ chức nhiều đợt tập huấn, chuyên đề về bộ môn để GV âm nhạc có điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy! - Thường xuyên quan tâm, giúp đỡ giáo viên và học sinh. - Trang bị, bổ sung thêm một số trang thiết bị và tài liệu tham khảo để phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn như thanh phách hình ảnh liên quan đến bài học,.. - Đầu tư xây dựng phòng học bộ môn để HS có không gian hoạt động nghệ thuật., Tôi xin chân thành cảm ơn! Buôn Triết, ngày 12 tháng 3 năm 2014 Ngươi viết Trần Thị Lưu 17 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất