Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của vịt đốm (pất lài) và con lai giữ...

Tài liệu Một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của vịt đốm (pất lài) và con lai giữa vịt đốm với vịt t14 (cv. super m3) [tt]

.PDF
24
635
107

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong chương trình bảo tồn quỹ gen vật nuôi quý hiếm do Viện Chăn nuôi chủ trì, vịt Đốm - còn được gọi là Pất Lài hoặc vịt Nàng đã được công nhận là một trong 59 giống vật nuôi được bảo tồn và phát triển. Nguyễn Đức Trọng và cs. (2006) đã đánh giávịt Đốm là một giống vịt kiêm dụng trứng thịt, có nhiều đặc điểm quý, cần phải lưu giữ và phát triển. Doãn Văn Xuân và cs. (2011) đã mô tả đặc điểm ngoại hình, theo dõi khối lượng cũng như khả năng đẻ trứng của các đàn vịt Đốm nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên từ 2006 tới 2008. Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) đã chọn lọc vịt Đốm, đánh giá sau 3 thế hệ về các chỉ tiêu: tỷ lệ nuôi sống; khối lượng cơ thể lúc 8 tuần tuổi và vào đẻ; tỷ lệ đẻ; chất lượng trứng; khả năng ấp nở và một số chỉ tiêu mổ khảo sát thịt, đồng thời đã nghiên cứu lai giữa vịt Đốm với vịt Super M3 (T14), theo dõi các con lai về khả năng cho thịt và đẻ trứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên còn chưa mô tả các đặc điểm chi tiết về màu sắc lông, sự phát triển về khối lượng và các chiều đo qua các tuần tuổi; chưa xác định các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu; chưa đánh giá phân tích về khả năng sinh trưởng, cho thịt cũng như chất lượng thịt; chưa theo dõi chi tiết về khả năng sinh sản của vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14. Nghiên cứu lai giữa vịt Đốm với vịt T14 mới mang tính chất thăm dò, chưa định hướng cho việc khai thác sử dụng con lai PT để sản xuất trứng. Để bảo tồn và khai thác nguồn gen vịt Đốm nhằm xây dựng phương hướng phát triển vịt Đốm theo hướng chọn lọc nhân giống thuần chủng và lai với vịt T14, cần có những nghiên cứu bổ sung thêm về các đặc điểm sinh học, các nghiên cứu đánh giá khả năng sinh sản qua một số thế hệ, cũng như các đặc điểm sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của con lai giữa vịt Đốm với vịt T14. Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của vịt Đốm (Pất Lài) và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14 (CV. Super M3)”. 2. Mục đích đề tài Đề tài được thực hiện nhằm bổ sung thêm một số đặc điểm sinh học, đánh giá khả năng sản xuất trứng, khả năng sản xuất thịt, chất lượng thịt của vịt Đốm và con lai giữa 1 vịt Đốm với vịt T14, góp phần khai thác hợp lý nguồn gen vịt Đốm trong sản xuất chăn nuôi. 3. Ý nghĩa khoa học của đề tài - Bổ sung thêm các kết quả về đánh giá ngoại hình, hàm sinh trưởng, các chỉ tiêu sinh lý – sinh hóa máu, chất lượng thịt của vịt Đốm, làm phong phú thêm cơ sở dữ liệu về các giống vịt nội địa của Việt Nam; - Các kết quả thu được về khả năng sản xuất của vịt Đốm, vịt PT đã chọn lọc, khả năng cho thịt và chất lượng thịt của con lai F1 (PT và TP) là căn cứ khoa học cho các hướng nghiên cứu tiếp theo và là nguồn tư liệu phục vụ cho đào tạo và nghiên cứu về chăn nuôi. 4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Góp phần khai thác và phát triển nguồn gen vịt Đốm để có hiệu quả kinh tế. Công tác bảo tồn sẽ có ý nghĩa khi phát triển được vịt lai trong sản xuất. 5. Tính mới của đề tài - Là công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá đầy đủ về ngoại hình, tính năng sản xuất của vịt Đốm trong điều kiện nuôi nhốt và bảo tồn in-situ; - Xác định được các chỉ tiêu sinh lý - sinh hóa máu, các tham số của hàm sinh trưởng đối với vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14; - Đánh giá được khả năng sản xuất của con lai giữa vịt Đốm với vịt T14; - Đánh giá được chất lượng thịt của vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14. 6. Cấu trúc của luận án Luận án gồm 117 trang (không tính Tài liệu tham khảo và Phụ lục), gồm 3 chương, kết luận, đề nghị, 34 bảng số liệu, 15 hình, 116 tài liệu tham khảo (57 tiếng Việt và 59 tiếng nước ngoài) và 8 ảnh minh họa. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên 2 căn cứ khoa học chủ yếu 1) Vấn đề bảo tồn, khai thác phát triển nguồn gen vật nuôi và 2) Các tính trạng khả năng sản xuất của gia cầm nói chung và vịt nói riêng (ngoại hình, khối lượng và kích thước các chiều đo cơ thể, sinh lý sinh hóa máu, năng suất sinh sản, năng suất và chất lượng thịt). 2 1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước Hướng nghiên cứu chọn lọc nhân thuần để tạo các dòng vịt cao sản đồng thời lai giống, lợi dụng các ưu việt của ưu thế lai tạo sản phẩm thịt vịt đáp ứng nhu cầu thị trường hiện đang phổ biến ở các nước trong những năm gần đây. Trong những năm qua, nghiên cứu về chăn nuôi vịt ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, trong đó nhập nội và nghiên cứu các giống vịt nội được quan tâm hàng đầu. Để đáp ứng nhu cầu về giống vịt cho năng suất cao, chúng ta đã nhập rất nhiều giống siêu thịt (SM,SM2, SM2(i), SM3, SM3SH, M14, M15, STAR53, STAR76), siêu trứng (Khaki Campbell, Triết Giang). Các giống này đã được khảo sát, nghiên cứu chọn tạo được một số dòng có năng suất cao, phù hợp với điều kiện sản xuất nước ta cũng như lai tạo với một số giống vịt trong nướcvà phát triển rộng rãi trong sản xuất. Các giống vịt bản địa (Cỏ, Bầu Bến, Kỳ Lừa, Bầu Quỳ) là đối tượng chủ yếu của các nghiên cứu bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gen các giống vịt ở nước ta. Từ năm 2003, vịt Đốm - một giống vịt bản địa của Lạng Sơn – đã trở thành đối tượng của một số nghiên cứu. CHƯƠNG 2:VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Vịt Đốmcó nguồn gốc từ huyện Cao Lộc, Lạng Sơn được nuôi bảo tồn nguồn gen tại Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên từ tháng 9 năm 2003. Vịt T14 là dòng mái của giống vịt siêu thịt CV-Super M3 Super Heavey (SM3CH). Vịt nuôi thịt: vịt Đốm, vịt lai F1: PT và TP, vịt T14. Vịt nuôi sinh sản: Vịt Đốm, Vịt PT đã chọn lọc (trên cơ sở đàn vịt PT, cho tự giao và chọn lọc qua 3 thế hệ theo hướng duy trì màu lông đồng nhất). Tất cả các nhóm vịt trên đều được nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên trong thời gian từ 2011 tới 2014, theo phương thức nuôi nhốt và được chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy trình kỹ thuật chăn nuôi, vệ sinh thú y và quản lý của Trung tâm. 2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu Đề tài luận án bao gồm4 nội dung với các phương pháp nghiên cứu sau: Nội dung1: Một số đặc điểm sinh học của vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14 3 Theo dõi trên 3 nhóm vịt nuôi thịt: Vịt Đốm, vịt lai PT và TP. Mỗi lần thí nghiệm nuôi theo dõi 50 - 55 cá thể của mỗi nhóm, thí nghiệm được lặp lại 2 lần. Các chỉ tiêu theo dõi: - Mô tả ngoại hình, đo kích thước chiều đo các nhóm vịt tại một số thời điểm sinh trưởng. - Sử dụng 6 hàm sinh trưởng (Richards, Gompertz, Logistic, Brody, Bertalanffy và Negative Exponential) khảo sát động thái khối lượng các nhóm vịt từ 1 ngày tuổi tới 10 tuần tuổi. - Phân tích 10 chỉ tiêu sinh lý và 6 chỉ tiêu sinh hóa máu lúc 10 tuần tuổi của vịt nuôi thịt tại Phòng Thí nghiệm Dược lý và Chẩn đoán Thú y, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Nội dung2: Khả năng sinh sản của vịt Đốm và vịt PT đã chọn lọc Trong các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013, số lượng vịt mái Đốm nuôi từ 1 ngày tuổi tới lúc vào đẻ tương ứng là: 145, 71 và 112 con; số lượng vịt mái đẻ nuôi từ lúc vào đẻ đến hết 52 tuần đẻ tương ứng là: 135, 71 và 95 con. Số lượng vịt mái PT đã chọn lọc nuôi từ 1 ngày tuổi tới lúc vào đẻ tương ứng là: 64, 185 và 81 con; số lượng vịt mái đẻ nuôi từ lúc vào đẻ đến hết 52 tuần đẻ tương ứng là: 34, 140 và 38 con. Tỷ lệ ghép trống mái của cả 2 nhóm vịt đẻ này đều là 1/5. Các chỉ tiêu theo dõi: - Khối lượng của vịt mái qua các giai đoạn. - Năng suất và tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng. - Chất lượng trứngở tuần đẻ thứ 37 và 38. - Khả năng ấp nở của 12 đợt ấp nở đối với vịt Đốm và 7đợt đối với vịt PT đã chọn lọc. Nội dung 3: Khả năng cho thịt và chất lượng thịt của vịt Đốm, con lai giữa vịt Đốm với vịt T14 và vịt T14 - Nuôi theo dõi khối lượng, tiêu thụ thức ăn của vịt Đốm,con lai PT, TP và vịt T14từ 1 ngày tuổi (0 tuần) tới 10 tuần tuổi. Mỗi lần 50 - 55 cá thể của mỗi nhóm, thí nghiệm được lặp lại 2 lần với tổng số 100 - 110 vịt/nhóm. - Mổ khảo sát vịt mỗi nhóm 3 trống và 3 mái tại các thời điểm 8, 9 và 10 tuần tuổi. 4 - Phân tích các chỉ tiêu chất lượng thịt ngực và đùi của các nhóm vịt mổ khảo sát tại Phòng Thí nghiệm Bộ môn Di truyền – Giống vật nuôi, Khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Nội dung 4: Xây dựng đàn vịt Đốm hạt nhân và phát triển vịt lai PT đã chọn lọc ra sản xuất - Xây dựng đàn vịt Đốm hạt nhân 250 con tại Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên: Đối với vịt hậu bị: thực hiện chọn lọc bình ổn về khối lượng. Đối với vịt đẻ: theo dõi, đánh giá tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng giống trong 40 tuần đẻ. - Phát triển vịt PT đã chọn lọc ra sản xuất: Tại xã Độc Lập, tại huyện Tràng Định – Lạng Sơn, theo dõi 300 mái đẻ được nuôi nhốt kết hợp chăn thả trong ao vườn nhà theo hướng dẫn kỹ thuật của Trung tâmNghiên cứu Vịt Đại Xuyên. Đánh giá các chỉ tiêu: tỷ lệ đẻ, năng suất trứng, tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng giống và tỷ lệ hao hụt đàn. Xử lý số liệu Các số liệu theo dõi được xử lý bằng phần mềm Excel 2007 và Minitab 16, bao gồm: tính các tham số thống kê, phân tích phương sai 1 yếu tố, so sánh giá trị trung bình theo Tukey, phân tích phương sai 2 yếu tố và tương tác giữa 2 yếu tố bằng thủ tục GLM (General Linear Model).Xác định các hàm sinh trưởng bằng phần mềm Statgraphics. Centerion XV version 15.1.02. CHƯƠNG 3:KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA VỊT ĐỐM VÀ CON LAI GIỮA VỊT ĐỐM VỚI VỊT T14 3.1.1. Một số đặc trưng chủ yếu về ngoại hình của vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14 Về màu lông:khi mới nở, vịt Đốm có lông màu vàng nhạt, phớt đen ở đầu và đuôi. Vịt PT và TP có 4 nhóm màu lông khác nhau: vàng cam, vàng và có khoang đen ở lưng, đen tuyền hoặc vàng nhạt, có phớt đen ở đầu và đuôi; song có các tỷ lệ khác nhau về các màu lông này.Lúc trưởng thành: vịt Đốm mái có màu hoa mơ nhạt; vịt trống có lông xanh đen ở đầu, cổ và dọc lưng giống màu con cò lửa, đuôi có 2-3 lông móc cong. Vịt mái PT và TP: tương ứng với 2 nhóm màu lông đầu tiên khi mới nở sẽ là các màu 5 trắng tuyền, trắng và có khoang đen ở lưng, với 2 màu lông sau cùng sẽ là màu cánh sẻ. Vịt trống PT và TP có màu lông giống vịt trống Đốm. Về màu mỏ và chân:khi mới nở, vịt Đốm có mỏ và chân vàng, có con hơi xám hoặc xám đen. Vịt PT và TP có 4 màu mỏ và chân tương ứng với 4 màu lông đã mô tả ở trên: vàng, vàng có khoang màu xám, vàng và đen có khoang trắng hoặc vàng hơi pha xám.Lúc trưởng thành: vịt Đốm mái có mỏ và chân màu vàng hoặc vàng nhạt, có con màu hơi xám; con trống có mỏ màu xám xanh hoặc vàng, chân màu vàng. Vịt PT và TP: con mái có mỏ và chân màu vàng hoặc vàng nhạt, có con màu hơi xám. Con trống có mỏ màu vàng; chân màu vàng. Về đầu cổ và thân hình:cả 3 nhóm vịt đều có đầu to vừa phải, cổ dài trung bình; thân hình trung gian giữa vịt chuyên thịt và chuyên trứng. Riêng vịt PT đã chọn lọc theo hướng đồng nhất về màu lông nên khi mới nở, vịt có màu vàng nhạt điểm theo các phớt đen ở đầu và đuôi. Khi trưởng thành: Con mái có màu hoa mơ, con trống có màu lông giống vịt trống Đốm, PT và TP. Màu sắc mỏ và chân, đầu cổ cũng như ngoại hình vẫn giống như vịt PT. 3.1.2. Kích thước các chiều đo cơ thể vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14 Tại tất cả các thời điểm theo dõi, các chiều đo của vịt PT và vịt TP hầu như tương đương nhau và đều vượt trội so với vịt Đốm. Lúc 10 tuần tuổi, chiều đo dài thân và vòng ngực vịt PT tương ứng là 26,37 và 32,69cm đối với con mái; 27,63 và 33,67cm đối với con trống. Các chỉ tiêu này là tương đương với vịt TP, tương ứng là: 25,60 và 32,52cm đối với con mái; 27,14 và 33,60cm đối với con trống. Trong khi đó, chiều đo dài thân và vòng ngực vịt Đốm tương ứng là 25,11 và 29,79cm đối với con mái; 25,20 và 29,99cm đối với con trống. Có sự khác biệt rõ rệt giữa con trống và con mái của vịt PT và vịt TP về chiều đo dài thân và vòng ngực ở 8, 9 và 10 tuần tuổi (P<0,05), điều này liên quan tới sự khác biệt về khối lượng giữa 2 loại tính biệt, tuy nhiên lại không có những sự khác biệt này ở vịt Đốm (P>0,05). Tỷ lệ giữa dài thân và vòng ngực ở 10 tuần tuổi của vịt Đốm ở con trống và con mái đều là 0,84; của vịt TP là 0,81 và 0,82; của vịt TP là 0,79 và 0,81. Như vậy, có thể nhận thấy vịt Đốm, vịt PT và vịt TP thể hiện hướng sản xuất trứng thịt. Từ 8 tới 10 tuần tuổi, chiều đo sâu lườn của cả 3 nhóm vịt tăng nhanh hơn so với chiều đo dài lườn, chứng tỏ đây là giai đoạn cơ ngực phát triển mạnh và tỷ lệ thịt ngực 6 sẽ tăng nhanh. Có sự khác biệt rõ rệt giữa con trống và con mái của vịt PT và vịt TP đối với chiều đo dài lườn, chỉ tiêu này liên quan tới sự khác biệt về chiều đo dài thân giữa 2 loại tính biệt đã nêu ở trên. Từ 8 đến 10 tuần tuổi, tốc độ mọc lông cánh của cả 3 nhóm vịt đều khá nhanh, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa con trống và con mái về chỉ tiêu này (P>0,05). Nhìn chung, độ dài lông cánh của 3 nhóm vịt là tương đương với vịt Star 76, chậm hơn vịt CV Super 2, nhưng nhanh hơn so với vịt Triết Giang. 3.1.3. Khảo sát khối lượng vịt Đốm và con lai giữa vịt Đốm với vịt T14 nuôi thịt bằng các hàm sinh trưởng Kết quả khảo sát cho thấy: Hệ số R2 (độ chính xác) của 2 hàm Richards và Gompertz luôn cao nhất (94,4 – 98,0%), tiếp đó là hàm Logistic (94,1 – 97,6%), các hàm Brody, Bertalanffy và Negative Exponential luôn thấp nhất (93,1 – 96,5%).Tham số a (khối lượng tiệm cận) của hàm Richards và Gompertz là những dự đoán tốt đối với khối lượng trưởng thành, còn các hàm Brody, Bertalanffy và Negative Exponential đều cho các giá trị quá lớn. Ngoài ra,2 hàm Brody và Negative Exponential lại không có điểm uốn. Vì vậy, chỉ có 2 hàmRichards và Gompertz là thích hợp nhất để việc mô tả đường cong sinh trưởng của các nhóm vịt. Công thức của hai hàm này như sau: Hàm Richards: Mái Đốm: W = 2005,79*(1-0,01038550*exp(-0,361308*t))^(-1/-0,00271975) Trống Đốm: W = 2163,75*(1-0,01026680*exp(-0,337629*t))^(-1/-0,00270109) Mái PT: W = 2564,36*(1-0,01813350*exp(-0,406818*t))^(-1/-0,00435776) Trống PT: W = 3010,58*(1-0,01957630*exp(-0,351732*t))^(-1/-0,00487175) Mái TP: W = 2498,61*(1-0,01906480*exp(-0,410989*t))^(-1/-0,00447465) Trống TP: W = 3040,40*(1-0,01825440*exp(-0,332259*t))^(-1/-0,00464798) Hàm Gompertz: Mái Đốm: W = 2004,83*exp(-3,83356*exp(-0,362083*t)) Trống Đốm: W = 2162,55*exp(-3,81611*exp(-0,338394*t)) Mái PT: W = 2562,92*exp(-4,18695*exp(-0,408025*t)) Trống PT: W = 3007,87*exp(-4,04695*exp(-0,353067*t)) Mái TP: W = 2496,77*exp(-4,29358*exp(-0,412619*t)) Trống TP: W = 3037,34*exp(-3,95482*exp(-0,333569*t)) 7 Ghi chú: W: Khối lượng vịt (g) t: tuần tuổi exp: hàm số mũ của e Khối lượng trưởng thành, các tính toán về thời gian và khối lượng tại điểm uốn của các hàm Richards và Gompertz được nêu trong bảng 3.1. Điểm uốn của đường cong sinh trưởng là thời điểm chuyển từ pha sinh trưởng nhanh sang pha sinh trưởng chậm. Vịt Đốm có điểm chuyển pha sinh trưởng này ở 3,71 tuần tuổi, nghĩa là lúc 26 ngày tuổi đối với con mái và 3,95 – 3,96 tuần tuổi, nghĩa là 28 ngày tuổi đối với con trống. Tại các thời điểm này, khối lượng của con mái khoảng 740g, khối lượng của con trống đạt khoảng 800g. Thời điểm chuyển pha sinh trưởng ở vịt PT và TP là 25 ngày tuổi đối với con mái và 28 – 29 ngày đối với con trống. Tại các thời điểm này, khối lượng của con mái khoảng 920 - 950g, khối lượng của con trống đạt khoảng 1100 - 1120g. Bảng 3.1. Khối lượng trưởng thành, thời gian và khối lượng tại điểm uốn của hàm Richards và Gompertz Loại vịt Tính biệt Hàm Mái Đốm Trống Mái PT Trống Mái TP Trống Khối lượng Thời gian của trưởng thành (g) điểm uốn (tuần) Khối lượng tại điểm uốn (g) Richards 2005,79 3,71 736,88 Gompertz 2004,83 3,71 737,54 Richards 2163,75 3,95 794,92 Gompertz 2162,55 3,96 795,56 Richards 2564,36 3,50 941,32 Gompertz 2562,92 3,51 942,85 Richards 3010,58 3,95 1104,83 Gompertz 3007,87 3,96 1106,53 Richards 2498,61 3,53 917,13 Gompertz 2496,77 3,53 918,51 Richards 3040,40 4,12 1115,90 Gompertz 3037,34 4,12 1117,38 3.1.4. Một số chỉ tiêu sinh lý và sinh hóa máu của vịt Các kết quả theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu vịt Đốm, Vịt PT và vịt TP được nêu trong bảng 3.2. 8 Nhìn chung, các chỉ tiêu huyết học thể hiện trạng thái sinh lý bình thường của cả 3 nhóm vịt. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hàm lượng hemoglobin của 3 nhóm vịt (P>0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Samour (2008). Tuy số lượng hồng cầu vịt lai PT cao nhất, tiếp đó là vịt Đốm và thấp nhất là vịt TP, nhưng sai khác là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Các số liệu này tuy thấp hơn vịt Cỏ (Nguyễn Văn Ban, 2000), nhưng theo Nguyễn Xuân Tịnh và cs. (1996), số lượng hồng cầu này chứng tỏ sức khỏe của các nhóm vịt là bình thường. Các so sánh giữa 3 nhóm vịt về hàm lượng huyết sắc tố trong hồng cầu, số lượng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu trung tính, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu đơn nhân, tỷ lệ lympho bào trong huyết thanh,số lượng tiểu cầu đều không nhận thấy bất cứ sai khác nàolà có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Các chỉ tiêu này tương đương với kết quả nghiên cứu của Okeudo và cs. (2003), Lương Thị Thủy và cs. (2008) cũng như Ortizo và cs. (2012). Bảng 3.2. Các chỉ tiêu sinh lý sinh hóa máu Đốm PT TP (n = 6) (n = 6) (n = 6) ± SE ± SE ± SE Hemoglobin (g%) 12,40 ± 0,68 12,83 ± 0,68 15,33 ± 0,96 Tỷ khối hồng cầu (%) 42,00 ± 2,23 44,33 ± 2,23 47,67 ± 3,15 3 Số lượng hồng cầu (tr/mm ) 2,56 ± 0,12 2,60 ± 0,12 2,71 ± 0,17 3) Số lượng bạch cầu (ngh/mm 43,12 ± 5,23 42,91 ± 5,23 39,24 ± 7,39 Số lượng tiểu cầu 22,56 ± 3,48 21,13 ± 3,48 18,68 ± 4,92 Lympho bào (%) 43,00 ± 4,71 45,00 ± 4,71 53,67 ± 6,65 Bạch cầu trung tính (%) 53,00 ± 4,42 49,67 ± 4,42 43,00 ± 6,26 Bạch cầu ái toan (%) 2,17 ± 1,04 3,67 ± 1,04 1,33 ± 1,47 Bạch cầu ái kiềm (%) 0,17 ± 0,15 0,17 ± 0,15 0,00 ± 0,22 Bạch cầu đơn nhân (%) 1,50 ± 0,32 1,50 ± 0,32 2,00 ± 0,45 Huyết sắc tố của HC (%) 29,98 ± 1,97 28,87 ± 1,97 32,35 ± 2,78 Huyết sắc tố của HC (pg) 48,77 ± 5,49 50,68 ± 5,49 63,33 ± 7,76 Protein (g/l) 33,92 ± 0,32 33,55 ± 0,30 32,50 ± 0,46 Albumin (g/l) 18,30 ± 0,17 18,12 ± 0,16 17,60 ± 0,24 α1-globulin (g/l) 2,93 ± 0,13 2,90 ± 0,12 2,52 ± 0,18 α2-globulin (g/l) 7,78 ± 0,16 7,58 ± 0,15 7,43 ± 0,23 β-globulin (g/l) 3,93 ± 0,15 3,98 ± 0,14 3,97 ± 0,21 γ-globulin (g/l) 0,97 ± 0,05 0,97 ± 0,04 0,98 ± 0,07 Sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) giữa 3 nhóm vịt về hàm lượng protein cũng như các tiểu phần protein trong máu. Các kết quả thu được này thấp hơn 9 so với các số liệu của Olayemi và cs. (2002). Có thể sự khác biệt về nhiều yếu tố như giống, lứa tuổi, điều kiện nuôi dưỡng… là nguyên nhân của những chênh lệch này. 3.2. KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA VỊT ĐỐM VÀ VỊT PT ĐÃ CHỌN LỌC 3.2.1. Khả năng sinh sản của vịt Đốm Trong 3 năm theo dõi, mặc dù điều kiện thời tiết và chăn nuôi khác nhau, nhưng không có sự khác biệt nhiều về khối lượng của vịt mái hậu bị. Khi bước vào đẻ (22 tuần tuổi), vịt mái Đốm có khối lượng từ 1680 đến 1780g. Kết quả này tương đương với theo dõi của Doãn Văn Xuân và cs. (2011) về khối lượng vịt mái Đốm vào đẻ qua các năm từ 2004 đến 2009. Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) đã chọn lọc vịt Đốm hậu bị theo phương pháp chọn lọc bình ổn về khối lượng từ năm 2005 tới năm 2010 và đã thu được các kết quả cao hơn, nhưng chênh lệch không nhiều. Có thể những khác biệt về điều kiện chăn nuôi là nguyên nhân của sự sai khác về khối lượng ở mức độ nhất định này. Nhìn chung, so với vịt Cỏ (Nguyễn Văn Ban, 2000; Nguyễn Thị Minh, 2011), cùng là giống vịt nội kiêm dụng trứng – thịt, nhưng vịt mái Đốm có khối lượng vào đẻ lớn hơn khoảng 100 đến 150g. Kết quả theo dõi tỷ lệ đẻ của 3 đàn vịt Đốm trong các năm 2011 đến 2013 được minh họa trong hình 3.1. Trong tuần đẻ đầu tiên, tỷ lệ đẻ của vịt Đốm đạt trong khoảng 7 đến 10%, sau đó tăng nhanh, đạt đỉnh đẻ: 64,22% và 72,04% lúc 6 tuần đẻ (năm 2011 – 2012 và 2012 – 2013) hoặc 7 tuần: 60,32% (năm 2010 – 2011). Sau khi đạt đỉnh đẻ, tỷ lệ đẻ của vịt Đốm giảm xuống và dao động trong một số tuần. Sau đó tỷ lệ đẻ của vịt tăng dần lên và đạt đỉnh đẻ lần thứ hai: 56,80% ở tuần đẻ 33; 61,47% ở tuần đẻ 29 và 64,69 % ở tuần đẻ 34 tương ứng với các năm 2010 – 2011; 2011 – 2012 và 2012 – 2013.Sau khi đạt đỉnh đẻ lần thứ hai, tỷ lệ đẻ của vịt dao động và giảm cho tới cuối chu kỳ đẻ trứng. Diễn biến về tỷ lệ đẻ trong một chu kỳ đẻ trứng của vịt Đốm nêu trên tương tự như diễn biến tỷ lệ đẻ của vịt Cỏ (Nguyễn Thị Minh và cs., 2011). Nguyên nhân của hiện tượng này là do tập tính đẻ trứng theo mùa vụ của vịt nội đã hình thành từ lâu đời theo tập quán canh tác trồng lúa 2 vụ kết hợp với nuôi vịt đẻ chăn thả để tận thu nguồn thóc rơi vãi sau 2 vụ thu hoạch. Theo dõi về tỷ lệ đẻ trên các giống vịt nhập ngoại như vịt hướng trứng Khaki Campbell (Nguyễn Hồng Vĩ và cs., 2011), Star 13 (Nguyễn Thị Minh và cs., 2011) hoặc hướng thịt như M14 (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011) đều không nhận thấy quy luật này. 10 Tỷ lệ đẻ trung bình của các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 lần lượt là: 39,13; 44,06 và 46,94, trong đó tỷ lệ đẻ của 2 năm 2011 – 2012 và 2012 – 2013 là tương đương nhau (P>0,05) và đều cao hơn rõ rệt so với năm 2010 – 2011 (P<0,05). Các tỷ lệ đẻ của vịt Đốm là tương đương với theo dõi của Doãn Văn Xuân và cs. (2008) cũng như của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011). Nhìn chung tỷ lệ đẻ của vịt Đốm thấp hơn so với vịt Cỏ khoảng 14% (Nguyễn Thị Minh và cs., 2011) và tương đương với vịt Bầu Bến (Nguyễn Đức Trọng, 2011). Năng suất trứng của một chu kỳ đẻ của vịt Đốm trong các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 lần lượt là 142,43; 160,38 và 170,85 quả/mái/năm. Các số liệu này là tương đương với các kết quả nghiên cứu của Doãn Văn Xuân và cs. (2008), Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011). Nhìn chung, vịt Đốm có năng suất trứng tương đương vịt Bầu Bến, thấp hơn so với vịt Cỏ. Mặc dù chưa chọn lọc nhằm ổn định và nâng cao năng suất trứng, nhưng trong 2 năm gần đây, năng suất trứng của vịt Đốm đã có xu hướng tăng lên. Kết quả theo dõi, tính toán hiệu quả sử dụng thức ăn của vịt Đốm trong 3 năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 được minh họa trong hình 3.2. Hình 3.1. Tỷ lệ đẻ của vịt Đốm Trong tuần đẻ đầu tiên, do tỷ lệ đẻ mới chỉ đạt ngưỡng trên 5% nên tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng trong các năm của vịt Đốm đều khá cao. Trong các tuần đẻ tiếp 11 theo, do tỷ lệ đẻ tăng lên, tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng cũng giảm đi. Nhìn chung diễn biến của tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng giống là tương ứng với tỷ lệ đẻ của đàn mái: tỷ lệ đẻ cao, tiêu tốn thức ăn thấp và ngược lại. Bình quân chung cho toàn chu kỳ đẻ trứng, tiêu tốn thức ăn của các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 của vịt Đốm tương ứng là 5,47; 4,29 và 5,43 kg thức ăn/10 quả trứng giống. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng trong năm 2012 – 2013 là cao nhất, nhưng mức tiêu tốn thức ăn lại cao hơn năm 2011 – 2012. Nguyên nhân là do ảnh hưởng bất lợi của thời tiết cũng như một vài yếu tố liên quan tới chất lượng thức ăn mà tỷ lệ đẻ trong các tuần đẻ từ 20 tới 30 của đàn vịt nuôi trong năm 2012 – 2013 bị giảm sút rất rõ, tiêu tốn thức ăn trong giai đoạn này khá cao làm tăng mức tiêu tốn thức ăn chung của cả năm 2012 – 2013. Hình 3.2. Tiêu tốn thức ăn của vịt Đốm Theo dõi các chỉ tiêu về chất lượng trứng cho thấy: Khối lượng trứng trung bình của vịt Đốm (Bảng 3.3) cao hơn so với vịt Triết Giang: 62,29g(Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011) và vịt Cỏ: 64,3g (Nguyễn Thị Minh và cs., 2011) cũng như vịt Bầu Bến: 66,30g (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011), vịt Nageswari: 62,45g(Sharma và cs., 2002) và tương đương với vịt Khakhi Campbell: 67,03g(Lê Thị Phiên và cs., 2011). Vịt Đốm có chỉ số hình thái trứng 1,49, cao hơn so với vịt Cỏ: 1,39 – 1,43(Nguyễn Thị Minh và cs., 2011), vịt CV Super M: 1,41 (Nguyễn Ngọc Dụng và cs., 2008). Như 12 vậy, trứng vịt Đốm có hình dạng hơi dài, nhưng vẫn nằm trong khoảng trung bình của tiêu chuẩn trứng ấp nở (King và Henderson, 1954). Tỷ lệ lòng đỏ của vịt Đốm là tương đương với vịt Triết Giang: 33,0 33,5%(Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011), thấp hơn vịt Khakhi Campbell: 34,14 – 35,35(Nguyễn Thị Phiên và cs., 2006). Tỷ lệ lòng trắng của vịt Đốm là tương đương với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011): 51,7% đối với vịt Đốm và 52,0% đối với vịt Bầu Bến. Các chỉ tiêu chỉ số và màu lòng đỏ của vịt Đốm không khác biệt nhiều so với các kết quả của Adamski và cs. (2005) cũng như Kokoszyski và cs. (2007) nghiên cứu trên vịt Bắc Kinh. Bảng 3.3. Chất lượng trứng vịt Đốm (n = 32) ± Khối lượng trứng (g) 68,04 ± Chỉ số hình thái 1,49 ± Tỷ lệ lòng đỏ (%) 31,50 ± Tỷ lệ lòng trắng (%) 52,07 ± Tỷ lệ vỏ (%) 16,43 ± Chỉ số lòng đỏ 0,44 ± Màu lòng đỏ 9,65 ± Chỉ số lòng trắng 0,107 ± Dày vỏ (đầu to) (mm) 0,33 ± Dày vỏ (xích đạo) (mm) 0,35 ± Dày vỏ (đầu nhỏ) (mm) 0,34 ± Đơn vị Haugh 79,84 ± Độ dày vỏ trứng của vịt Đốm là tương đương với vịt SE Cv (%) 0,88 7,27 0,09 35,48 0,61 10,96 0,77 8,36 0,28 9,67 0,004 5,65 0,17 9,85 0,001 11,37 0,007 12,02 0,008 13,14 0,007 11,93 1,21 8,42 Triết Giang: 0,336 - 0,350mm (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011), vịt Cỏ: 0,260 - 0,365mm (Nguyễn Thị Minh và cs., 2011). Đơn vị Haugh là hơi thấp hơn so với vịt Triết Giang: 89,96 91,27(Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011), tương đương vịt Cỏ: 82,3 - 85,2(Nguyễn Thị Minh và cs., 2011) cũng như vịt Nageswari: 73,1 (Shamar và cs., 2002). Một số chỉ tiêu theo dõi của 12 đợt ấp trứng vịt Đốm như sau: Tỷ lệ trứng có phôi: 93,57%, tỷ lệ nở/trứng có phôi: 83,43%, tỷ lệ nở/trứng ấp: 78,07% và tỷ lệ vịt loại 1/số vịt nở: 95,94%. Các kết quả này hơi thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Đức Trọng (2006, 2011) trên Bầu Bến và vịt Đốm. Có rất nhiều nguyên nhân của sự khác biệt này, bao gồm: tỷ lệ trống mái thích hợp, ảnh hưởng của thời tiết, mùa vụ,… 3.2.2. Khả năng sinh sản của vịt PT đã chọn lọc 13 Khối lượng vịt mái PT đã chọn lọc trong 3 năm từ 2011 đến 2013 lúc mới nở đạt từ 48,79 đến 50,39g;lúc 22 tuần tuổi (vào đẻ) đạt từ 2461,55 đến 2490,25g, khác biệt giữa các năm là không lớn. So với vịt Đốm, khối lượng của vịt PT đã chọn lọc khi mới nở cao hơn khoảng 20%. Chênh lệch về khối lượng tăng dần theo tuần tuổi, đến khi vào đẻ, vịt mái PT đã chọn lọc có khối lượng cao hơn so với vịt Đốm khoảng 40%, song nhìn chung thấp hơn một ít so vớikết quả nghiên cứutrên vịt PT của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011).Sự khác nhau về điều kiện chăn nuôi, chủ yếu là chế độ nuôi và thời tiết của các năm là nguyên nhân của sự khác biệt này. Các kết quả theo dõi về tỷ lệ đẻ và tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng giống của vịt PT đã chọn lọc được minh họa trong các hình 3.3 và 3.4. Hình 3.3. Tỷ lệ đẻ của vịt PT đã chọn lọc Trong tuần đẻ đầu tiên, tỷ lệ đẻ của vịt PT đã chọn lọc đạt trong khoảng từ 9,24 đến 11,93 quả/mái/tuần. Vịt đạt đỉnh đẻ vào các tuần đẻ thứ 6 (86,13% đối với năm 2010 – 2011), thứ 7 (92,65% đối với năm 2011 – 2012) hoặc thứ 8 (83,58% đối với năm 2012 – 2013). Sau đỉnh đẻ, tỷ lệ đẻ dao động và có xu hướng giảm xuống, đạt mức thấp nhất là 46,75% đối với năm 2010 – 2011, 46,38% đối với năm 2011 – 2012 và 67,76% đối với năm 2012 – 2013. Sau mức thấp nhất này, tỷ lệ đẻ tăng lên, dao động và kết thúc ở 52 tuần đẻ tương ứng với các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 là 63,49; 76,02 và 72,25%. 14 So với vịt Đốm, tỷ lệ đẻ của vịt PT đã chọn lọc cao hơn rõ rệt. Tại đỉnh đẻ, vịt Đốm chỉ đạt mức từ 60 tới 72%, trong khi đó vịt PT đã chọn lọc đạt từ 83,58 đến 92,65%. Ở tuần đẻ thứ 52, vịt Đốm chỉ đạt tỷ lệ đẻ từ 17,21 đến 30,96%, trong khi đó vịt PT đã chọn lọc có tỷ lệ đẻ lúc này là 63,05 – 75,59%. Tỷ lệ đẻ trung bình trong 52 tuần của vịt PT đã chọn lọc trong các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 lần lượt là: 66,55; 76,02 và 72,25%, trong khi đó vịt Đốm chỉ đạt 39 – 47%. Như vậy, cùng một điều kiện chăn nuôi tương tự nhau, so với vịt Đốm, tỷ lệ đẻ của vịt PT đã chọn lọc cao hơn khoảng 28 – 29%. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ đẻ của vịt PT cũng phù hợp theo dõi trên con lai này của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011): 67,8% trong 52 tuần đẻ.So với các số liệu thu được trên vịt Triết Giang, cũng như các tổ hợp lai giữa vịt Cỏ và vịt Triết Giang của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011), tỷ lệ đẻ của vịt PT đã chọn lọc chỉ thua kém từ 2 đến 5%. Sau 52 tuần đẻ, vịt PT đã chọn lọc đạt năng suất bình quân 242,79 quả/mái. Kết quả này tương đương với số liệu Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011): vịt PT đạt 246,9 quả/mái. So với vịt Đốm, năng suất trứng của vịt PT đã chọn lọc tăng thêm khoảng từ 70 đến 100 quả/mái.So với các kết quả theo dõi của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) trên vịt Triết Giang và các tổ hợp lai với vịt Cỏ, năng suất trứng của vịt PT đã chọn lọc thấp hơn hơn các nhóm vịt này từ 12 đến 40 quả/mái/năm. So sánh tại cùng thời gian theo dõi là 42 tuần đẻ trứng với các số liệu mà Nguyễn Văn Duy (2012) đã công bố về 2 dòng vịt MT1 và MT2, tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của vịt PT đã chọn lọc trong thí nghiệm của chúng tôi là tương đương, tuy nhiên mức tiêu tốn thức ăn là cao hơn một ít. Khác biệt về điều kiện chăn nuôi và tỷ lệ trống mái là nguyên nhân của sự chênh lệch này. Kết quả theo dõi tiêu tốn thức ăn được minh họa trong hình 3.4. Trong tuần đẻ đầu tiên, mức tiêu tốn rất cao: từ 18,27 đến 34,00 kg. Nguyên nhân là do tỷ lệ đẻ của vịt còn thấp (9,24 – 11,93%) và khối lượng của vịt PT đã chọn lọc tương đối lớn so với vịt Đốm hoặc một vài dòng vịt chuyên trứng khác như Triết Giang (1,2 – 1,3kg) hoặc Khaki Campbell (1,5 – 1,8kg). 15 Hình 3.4. Tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng giống của vịt PT đã chọn lọc Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng giống trung bình trong 52 tuần đẻ trứng của vịt PT đã chọn lọc của các năm 2010 – 2011, 2011 – 2012 và 2012 – 2013 tương ứng là: 4,85; 3,25 và 3,65 kg thức ăn/10 quả trứng giống. Kết quả nêu trên cao hơn so với số liệu thu được của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) đối với vịt PT là 3,78 kg thức ăn/10 quả trứng. Mặc dù tỷ lệ đẻ và năng suất trứng là tương đương, nhưng mức tiêu tốn thức ăn cao hơn là do việc nuôi ghép chung trống mái và tỷ lệ trống:mái thấp trong nghiên cứu này. Các chỉ tiêu về chất lượng trứng cho thấy: Khối lượng trứng trung bình của vịt PT đã chọn lọc (Bảng 3.4) nặng hơn 15,98g hoặc khoảng 23,4% so với vịt Đốm. Vịt PT có khối lượng trứng thấp hơn một chút so với vịt TH5 và TH6 thuộc dòng mái T6 (87,51 và 86,73 g/quả). Chỉ số hình thái trứng vịt PT đã chọn lọc nằm trong khoảng dao động trứng giống của gia cầm, thấp hơn vịt Đốm và tương đương với vịt CV Super (1,41 theo Nguyễn Ngọc Dụng và cs., 2008). Nghiên cứu của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) về các chỉ tiêu chất lượng trứng của vịt PT cũng thu được các số liệu tương tự. Nhìn chung, các số liệu về chất lượng trứng vịt PT đã chọn lọc đều tương đương với các số liệu liên quan đến chất lượng trứng vịt của nhiều giống vịt đã được công bố. Số liệu thu được qua theo dõi 7 đợt ấp cho thấy: Tỷ lệ trứng có phôi: 90,85%, tỷ lệ nở so với tổng số trứng có phôi: 84,52%, so với tổng số trứng ấp: 76,79%. Tỷ lệ trứng 16 có phôi thấp hơn một ít và tỷ lệ trứng chết phôi cao hơn một ít so với vịt Đốm (tương ứng là 2,72 và 4,28%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các tỷ lệ nêu trên so với vịt Đốm và các chỉ tiêu ấp nở là đạt yêu cầu so với quy trình kỹ thuật của Trung tâm. Bảng 3.4. Chất lượng trứng vịt PT đã chọn lọc (n = 100) Khối lượng trứng (g) Chỉ số hình thái Tỷ lệ lòng đỏ (%) Tỷ lệ lòng trắng (%) Tỷ lệ vỏ (%) Chỉ số lòng đỏ Màu lòng đỏ Chỉ số lòng trắng Dày vỏ (đầu to) (mm) Dày vỏ (xích đạo) (mm) Dày vỏ (đầu nhỏ) (mm) Đơn vị Haugh 84,38 1,40 32,30 57,15 10,55 0,43 12,72 0,090 0.37 0.37 0.37 91,30 ± SE ± ± ± ± ± ± ± ± ± ± ± ± 0,58 0,00 0,29 0,29 0,09 0,00 0,06 0,002 0.01 0.01 0.01 0,55 Cv (%) 6,96 3,31 9,09 5,14 8,47 6,47 4,60 17,62 17.27 16.21 16.00 6,07 3.3. NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA VỊT ĐỐM, CON LAI GIỮA VỊT ĐỐM VỚI VỊT T14 VÀ VỊT t14 3.3.1. Sinh trưởng của các nhóm vịt thịt Kết quả theo dõi khối lượng vịt Đốm, vịt PT và vịt TP được nêu trong bảng 3.5. Kết quả phân tích phương sai 2 yếu tố (nhóm vịt và tuần tuổi) nhận thấy: ở tất cả các tuần tuổi khác nhau, sự khác biệt về khối lượng giữa 3 nhóm vịt là có ý nghĩa thống kê (P<0,001). Trong khi đó, sai khác về tính biệt của 3 nhóm vịt chỉ bắt đầu xuất hiện ở tuần tuổi thứ 6, thứ 7 (P<0,05). Mức độ sai khác tăng lên ở tuần tuổi thứ 8 (P<0,01) và ở tuần tuổi 9, 10 mức độ sai khác là P<0,001. Ở tất cả các tuần tuổi đều không có sự tương tác giữa 2 yếu tố giống và tính biệt (P>0,05). Đối với con trống cũng như con mái, khối lượng mới nở của vịt PT luôn cao hơn rõ rệt so với con lai TP (P<0,05). Nguyên nhân do trứng của con lai PT là trứng của vịt mái T14 vốn có khối lượng lớn hơn so trứng của vịt mái Đốm. Sự chênh lệch này là một minh chứng cho ảnh hưởng của cơ thể mẹ đối với sự sinh trưởng của cá thể. 17 Vịt Đốm Vịt PT Vịt TP Vịt T14 (n=91) (n=92) (n=96) (n=85) (mái:45, trống:46) (mái:45, trống:47) (mái:47, trống:49) (mái:44, trống:41) tuổi Tuần tuổi Bảng 3.5. Khối lượng của 4 nhóm vịt qua các tuần tuổi (g) ± SE ± SE ± SE ± SE 0 44,56c ± 0,57 53,58b ± 0,46 42,96c ± 0,46 56,00a ± 0,79 1 119,80b ± 1,70 152,16a ± 2,22 141,92b ± 2,05 157,93a ± 3,32 2 310,18d ± 4,36 405,40b ± 3,84 379,15c ± 3,75 442,02a ± 8,26 3 568,42c ± 8,30 745,05b ± 7,05 727,27b ± 8,70 824,90a ± 12,90 4 819,40d ± 11,30 1146,10b ± 7,88 1108,50c ± 9,50 1334,20a ± 16,00 5 1051,10d ± 13,20 1492,40b ± 11,10 1441,40c ± 13,50 1784,40a ± 20,00 6 1298,40c ± 16,30 1786,20b ± 12,90 1736,00b ± 15,50 2132,60a ± 28,60 7 1506,50c ± 17,70 2088,10b ± 15,70 2031,10b ± 19,10 2571,30a ± 34,40 8 1659,40c ± 16,60 2301,20b ± 19,40 2219,00b ± 29,50 2851,70a ± 37,50 9 1733,70c ± 16,90 2381,20b ± 24,70 2343,60b ± 28,40 2952,60a ± 42,70 10 1882,50c ± 26,00 2556,80b ± 28,20 2525,10b ± 33,60 3134,50a ± 56,00 Ghi chú: Các giá trị trung bình trên cùng một hàng nếu có chữ a, b khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Tại các thời điểm theo dõi cũng như kết thúc nuôi thịt, khối lượng vịt Đốm luôn thấp nhất (P<0,05), vịt T14 luôn cao nhất (P<0,05), hai con lai PT và TP ở mức trung gian của bố và mẹ. Do khối lượng mới nở của con lai PT cao hơn so với con lai TP nên ở các lứa tuổi tiếp theo, con lai PT có khối lượng trung bình cao hơn con lai TP, nhưng sai khác giữa 2 nhóm con lai này chỉ có ý nghĩa thống kê ở một vài tuần tuổi nhất định, còn nhìn chung là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Như vậy, trong trường hợp này, ảnh hưởng của cơ thể mẹ chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ đầu tiên của đời sống cá thể, những yếu tố của môi trường dần dần đã làm mất đi ảnh hưởng đó. Theo Nguyễn Đức Trọng (2011), khối lượng trung bình của con lai TP cao hơn con lai PT, nhưng sự khác biệt giữa 2 nhóm con lai này không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Các tính toán về ưu thế lai chung (chênh lệch của giá trị trung bình của con lai thuận và nghịch so với trung bình bố và mẹ) và ưu thế lai riêng cho từng con lai PT và TP (chênh lệch của giá trị trung bình của từng con lai so với trung bình bố và mẹ) cho thấy: 18 Ưu thế lai chung xuất hiện từ tuần tuổi thứ 1 đến tuần tuổi thứ 7, mức độ đạt được của ưu thế lai chung cao nhất là 5,41% (tuần tuổi thứ 1 và thứ 3), thấp nhất đạt 0,6% (tuần tuổi thứ 7). Khi vịt mới nở cũng như ở các tuần nuôi cuối, không có biểu hiện của ưu thế lai chung. Điều này cho thấy cần nghiên cứu các chế độ dinh dưỡng thích hợp nhằm phát huy ưu thế lai của tổ hợp lai giữa vịt Đốm với vịt T14. Do khối lượng vịt PT ở các lứa tuổi thường lớn hơn vịt TP một chút, nên ưu thế lai của vịt PT tỏ ra vượt trội hơn so với vịt TP. Ưu thế lai cao nhất tương ứng là 9,09% đối với vịt PT lúc 1 tuần tuổi và 4,13% đối với vịt TP lúc 3 tuần tuổi. Thời gian nuôi tăng lên, ưu thế lai của cả vịt PT và vịt TP đều giảm dần. Trong các tuần nuôi cuối, hầu như không còn biểu hiện ưu thế lai. Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) cho rằng con lai TP có ưu thế lai âm lúc 1 và 2 tuần tuổi, trong khi đó con lai PT không có ưu thế lai lúc 1 tuần tuổi và có ưu thế lai là 6% lúc 2 tuần tuổi. Tuy nhiên, ở các lứa tuổi tiếp theo, cả 2 loại con lai đều có biểu hiện ưu thế lai và con lai TP có ưu thế lai cao hơn so với ưu thế lai của con lai PT. Có lẽ những sự khác biệt nhất định về điều kiện chăn nuôi đã tạo ra những biểu hiện trái chiều ở mức độ nhất định này về ưu thế lai. 3.3.1. Tiêu tốn thức ăn của các nhóm vịt thịt Các số liệu theo dõi giai đoạn nuôi từ 0 đến 8 tuần tuổi cho thấy: mức tiêu tốn thức ăn trung bình của vịt Đốm, vịt lai PT, TP và vịt T14 lần lượt là: 2,40; 2,31;2,33 và 2,14 kg thức ăn/kg tăng khối lượng. Từ 0 đến 9 tuần tuổi: mức tiêu tốn thức ăn trung bình của vịt Đốm, vịt lai PT, TP và vịt T14 lần lượt là: 2,69; 2,64; 2,64 và 2,42 kg thức ăn/kg tăng khối lượng. Từ 0 đến 10 tuần tuổi: mức tiêu tốn thức ăn trung bình của vịt Đốm, vịt lai PT, TP và vịt T14 lần lượt là: 2,90; 2,86 và 2,86 và 2,70 kg thức ăn/kg tăng khối lượng. Như vậy, từ 8 đến 10 tuần tuổi, khả năng tiêu thụ thức ăn của các nhóm vịt và mức tiêu tốn thức ăn cho mỗi kg tăng khối lượng của cả 4 nhóm vịt đều tăng lên.Các kết quả trên tương đương với số liệu theo dõi về mức tiêu tốn thức ăn của các nhóm vịt Đốm, PT, TP và T14 của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011). 3.3.3. Năng suất và chất lượng thịt của các nhóm vịt thịt Các chỉ tiêu theo dõi chính về kết quả mổ khảo sát vịt thí nghiệm được nêu trong bảng 3.6.Kết quả cho thấy không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thịt xẻ giữa 19 các tuần tuổi của từng nhóm vịt (P>0,05). Sai khác về tỷ lệ thịt xẻ giữa 4 nhóm vịt chỉ nhận thấy lúc 9 tuần tuổi, cao nhất là vịt T14, thấp nhất là vịt Đốm (P<0,05). Các số liệu theo dõi của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) về khối lượng giết mổ và tỷ lệ thịt xẻ ở các tuần tuổi tương đương cho thấy vịt Đốm có khối lượng tương đương, nhưng tỷ lệ thịt thấp hơn. Vịt PT, TP có khối lượng cao hơn, nhưng tỷ lệ thịt đều thấp hơn, vịt T14 có khối lượng cao hơn và tỷ lệ thịt xẻ cũng cao hơn. Có lẽ điều kiện chăn nuôi và tác động chọn lọc sau vài thế hệ đối với vịt Đốm đã gây ra những sự khác biệt nhất định nêu trên. Đối với cả 4 nhóm vịt, từ 8 đến 10 tuần tuổi, tỷ lệ thịt lườn tăng dần lên, trong khi đó tỷ lệ thịt đùi giảm dần đi. Sự tăng, giảm này rõ rệt nhất ở con lai TP và vịt Đốm (P<0,05), không có sự tăng giảm theo tuần tuổi một cách rõ rệt đối với con lai PT (P>0,05). Sự tăng giảm đó cũng được Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011) xác nhận khi theo dõi các tổ hợp lai này. Bảng 3.6. Kết quả mổ khảo sát 4 nhóm vịt Tuần tuổi KL sống (g) Tỷ lệ thịt xẻ (%) Tỷ lệ thịt lườn (%) Tỷ lệ thịt đùi (%) Tỷ lệ mỡ bụng (%) 8 9 10 8 9 10 8 9 10 8 9 10 8 9 10 Đốm PT TP T14 (n = 6 (n = 6 (n = 6 (n = 6 ở mỗi tuần tuổi) ở mỗi tuần tuổi) ở mỗi tuần tuổi) ở mỗi tuần tuổi) ± SE ± SE ± SE ± SE 1641,80c ± 43,60 2274,60b ± 68,90 2222,60b ± 68,00 2843,30a ± 64,40 1700,40c ± 17,70 2348,60b ± 52,60 2296,20b ± 63,20 2942,00a ± 50,30 1760,50c ± 38,20 2457,10b ± 62,50 2466,20b ± 83,70 3187,30a ± 49,50 67,47 ± 1,19 70,74 ± 1,47 70,00 ± 1,09 69,52 ± 2,38 67,09b ± 0,63 71,41a ± 1,30 71,19ab ± 1,29 73,46a ± 1,14 67,33 ± 0,95 69,93 ± 0,96 67,65 ± 1,05 71,17 ± 1,36 b ab b 11,78 ± 1,18 15,51 ± 1,03 14,99 ± 0,52 19,02a ± 1,12 d c b 12,40 ± 0,21 15,64 ± 0,42 17,68 ± 0,51 20,64a ± 0,33 14,11c ± 0,24 17,07b ± 0,38 17,69b ± 0,53 22,06a ± 0,48 14,59a ± 0,40 13,24ab ± 0,44 13,02b ± 0,24 13,49ab ± 0,36 13,01 ± 0,49 12,75 ± 0,41 12,27 ± 0,21 12,28 ± 0,30 12,29 ± 0,25 12,16 ± 0,54 11,50 ± 0,31 11,85 ± 0,28 0,52 ± 0,11 0,59 ± 0,06 0,50 ± 0,09 0,56 ± 0,09 0,86 ± 0,21 0,58 ± 0,11 0,44 ± 0,08 0,51 ± 0,10 0,72 ± 0,18 0,83 ± 0,13 0,82 ± 0,23 0,70 ± 0,06 Ghi chú: Các giá trị trung bình trên cùng một hàng nếu có chữ a, b, c khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Tỷ lệ thịt lườn của vịt Đốm luôn thấp nhất, không có sự sai khác rõ rệt giữa 2 con lai PT và TP. Lúc 8 tuần tuổi, tỷ lệ thịt đùi vịt Đốm đạt cao nhất, tuy nhiên không có sai khác rõ rệt về tỷ lệ thịt đùi giữa các nhóm vịt này ở các tuần tuổi 9 và 10. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất