Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số đặc điểm tiểu thuyết chu lai...

Tài liệu Một số đặc điểm tiểu thuyết chu lai

.PDF
126
139
68

Mô tả:

0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN THỊ HẢI HÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CHU LAI Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM QUANG LONG HÀ NỘI, 2011 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Từ 1975 đến nay, cùng với sự thay đổi của lịch sử dân tộc, nền văn học cũng có những đổi mới, chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc theo xu thế chung của thời đại. Văn học Việt Nam “thực sự khởi sắc” theo nghĩa được đào sâu hơn vào tất cả những yếu tố thế sự, đời thường, chú ý đến nhiều phương diện khác nhau của đời sống cá nhân, đổi mới cách thể hiện trên tất cả mọi phương diệ4n. Đặc biệt là sau đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước hoà bình, thống nhất trong xu thế xây dựng và hội nhập với quốc tế, nhiều nhà văn nhạy bén với những vấn đề của cuộc sống sau chiến tranh, họ bắt đầu trăn trở, háo hức, khát vọng muốn được thể hiện năng lực khám phá và sáng tạo của mình. Có thể nói, chưa bao giờ văn xuôi phát triển mạnh mẽ như bây giờ và cũng chưa bao giờ nhà văn lại “thành thật” với cuộc sống và với chính mình như bây giờ. Để tồn tại và để khẳng định được vị trí của mình, bắt kịp với bước chuyển mình của thời đại và đáp ứng thị hiếu của bạn đọc, nhà văn phải tạo ra những đổi mới trên nhiều phương diện và tạo ra cho mình phong cách độc đáo. Chu Lai là một trong những nhà văn không nằm ngoài quy luật đổi mới chung ấy. 1.2. Có thể coi sáng tác của Chu Lai là một “tập khảo luận” về những vấn đề của cuộc sống và con người Việt Nam trong và sau chiến tranh. Trong quá trình sáng tác của mình, Chu Lai đã thử nghiệm qua nhiều thể loại như truyện ngắn, ký sự, kịch bản sân khấu, kịch bản phim. Tuy nhiên theo đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình văn học và theo cảm nhận của chính nhà văn thì tiểu thuyết mới là sở trường của Chu Lai và tên tuổi của ông cũng được khẳng định ở thể loại này. Song dù vậy, Chu Lai vẫn không tự bằng lòng với những gì đã có, ông luôn khao khát sáng tạo, kiếm tìm một hướng đi mới tạo nên một phong cách riêng để tự khẳng định chứ không phải là sự “tái bản” lại chính mình. Chính vì thế mà Chu Lai đã có nhiều đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói 2 chung, tiểu thuyết sử thi nói riêng với một loạt các tiểu thuyết mang cảm hứng khác với những tác phẩm được viết trước 1975 như Nắng đồng bằng, Sông xa, Ăn mày dĩ vãng, Phố, Cuộc đời dài lắm, Vòng tròn bội bạc, Ba lần và một lần, Chỉ còn một lần, Khúc bi tráng cuối cùng… Ông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2006. 1.3. Với tác giả Chu Lai, đã có không ít những bài nghiên cứu tìm hiểu về những thành tựu cũng như những đóng góp của nhà văn về thể loại tiểu thuyết. Từ những tác phẩm đầu tiên của mình, Chu Lai đã hướng ngòi bút tới đề tài chiến tranh và người lính, đặc biệt từ khi chuyển sang thể loại tiểu thuyết và sự ra đời của Nắng đồng bằng. Các tiểu thuyết của ông đã được công chúng đón nhận nhiệt thành và thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu phê bình. Trên mảng đề tài quen thuộc này, Chu Lai đã tạo cho mình một phong cách với những khám phá mới mẻ. Với một khối lượng tiểu thuyết khá lớn, Chu Lai được đánh giá là cây bút xông xáo, năng lực sáng tác dồi dào. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều khẳng định thành công của Chu Lai ở thể loại tiểu thuyết và ghi nhận đóng góp của nhà văn ở mảng đề tài chiến tranh. Theo Bùi Việt Thắng thì “Tiểu thuyết của Chu Lai gợi lên nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử”[83]. PGS.TS Lý Hoài Thu khẳng định: “Dù trực tiếp viết về thời dĩ vãng mịt mù bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh” thông tin mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm và lòng trung thực của người lính”[88]. Nguyễn Hương Giang nhận xét: “Sự thật về chiến tranh hôm nay được nhìn lại là một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn Chu Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của người “chịu trận” “người trong cuộc”[21]. Tiểu thuyết Chu Lai đã tiếp cận hiện thực ở cả những mặt khuất lấp, những số phận, cảnh ngộ thương tâm của con người. “Qua những cuốn sách gần đây viết về chiến tranh”, nhà phê bình Lê Thành Nghị đề cập đến những “miền khuất lấp” trong chiến tranh mà giờ đây Chu Lai “đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay còn bị giấu kín”[72]. Gần với ý kiến này, PGS.TS Tôn Phương Lan 3 cũng khẳng định: “Ở chiến trường đó là sự hèn nhát… cao hơn là một sự gắng gỏi leo lên bậc thang địa vị bằng giá máu của đồng đội, bằng một sự phản bội đáng để xử bắn như Kiêu trong “Nắng đồng bằng”[61]. Ngay chính bản thân nhà văn Chu Lai cũng cho rằng: “Chiến tranh đối với bất cứ dân tộc nào, dù chính nghĩa hay phi nghĩa cũng không sao tránh khỏi màu sắc bi kịch”[59]. Nhà phê bình Hồng Diệu đã cảm nhận được sự đổi mới trong quá trình tìm tòi sáng tạo của Chu Lai: “Tiểu thuyết của Chu Lai đề cập đến nhiều vấn đề. Nhưng bao trùm lên tất cả là chuyện những người lính sau chiến tranh, rời chiến trường trở về, người thì tha hoá, người thì bước vào cuộc chiến đấu mới. Cuộc chiến đấu của những người lương thiện chống kẻ bất lương, mà thật trớ trêu: có những người trước kia là đồng đội của nhau, bây giờ đứng trên hai mặt trận đối lập nhau”[10]. PGS.TS Nguyễn Bích Thu cho rằng tiểu thuyết của Chu Lai “là sự truy đuổi đến cùng của quá khứ để tìm nguyên nhân cái ác vì chỉ có nhìn thẳng vào quá khứ, con người mới tránh được thảm hoạ của cái ác, mới có thể trừng phạt cái ác để thanh thản sống với hiện tại, hướng tới lẽ phải và điều thiện”[87]. Chiến tranh kết thúc, nhưng đời sống hậu chiến với những hậu quả của nó còn âm ỉ, nhức nhối, kéo dài mãi. Về vấn đề này, rằng Bùi Việt Thắng cũng chỉ ra: “Viết về chiến tranh còn có nghĩa là phải viết về hậu quả của nó - bởi vì một cuộc chiến tranh ba chục năm đánh bại mấy đế quốc lớn, dù chiến thắng lừng lẫy, to lớn nhưng hậu quả của nó chắc phải dai dẳng và phức tạp. “Vòng tròn bội bạc” của Chu Lai… xoáy vào những vết thương của chiến tranh trong lòng người và cách thức con người chữa trị những vết thương đó”[81]. Nói cách khác, tiểu thuyết của Chu Lai là sự đối mặt trực tiếp với những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay. Viết về người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới, Nguyễn Hương Giang nhận xét: “Phố” của Chu Lai là một cuốn tiểu thuyết trong tiểu thuyết: Một cuốn về gia đình Thảo - Nam với sự phá vỡ và làm tan nát những giá trị truyền thống, một cuốn khác về cuộc đời Lãm, một người lính từ hai bàn tay trắng đi lên, bảo vệ và tha thiết giữ gìn những giá trị ấy. Cái chết thương tâm của 4 Thảo, Lãm ở cuối tác phẩm đẩy suy nghĩ của người đọc về hai hướng khác nhau nhưng đều thấm một nỗi buồn cao cả”[21]. Trần Quốc Huấn cũng đi vào khẳng định phẩm chất của người lính: “Trong truyện của Chu Lai, cái vốn tri thức văn hoá, trí tuệ sáng suốt của người lính trẻ đã thấm nhuyễn một cách tự nhiên vào từng chi tiết nhỏ của truyện, trong từng phán đoán nhạy bén, quả quyết, để dẫn tới chiến thắng cuối cùng ở nhân vật”[30]. Đánh giá về sự đổi mới trong quá trình tìm tòi sáng tạo của Chu Lai, Nguyễn Thanh Tú khi theo dõi Cuộc đời dài lắm - một sự tiếp nối của những câu chuyện viết về người lính trong nền kinh tế thị trường, đã nhận xét: “Chu Lai đã rất dũng cảm khi chọn một đề tài rất “hóc” là vấn đề đổi mới cơ chế trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường mà bối cảnh cụ thể là chuyện quản lý, sản xuất, kinh doanh”[93]. Cùng với các ý kiến khẳng định năng lực sáng tạo của Chu Lai trong việc tiếp cận, nắm bắt hiện thực đời sống của người lính trong chiến tranh và trong thời bình là một số các ý kiến đánh giá khác chỉ ra những dấu hiệu đổi mới về phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai. Các công trình nghiên cứu có liên quan đều đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ xin điểm lược một số ý kiến tiêu biểu. Giáo sư Phan Cự Đệ cho rằng tiểu thuyết của Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định”[20]. Về phong cách ngôn ngữ của Chu Lai, Trần Thuỳ Linh và PGS.TS Nguyễn Đức Tồn nhận xét như sau: “Khảo sát 6 cuốn tiểu thuyết của Chu Lai chúng tôi nhận thấy nhà văn đã tiếp thu một cách sáng tạo thủ pháp nghệ thuật so sánh, biết làm mới các so sánh trong những sáng tác của mình. Chính vì thế, nhà văn đã tạo được dấu ấn rõ rệt làm nên “phong cách Chu Lai”[91]. Có khá nhiều ý kiến đi sâu vào phân tích riêng một tác phẩm. Ở Cuộc trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng in trên báo Văn nghệ số 39/1992 xuất hiện những luồng ý kiến khác nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi, ví dụ như: “Chu Lai đã 5 “nhử” được người đọc bởi một cốt truyện ly kì” (Cao Tiến Lê), “Trên từng trang viết lộ rõ tâm huyết của tác giả tuy có khi tư tưởng mới chỉ dừng lại ở những câu triết lý” (Thiếu Mai). Đề cập đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả Đỗ Văn Khang nhận xét: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có nhiều đóng góp mới. Ngày trước nhân vật thường mang một ý nghĩa phổ quát, tức là có cái gì chung cho cả lớp người…, còn Hai Hùng của Chu Lai có số phận được miêu tả như một yếu tố cá biệt độc nhất nhưng vẫn mang tính điển hình. Nhân vật Hai Hùng của Chu Lai tàn tạ về thân xác, nhưng vạm vỡ về tâm hồn. Hai Hùng có bộ khung “xuống cấp” vì thương tật, vì sự huỷ hoại của mọi thứ vớ vẩn thời hậu chiến, nhưng vẫn nhất quán một bản lĩnh, một kiểu xông pha gần như bạt mạng vì không chịu chấp nhận một cái gì lập lờ, tráo trở”[37]. Nhận xét về tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc, tác giả Hồng Diệu viết: “Về diện, anh đã góp một cách nhìn rộng hơn vào hiện thực đời sống hôm nay ở các ngóc ngách của nó. Về điểm, anh đã đi sâu thêm một bước nữa vào sự phức tạp của tính cách con người dưới sự tác động của những điều kiện sống khác nhau. Và với nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tạo những tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá mạnh dạn, Chu Lai có những trang viết hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng”[10]. Nhận xét về xung đột truyện, nhà văn Nguyễn Tiến Hải khẳng định: “Cuộc đời dài lắm… căng thẳng vì cuốn tiểu thuyết đầy những mâu thuẫn, xung đột: xung đột trong nhân vật, giữa các nhân vật, giữa tốt và xấu, giữa cũ và mới, giữa chân thành và giả dối…”[24]. Nhận xét về thời gian nghệ thuật, Nguyễn Thanh Tú cho rằng: “Cuộc đời dài lắm cùng chung một mô hình với Ăn mày dĩ vãng, cũng được xây dựng trên hai trục thời gian. Quá khứ và hiện tại. Hai tuyến thời gian không tách rời nhau mà xen kẽ, lồng vào nhau rất chặt… Đồng thời nhà văn đã sử dụng luân phiên các điểm nhìn: khi thì điểm nhìn của nhân vật, khi lại là điểm nhìn người kể chuyện tạo ra sự đa dạng trên bình diện miêu tả”[93]. Nhìn một cách tổng quan chúng tôi thấy hầu hết các ý kiến đều khẳng định tài năng sáng tạo và những thành công nhất định trong sáng tác của Chu Lai. Song 6 bên cạnh đó vẫn còn có một vài ý kiến đánh giá những mặt tồn tại trong tiểu thuyết Chu Lai. Trong Cuộc trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, các tác giả Hồng Diệu, Thiếu Mai, Lê Thành Nghị đều có đánh giá chung: văn hơi nhiều lời, ngôn ngữ chưa thật chọn lọc công phu, một số chi tiết có vẻ “thô”… Bùi Việt Thắng cũng cho rằng: “có người cho văn Chu Lai …thô…”[83]. Tác giả Ngô Vĩnh Bình cũng nhận xét: “Tuy tác giả đã có những trăn trở, những suy nghĩ mới, tạo ra lối viết mới nhưng đây đó vẫn còn chưa vượt hẳn được lên mình. Đây đó lối kể chuyện còn lộ ý, thiếu tự nhiên, suôn sẻ. Mặt khác (rất Chu Lai) là còn hay “làm dáng” hay pha vào văn cái giọng “cải lương”[5]. Về cách xây dựng nhân vật ở Cuộc đời dài lắm, nhà phê bình Trần Ngọc Vương cho rằng: “Nhà văn chưa “truy bức” nhân vật của mình đến cùng, chưa nhập cuộc với các khả năng mà nhân vật có thể bộc lộ, cả cái xấu với cái tốt, cả người xấu lẫn người tốt…”[25] Các tiểu thuyết của Chu Lai cũng được chọn làm đối tượng nghiên cứu của một số luận văn thạc sĩ như: Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 (Nguyễn Thị Ngọc Diệp), Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Chu Lai (Phạm Thúy Hằng), Cách xử lý đề tài chiến tranh qua hai tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng (Nguyễn Thị Thanh)… Nhìn chung, mỗi luận văn đã đề cập tới một vài phương diện cụ thể của tác phẩm như: cảm hứng, cái nhìn về hiện thực và con người, quan niệm nghệ thuật về con người, một số kiểu loại nhân vật, sự xử lý đề tài chiến tranh… Như vậy, khi phân tích, đánh giá tiểu thuyết Chu Lai, các nhà nghiên cứu, phê bình và công chúng đã có những luồng ý kiến khen chê khác nhau, song phần lớn đều khẳng định vị trí của tiểu thuyết Chu Lai trong nền văn xuôi đương đại. Nhưng để tìm hiểu đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai thì chưa có bài viết hay công trình nghiên cứu nào chuyên biệt. Chính vì lý do đó mà chúng tôi chọn đề tài “Một vài đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai”. Và với những ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu nói trên thì đó là những phát hiện, những gợi ý hết sức quý báu đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài này. 7 Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói vào việc khẳng định sự tìm tòi, đổi mới, sáng tạo về tiểu thuyết Chu Lai và tìm ra một số nét độc đáo, đặc sắc trong đặc điểm tiểu thuyết của nhà văn. 2. Mục đích nghiên cứu Luận văn chọn đề tài: “Một số đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai” nhằm góp phần lý giải vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu về một tác giả tiêu biểu viết về đề tài chiến tranh của văn xuôi Việt Nam đương đại. Từ việc làm rõ những đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai, chúng tôi muốn khẳng định những đóng góp của nhà văn - một cây bút trưởng thành sau 1975 - trong nền văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích, khám phá một số phương diện nổi bật về đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai qua một loạt các tiểu thuyết của nhà văn. Ghi nhận những đóng góp của tiểu thuyết Chu Lai trong nền văn học đương đại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Chu Lai; Các công trình nghiên cứu quan trọng về nhà văn Chu Lai. - Ngoài ra chúng tôi cũng khảo sát thêm một số truyện ngắn của nhà văn và một số tiểu thuyết của các nhà văn cùng thời khác như Bảo Ninh, Lê Lựu, Dương Hướng… để làm nổi bật nét đặc sắc trong phong cách tiểu thuyết Chu Lai. Từ đó giúp cho việc tìm hiểu, đánh giá của luận văn có thêm căn cứ khoa học. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tiểu thuyết Chu Lai biểu hiện nhiều đặc điểm nghệ thuật khác nhau. Mỗi đặc điểm nghệ thuật ấy lại tạo nên một nét đặc sắc và gộp lại thành một phong cách độc đáo. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ đi tìm hiểu ba phương diện được coi là độc đáo, đặc sắc nhất trong hệ thống các đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai, đó là: 8 - Sự đổi mới tiểu thuyết của Chu Lai. - Đề tài chiến tranh và thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai. - Một vài đặc điểm về nghệ thuật thể hiện trong tiểu thuyết Chu Lai như cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu… 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích văn học sử Từ việc trình bày khái quát sự đổi mới trên phương diện lý thuyết, luận văn đi sâu vào phân tích những nét mới trong tiểu thuyết Chu Lai, nằm trong tiến trình đổi mới văn học từ sau năm 1986. - Phương pháp phân tích tác phẩm. Phân tích tác phẩm để nhằm làm rõ những đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai như: đề tài, thế giới nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu,… - Phương pháp so sánh, đối chiếu. Cùng với việc phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Chu Lai, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tiểu thuyết cùng giai đoạn và trước đó, nhằm khẳng định vị trí và giá trị của tác phẩm. - Phương pháp hệ thống. Đề tài được đặt trong hệ thống tác phẩm của Chu Lai để xem xét, đánh giá và phát hiện cách nhìn nhận, thể hiện con người trong quá trình sáng tác của nhà văn. Trong luận văn này, chúng tôi cũng vận dụng một cách hợp lý các hướng nghiên cứu: Phong cách học, thi pháp học, ngôn ngữ học, tự sự học… vào việc khám phá, phát hiện những đặc điểm của tiểu thuyết Chu Lai. 6. Đóng góp mới của luận văn Nghiên cứu một số đặc điểm tiểu thuyết Chu Lai nhằm góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn trong sáng tác, góp phần nhận diện đầy đủ hơn về thế giới nghệ thuật của một trong những cây bút có những đóng góp cho nền văn xuôi hiện đại. Qua đó thấy được sự đổi mới về tư duy nghệ thuật cũng như khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam. 9 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sự đổi mới tiểu thuyết của Chu Lai. Chương 2: Đề tài chiến tranh và thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai. Chương 3: Một vài đặc điểm về nghệ thuật thể hiện trong tiểu thuyết Chu Lai. 10 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 Sù ®æi míi tiÓu thuyÕt chu lai 1.1. Khái lược quá trình đổi mới văn học thời kỳ sau năm 1975 1.1.1. Những chuyển biến trong đời sống xã hội sau năm 1975 và tính tất yếu của công cuộc đổi mới Văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng cũng là một loại hình hoạt động tinh thần đặc thù, lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh và nhận thức hiện thực đời sống theo những quy luật riêng và những sáng tạo in đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ. Như một lẽ tự nhiên, bất kỳ nhà văn nào cũng tồn tại trong lịch sử như một yếu tố của quá trình lịch sử ấy và cũng đồng thời là người tham gia vào quá trình ấy như một nhân tố đặc biệt. Trong quá trình vận động của lịch sử, những nghệ sĩ chân chính bằng cách này hay cách khác đều gắn với những diễn biến chính của thời đại, hay nói như nhà văn hóa Phạm Văn Đồng thì người nghệ sĩ luôn đứng ở trung tâm của những cuộc biến động vĩ đại. Những vận động của lịch sử đã ảnh hưởng lớn đến quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới ở nghệ sĩ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi vào mùa xuân năm 1975 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc. Chiến tranh đã lùi vào quá khứ nhưng hậu quả nặng nề của ngót nửa thế kỷ chiến tranh còn đó, vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống con người thời hậu chiến. Những khó khăn chất chồng, những con người - chủ nhân của thời đại lịch sử mới, lại bộn bề với những lo toan, phải đối mặt với một hiện thực mới đầy biến động, xáo trộn phức tạp. Hàng loạt các vấn đề của cuộc sống thời hậu chiến được đặt ra, đòi hỏi một cách nhìn mới, những nhận thức mới, những cách hành động mới… Sau chiến tranh, đất nước bước vào một giai đoạn mới, thử thách con người ở những điều kiện khác hẳn giai đoạn đã qua. Đó là thời kỳ nền kinh tế - xã hội nước 11 ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp kéo dài ngày càng bộc lộ những khuyết tật. Bên cạnh đó là những tổn thất, mất mát, đau thương trong chiến tranh dần dần toả sức nặng. Do đó, cùng với sự thay đổi mọi mặt trong đời sống xã hội là sự thay đổi ở bề sâu trong tâm lý và nhận thức của con người từ sau năm 1975. Chủ trương đổi mới đất nước được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) với hai quan điểm chỉ đạo mang tính cách mạng về nhận thức: “Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ cho sự thật”. Những quan điểm này đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống xã hội đặc biệt là đời sống văn học nghệ thuật, mở ra một thời kỳ mới cho văn học Việt Nam. Cũng vì thế mà văn học từ sau 1986 có những đổi mới, cách tân rõ rệt trên nhiều phương diện. Trong quá trình đổi mới ấy thì đổi mới tư duy là vấn đề cốt tử. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nêu rõ: “Phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới vượt qua khó khăn”. Phải đổi mới cách làm, cách nghĩ sao cho đúng với quy luật khách quan vốn có của nó. Nói về vấn đề này, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới có cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn như sau: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI”[18, tr.108-114]. Như vậy, những chuyển động trong đời sống xã hội sau năm 1975, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI/1986 là sự đổi mới mang tính tất yếu. Sự đổi mới này là cơ sở, là tiền đề cho sự đổi mới trong đời sống văn học nghệ thuật. 1.1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học Khi hoàn cảnh lịch sử xã hội thay đổi một cách mạnh mẽ và toàn diện, từ mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc chuyển sang xây dựng và phát triển đất nước thì văn học cũng gắn liền với những thay đổi ấy. Sự biến đổi trong sáng tạo nghệ thuật 12 bao giờ cũng do nhu cầu tự thân, do sức tác động tổng hợp của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, tâm lí con người, do sự phát triển về chất của tư duy nghệ thuật. Như GS. Phong Lê nói: “Văn chương cần tự đổi mới, và đổi mới trở thành nhu cầu tự thân. Nó không hoàn toàn chỉ vì một đòi hỏi, một sức ép bên ngoài. Hoặc nếu có sức ép thì cũng phải tìm thấy sự thống nhất hoặc thông qua đòi hỏi bên trong. Và như vậy với công cuộc đổi mới đất nước, văn học đang đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của sự biến đổi”[63, tr.198]. Trước hết, đó là nhu cầu đổi mới từ phía chủ thể sáng tạo. Sự đổi mới của đời sống xã hội sau 1975 khiến các nhà văn thành thực nhận thấy không thể viết theo lối cũ, phải đổi mới, sáng tạo ngay trong cách viết, cách tư duy, tư tưởng nghệ thuật và phương thức biểu hiện. Có thể nói, Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới lớn lao này. Ngay từ những năm chiến tranh, nhà văn đã phát hiện ra những bất cập và hạn chế của văn học cách mạng, văn học kháng chiến. Trong Trang sổ tay viết văn in trên báo Quân đội nhân dân năm 1971, nhà văn đã từng nêu rõ: “Hình như cuộc chiến đấu sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca tráng lên một lớp men trữ tình hơi dày cho nên ngắm nghía nó thấy mỏng manh, bé bỏng, óng chuốt quá, khiến người ta ngờ vực”[8]. Đặc biệt với bài báo Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ (Báo Văn nghệ số 49,50/1987), Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm đánh giá lại văn học giai đoạn 1945-1975, chỉ ra những nhược điểm, hạn chế của nó, đồng thời kêu gọi các văn nghệ sĩ đổi mới sáng tác, kêu gọi sự “cởi trói”, mở rộng quyền tự do sáng tác. Tiếp theo Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến với bài viết Về một đặc điểm của văn học ta trong giai đoạn vừa qua (Báo Văn nghệ số 1/1988) cũng chỉ rõ những bất cập, hạn chế của văn học giai đoạn này và gọi đó là “nền văn học phải đạo”. Nhà nghiên cứu yêu cầu một sự đổi mới thực sự về tư duy, tư tưởng nghệ thuật và đổi mới về đường lối lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn nghệ. Cùng với Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, các nhà văn khác hoặc bằng lối phát biểu trực tiếp hoặc bằng sáng tác, đều thể hiện nhu cầu đổi mới sâu sắc. Nhà văn Nguyễn Khải gọi những sáng tác văn học của giai đoạn trước 1975 là “Cái 13 thời lãng mạn”, Lê Lựu gọi các sáng tác của ông trong thời kỳ văn học kháng chiến là “Văn học công việc”, “Văn học phục vụ”. Hay trong sáng tác của một loạt các nhà văn cùng thời như Dương Hướng, Chu Lai, Khuất Quang Thuỵ, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh,… chúng ta đều thấy có sự đổi mới rõ rệt trong cả nhận thức và quan niệm nghệ thuật. Ngay ở các nhà văn lớp trước - những người trưởng thành trong kháng chiến, nhu cầu đổi mới ngòi bút còn diễn ra mạnh mẽ và sôi nổi thì sự phản ứng của lớp nhà văn trẻ trước khuynh hướng thẩm mỹ cũ, cách viết cũ nhiều khi hơi thái quá là điều dễ hiểu. Nhìn lại văn học 1945-1975, trong Cuộc Hội thảo về tình hinh văn xuôi hôm nay (Báo Văn nghệ số 09/1990), Phạm Thị Hoài cho rằng: “Gần một nửa thế kỷ, văn xuôi chưa có thời kỳ nào tự thoả mãn và dễ thoả mãn như mấy chục năm qua”[27]. Như vậy, nhu cầu đổi mới văn học từ phía các nhà văn đã trở nên hết sức bức xúc. Và đây chính là yếu tố cơ bản, là động lực chính cho sự đổi mới văn học trong mấy chục năm gần đây. Thứ hai: Sự tác động từ phía độc giả đòi hỏi văn học phải tự đổi mới. Theo Lí thuyết tiếp nhận thì tiếp nhận văn học là khâu cuối cùng của việc sáng tạo tác phẩm và người đọc cũng là yếu tố bên trong của quá trình sáng tác. Bởi đối với nhà văn, người đọc bao giờ cũng là hiện thân của nhu cầu xã hội. Trong mọi trường hợp, mỗi khi nói đến người đọc, các nhà văn đều cảm thấy họ “yêu cầu”, “đòi hỏi”, “tin cậy”, “hứng thú”, “phê bình”… Người đọc có mặt ngay khi nhà văn có ý đồ sáng tạo ra tác phẩm. Cũng chính từ người đọc mà các nhà văn tạo ra quan niệm nghệ thuật, định hình cách viết, vì vậy mà sinh thời Bác Hồ luôn nhắc nhở những người cầm bút trước khi viết bao giờ cũng phải xác định: “viết cho ai?”, “viết để làm gì?”, từ đó mới xem “viết cái gì” và “viết như thế nào”. Trong những năm tháng kháng chiến, do những yêu cầu của lịch sử, người đọc thích những tác phẩm mang tính chất sử thi, những tác phẩm nói về cái chung, về sự kiện lịch sử trọng đại, về những con người anh hùng, phi thường… thì sau chiến tranh, cuộc sống dần trở lại với những quy luật bình thường của nó, con người 14 cũng trở về với muôn mặt đời thường, phải đối diện với rất nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Hiện thực cuộc sống mới ấy đã hình thành nên những con người mới với những nhu cầu và thị hiếu thưởng thức văn học mới. Điều đó tác động rất lớn đến sự đổi mới và phát triển của văn học. Người đọc của ngày hôm nay có cái nhìn thực tế hơn, sáng suốt, nhiều chiều hơn. Họ khát khao sự thật, họ muốn tìm hiểu, đào xới, khám phá, phanh phui để hiểu thêm về cuộc sống. Họ muốn tìm ở văn học những vấn đề mang tính chất thời sự của ngày hôm nay nhưng lại có tính phổ quát về các vấn đề thế sự, đời tư, về nhân tình thế thái và vì thế mà văn học lại tiếp tục thay đổi để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu mới của công chúng Như vậy, công chúng với nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ mới tác động tích cực tới sự vận động và đổi mới của văn học. Tuy nhiên, công chúng mới chỉ là một yếu tố còn nhà văn - chủ thể của quá trình sáng tạo, mới là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự đổi mới và phát triển của văn học. Một yếu tố nữa tác động đến sự đổi mới và phát triển của văn học là mối quan hệ giữa nhà văn và công chúng. Trong văn học trước 1975, mỗi nhà văn là một chiến sĩ. Họ viết để động viên, cổ vũ chiến đấu, để tuyên truyền Cách mạng... viết trên lập trường tư tưởng của Đảng và bằng kinh nghiệm của cả cộng đồng nên lập trường tư tưởng của các nhà văn là kiên định và luôn luôn đúng. Ở đó, nhà văn là người phán truyền chân lý, còn người đọc chỉ thụ động tiếp nhận. Trong văn học hôm nay, quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc đã bình đẳng hơn, nhà văn không còn đứng cao hơn người đọc, không áp đặt chân lý, giáo dục người đọc về lẽ sống tình cảm, về tư tưởng hành động… Nhà văn và người đọc bình đẳng trong mọi quan niệm, trong cách nhìn nhận, đánh giá. Ở văn xuôi kháng chiến, tư tưởng trong tác phẩm ít khi là của riêng nhà văn mà là tư tưởng chung của cả cộng đồng, là lập trường tư tưởng của Đảng. Trong văn xuôi sau 1975, với sự dân chủ hoá trong đời sống sáng tác và cuộc sống mới diễn ra phức tạp, bộn bề hơn nên các nhà văn đã nhận thức lại hiện thực, nhìn nhận mọi vấn đề của cuộc sống ở chiều sâu đa diện và quan tâm đến công chúng bạn đọc. Nhìn 15 nhận lại các sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Khải thấy rằng: “Cái thời hăm hở, tự tin, ào ào đã qua đi, giờ phải nói dè dặt hơn và những điều mình nói ra đều không phải là đã đúng cả”(Dẫn theo Nguyễn Văn Long)[64, tr.3]. Chính những thay đổi nói trên đã tạo ra tính chất đa thanh, đối thoại trong tác phẩm bởi lúc này nhân vật không còn là những “cái loa” phát ngôn cho lập trường, tư tưởng của nhà văn mà là ý thức độc lập, có lập trường riêng, có quan niệm, ý kiến riêng. Mặt khác, nhà văn cũng tự thấy mình không phải là người tuyên truyền tư tưởng, quan niệm… mà nhà văn phải là người khơi gợi được những suy nghĩ ở người đọc, để cùng bàn bạc, đối thoại về mọi vấn đề của cuộc sống. Như vậy, đổi mới là nhu cầu thường trực ở mỗi nhà văn, là điều kiện sống còn cho sự tồn tại và phát triển của văn học. Đổi mới để hình thành nên một giai đoạn văn học mới khác hẳn giai đoạn văn học trước đó, với những giá trị thẩm mỹ mới, với tư duy nghệ thuật và hệ thống thi pháp mới. Giai đoạn văn học sau 1975 là kết quả của sự tác động tổng hợp các nhân tố chủ quan và khách quan, là kết quả của quá trình vừa tiếp tục, vừa đổi mới, vừa có yếu tố phủ định văn học 1945-1975, đồng thời cũng có cả sự kế thừa những tinh hoa của truyền thống văn học dân tộc. Trong dòng chảy của quá trình đổi mới văn học ấy, Chu Lai là một trong rất nhiều nhà văn thể hiện khá rõ tinh thần đổi mới trong các tác phẩm của mình, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. 1.2. Sự đổi mới tiểu thuyết Chu Lai 1.2.1. Hành trình sáng tác của Chu Lai Nhà văn Chu Lai tên thật là Chu Ân Lai, sau đổi thành Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946 tại xã Hưng Đạo huyện Phù Tiên tỉnh Hưng Yên (Nay là huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên), Hiện đang sống tại Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha là nhà viết kịch Học Phi, anh trai cũng là nhà viết kịch Hồng Phi. Học hết phổ thông, Chu Lai thi đỗ đại học. Cùng lúc này, đất nước bước vào cuộc kháng chiến trường kì chống Đế quốc Mỹ, cũng như bao thanh niên yêu nước khác, Chu Lai tình nguyện lên đường nhập ngũ khi mới học 16 hết năm thứ nhất đại học. Trong những ngày đầu của cuộc đời người lính, Chu Lai được điều về Đoàn kịch Tổng cục chính trị. Là diễn viên mặc áo lính, với một khuôn mặt chỉ thích hợp đóng những vai phản diện khiến Chu Lai không tự bằng lòng với mình, Chu Lai bỏ nghề diễn nằng nặc nộp đơn xin ra chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu và trở thành chiến sĩ đặc công - một người cầm súng chuyên nghiệp hoạt động ở vùng ven đô Sài Gòn trong những ngày gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ một chiến sĩ quả cảm, Chu Lai đã trở thành một đại đội trưởng đại đội trinh sát, hoạt động và chiến đấu cho đến ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất năm 1975. Cũng có lẽ mầm mống văn chương đã thức dậy và hình thành dần trong ông ở những năm tháng chiến tranh. Sau khi tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du khóa I, ông về công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội cho đến nay. Chu Lai sáng tác từ rất sớm, ngay từ khi 17 tuổi, nhà văn đã cho ra đời vở kịch ngắn Hũ muối người Mơ Nông (1963) được đăng trên tờ báo ngành nhưng không gây được tiếng vang. Phải đến 1975, ông mới chính thức bước chân vào làng văn với truyện ngắn Kỉ niệm vùng ven - đăng trên báo Văn nghệ. Có thể nhận thấy hành trình sáng tác của Chu Lai chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn tiền đổi mới (1975 1986) và giai đoạn đổi mới (1986 đến nay). Giai đoạn từ 1975 - 1986, Chu Lai đã cho ra mắt công chúng với một loạt các tác phẩm: Đôi ngả thời gian (tập truyện - 1975), Người im lặng (tập truyện - 1976), Nắng đồng bằng (tiểu thuyết - 1977), Đêm tháng hai (tiểu thuyết - 1982), Vùng đất xa xăm (tập truyện - 1983), Út Teng (tiểu thuyết - 1983), Gió không thổi từ biển (tiểu thuyết - 1985). Ở những tác phẩm này, mặc dù đã có những đổi mới, nhưng về cơ bản ngòi bút Chu Lai vẫn đi theo quỹ đạo của văn xuôi trước 1975. Cảm hứng chủ đạo của các tác phẩm giai đoạn này là cảm hứng sử thi. Người đọc gặp trong các tác phẩm những cách miêu tả quen thuộc về con người, về người lính ở sự phân định tính cách rõ ràng, ở cốt cách anh hùng trận mạc đã được phổ quát. Nói khái quát hơn, Chu Lai vẫn “đi trên đường ray” đã định sẵn của văn học giai đoạn này, từ cảm hứng chung cho đến cách thức thể hiện. 17 Giai đoạn từ 1986 đến nay, sức sáng tạo của ngòi bút Chu Lai có những thay đổi rất quan trọng. Ở một phương diện nào đó, ngòi bút của ông như được thăng hoa, bùng phát với những đóng góp mới về khám phá hiện thực và con người, đặc biệt là những vấn đề sau chiến tranh. Cùng với những vấn đề nổi cộm của cuộc sống thời hậu chiến, của cơ chế thị trường thời bao cấp, của công cuộc xây dựng đất nước…, Chu Lai đã trình làng một lọat các tiểu thuyết viết về chiến tranh và người lính thời hậu chiến tạo thành “dòng tiểu thuyết chiến tranh và người lính của Chu Lai”, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn xuôi thập niên chín mươi như Sông xa (1986), Bãi bờ hoang lạnh (1990), Vòng tròn bội bạc (1987), Ăn mày dĩ vãng (1991), Phố (1992) , Ba lần và một lần (1999), Cuộc đời dài lắm (2001), Khúc bi tráng cuối cùng (2004), Chỉ còn một lần (2006)…. Có thể nói tiểu thuyết Chu Lai trong những năm của thời kỳ đổi mới đã có những bứt phá trong cách viết để phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ mới của công chúng. Trong tư duy sáng tạo của mình, Chu Lai có xu hướng đi sâu miêu tả nỗi đau trần thế, nỗi đau con người phải chịu đựng, những ẩn ức, những va vấp của con người trong cuộc sống hằng ngày và cả những mặt trái, những góc khuất lấp nhất của hiện thực cuộc sống thời hậu chiến. Nhà văn tập trung khai thác quãng đời tồn tại phía sau chiến trận của người lính và thấy rằng họ là những người đã vượt qua cái chết, đã chiến thắng bom đạn nhưng dường như họ đều mang nặng những hoài niệm, những ẩn ức của một thời đạn bom khói lửa chiến tranh. Tất cả họ đều không yên ổn, đều bị ám ảnh bởi quá khứ và phần nhiều đều vấp phải những bi kịch của cuộc sống mới – bi kịch thân phận khi đối mặt với cuộc sống đời thường, với thế thái nhân tình, với nỗi buồn sau chiến tranh. Là một trong những nhà văn quân đội trưởng thành trong chiến tranh, Chu Lai nổi bật lên với những sáng tác nở rộ vào những năm 1990 của thế kỉ XX và sang cả thế kỉ mới. Trong quá trình đổi mới văn học, so với các nhà văn quân đội cùng thời thì Chu Lai với sự sáng tạo mạnh mẽ, dồi dào, ông đã vươn lên và trở thành một cây bút tiêu biểu, một gương mặt sáng giá trong số họ. 18 Với Chu Lai thì nghề văn với ông chỉ là một công việc bất đắc dĩ nhưng cái nghiệp văn chương thì như đã nhập vào nhà văn ngay từ rất sớm. Chu Lai từng tâm sự rằng cuộc đời trận mạc chỉ cho ông cái cớ, tức là cảm xúc và vốn sống chứ thực ra Chu Lai nhập hồn văn chương từ thủa nhỏ và được hình thành từ trong huyết thống gia đình. Ngay khi còn là một cậu bé lớp 5, Chu Lai đã thích ngồi nghe chuyện đàm đạo về kịch, về văn giữa cha mình với các cụ Thế Lữ, Đào Mộng Long,… Từ một diễn viên trở thành một chiến sĩ đặc công lăn lộn trên chiến trường hơn mười năm, Chu Lai đã tích luỹ được vốn sống vô cùng phong phú và những kinh nghiệm dày dặn. Bước ra từ cuộc chiến, với tài năng, sự lao động sáng tạo không biết mệt mỏi cộng với sự trải nghiệm thực tế, “ông đã trở thành một người lao động cặm cụi khổ đau trên cánh đồng chữ nghĩa” để cho ra mắt bạn đọc hàng loạt các tác phẩm có giá trị và gặt hái được nhiều thành công. Mỗi nhà văn có một thế mạnh riêng, Chu Lai là một nhà tiểu thuyết dù trước đó ông cũng đã từng trải nghiệm qua nhiều thể loại khác như truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim, thậm chí còn “liều mạng” làm cả thơ. Hơn ba mươi năm qua, Chu Lai đã tìm được phong cách riêng cho mình bởi chất giọng sục sôi và khẩu khí của người lính “cứ đùng đoàng như đang đánh trận” trong văn. Chính điều này đã làm cho những tác phẩm của Chu Lai thu hút được sự quan tâm rộng rãi của công chúng và khẳng định được vị trí xứng đáng của nó trong “làng văn” với 4 tác phẩm đoạt giải: Ăn mày dĩ vãng (Giải A của Hội đồng văn học chiến tranh Cách mạng và lực lượng vũ trang Hội nhà văn năm 1993; Giải thưởng văn học Bộ quốc phòng năm 1994), Phố (Giải thưởng tiểu thuyết Nhà xuất bản Hà Nội - 1993), Ba lần và một lần (Tặng thưởng của cuộc thi tiểu thuyết do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức, 1998 - 2000), Cuộc đời dài lắm (Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam 2002). Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 2007 và sau này là Hùng carô (NXB Công an nhân dân - 2009) - một trong mười sáu tác phẩm lọt vào vòng chung khảo Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết về đề tài “An ninh Tổ quốc”. Một số tác phẩm của Chu Lai được chuyển thể thành kịch bản phim truyện truyền hình nhiều tập như Ăn mày dĩ vãng, Phố, Ba lần và một lần, Chỉ còn một lần; kịch bản sân 19 khấu Cái tát sau cánh gà, Ăn mày dĩ vãng là tác phẩm ghi nhận nhiều thành công trong sáng tác. Cuốn tiểu thuyết này được nhà văn viết với cảm xúc say mê, giàu nhiệt huyết và cảm hứng sáng tạo nhưng cũng lắm gian truân. Nhà văn đã từng tâm sự: “Đứa con nào làm người mẹ khổ đau, vất vả nhất thì mẹ sẽ nhớ nhất (không hẳn là những đứa con thành đạt)”. Thế nên với Chu Lai, mỗi đứa con mỗi màu mỗi vẻ nhưng cái đứa bé được sinh ra trong một giai đoạn đời nhọc nhằn nhất mà “thằng bố” là ông, cuốn Ăn mày dĩ vãng, có lẽ ông thương nhất. Vì nó là chính ông. Có lẽ cũng vì thế mà cuốn tiểu thuyết này đã đạt được hai giải thưởng văn học, khi chuyển thành kịch bản sân khấu, điện ảnh cũng giành được những giải thưởng cao. Nghề văn với Chu Lai là “nghề khổ, nghề tự ăn óc mình, ăn thịt mình”, nhưng là một nhà văn sống hết mình với nghề, ông viết để “tri ân đồng đội”, để “neo tâm hồn vào cuộc đời”, ông như con tằm “rút ruột nhả tơ” để tạo nên những tác phẩm có giá trị sâu sắc trong lòng công chúng. Với những thành tựu đã có cho đến hôm nay, Chu Lai đã khẳng định được tài năng sáng tạo của mình trên văn đàn và là một tác giả tiêu biểu của dòng văn học viết về đề tài chiến tranh và người lính trong nền văn học hiện đại Việt Nam. 1.2.2. Những đổi mới của tiểu thuyết Chu Lai Với tinh thần của sự đổi mới, văn xuôi Việt Nam sau 1986 đã có những thay đổi lớn lao. “Cùng với sự đổi mới của các thể loại khác, không thể không nhắc đến vai trò của tiểu thuyết”, “Văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng sẽ là ngọn lửa thắp sáng nền văn học của mỗi dân tộc”[76, tr.204] bởi tiểu thuyết vẫn là thể loại chủ đạo, bộc lộ ưu thế riêng của mình trong “cách nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số phận con người trong sự vận động và phát triển, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của công chúng đương đại. Tiểu thuyết là thể loại lớn tiêu biểu cho loại hình tự sự, “cỗ máy cái” của nền văn học hiện đại. Vì vậy, thông qua sự phát triển của tiểu thuyết, chúng ta có thể đánh giá được sự phát triển của nền văn học. Tiểu thuyết có sự phản ánh, sức truyền tải rất sâu rộng. Nếu ví truyện ngắn là một lát cắt
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan