Một số biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
“ Giao tiếp với mọi người là mô ôt nghê ô thuâ ôt mà không phải ai cũng
nắm bắt được. Bất kỳ ai cũng phải học điều đó”
I.Cvapilic
Giao tiếp là mô ôt hoạt đô nô g không thể thiếu trong cuô ôc sống hằng
ngày, nhờ có giao tiếp mà tâm lý người được hình thành và phát triển. Đặc
biệt, KNGT được coi là chìa khóa mở cánh cửa thành công cho mỗi con
người. Để đem lại sự thành công lớn cho cuộc sống và hoạt động học tập, mỗi
người phải tự tìm hiểu, học hỏi và rèn luyện để hình thành KNGT.
Đối với trẻ mầm non cũng vậy, giao tiếp có vai trò hết sức quan trọng
đối với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ. Đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu nghiên cứu về KNGT dành cho trẻ mầm non. Qua các công trình nghiên
cứu đã khẳng định rằng giao tiếp đã thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của
trẻ. Viê ôc hình thành các quan hê ô có nô ôi dung với người lớn cho phép trẻ
khắc phục những bất lợi của hoàn cảnh, loại bỏ và sửa chữa được những lê ôch
lạc do giáo dục không đúng và chiếm lĩnh những tầm cao mới trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống tâm lí từ tri giác, ngôn ngữ đến ý thức, nhân cách.
Và những đă cô điểm giao tiếp giữa người lớn và trẻ quyết định toàn bô ô hứng
thú của trẻ đối với xung quanh, quan hê ô với người khác và với bản thân mình
quyết định trẻ trở thành người như thế nào và nhân cách trẻ phát triển ra sao?
Giáo dục mầm non là bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo
dục mầm non góp phần đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành các phẩm chất
mới của con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước: Chủ động, thích ứng, sáng tạo, hợp tác. Mục tiêu của giáo dục mầm
non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình
1
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một;
hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và
phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa
tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho
việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời .
Như vậy trẻ mẫu giáo cần hình thành được một số phẩm chất cần
thiết như: Mạnh dạn, tự tin, tự lực, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa
nhập, dễ chia sẻ, hình thành nếp sống văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp
theo quy tắc, chuẩn mực, phù hợp với lứa tuổi. Những nội dung này đều nằm
trong chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Một kỹ năng rất cần thiết
trong thế kỷ 21. Một trong những kỹ năng sống quan trọng đó là KNGT. Có
thể nói đây là một kỹ năng vô cùng quan trọng trong việc chuẩn bị hành trang
cho trẻ bước vào đời. Ở trường mầm non, việc hình thành KNGT cho trẻ
được tiến hành thông qua các hoạt động giáo dục khác nhau trong đó có hoạt
động khám phá MTXQ. Thông qua hoạt động khám phá MTXQ, đặc biệt là
môi trường xã hội, trẻ được tìm tòi khám phá,trải nghiệm nhằm chiếm lĩnh
những tri thức về vạn vật xung quanh mình, về những mối quan hệ xã hội. Từ
đó hình thành và giáo dục trẻ biết cách ứng xử với con người, biết cách giao
tiếp chuẩn mực, hình thành các mối quan hệ hòa thuận giữa các trẻ với nhau,
sự tôn trọng đối với người lớn….Như vậy, thấy rằng việc rèn luyện KNGT
thông qua hoạt động khám phá MTXQ có vai trò rất lớn đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Trên thực tế, việc rèn luyện về KNGT thông qua hoạt động khám phá
MTXQ của trẻ mẫu giáo đã được tiến hành, tuy nhiên chưa thực sự có hiệu
quả. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn
luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi
trường xung quanh.”
2
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng KNGT của trẻ mẫu giáo 56 tuổi, đề tài xây dựng một số biện pháp rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Quá trình rèn luyện kĩ năng giao tiếp của trẻ MG 5-6 tuổi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua
hoạt động khám phá MTXQ.
3.3. Phạm vi nghiên cứu.
100 trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi của trường mầm non thuộc địa bàn Quận
Hoàng Mai- Hà Nội. Trường mầm non Đại Kim; Trường mầm non Định
Công; Trường mầm non Hoa Sữa.
4. Giả thuyết khoa học.
Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi đã có kĩ năng giao tiếp. Tuy nhiên, kĩ năng giao
tiếp chưa được hoàn thiện. Nếu được sử dụng phối hợp các biện pháp một
cách phù hợp và khoa học thì kĩ năng của trẻ sẽ được phát triển tốt hơn và
hoàn thiện hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5.1. Nghiên cứu, khái quát cơ sở lý luận của vấn đề rèn luyện KNGT
cho trẻ thông qua hoạt động cho trẻ khám phá MTXQ.
5.2. Nghiên cứu thực trạng rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá MTXQ tại một số trường mầm non
3
5.3. Đề xuất một số biện pháp rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua hoạt động khám phá MTXQ.
5.4. Tiến hành TN các biện pháp đã đề xuất nhằm kiểm chứng kết quả.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng
phối hợp những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
Đọc, nghiên cứu, khái quát lại những tài liê ôu trong và ngoài nước về
vấn đề giao tiếp nói chung và giao tiếp trẻ em nói riêng dựa trên các quan
niê ôm như quan niê ôm triết học, tâm lý học…..sau đó hê ô thống hóa các lý
thuyết cần thiết nhằm xây dựng cơ sở lý luâ ôn cho đề tài.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra Ankest
Đây là phương pháp cơ bản nhằm khảo sát thực trạng rèn luyện KNGT
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi dành cho các giáo viên tại một số trường mầm non
bằng hê ô thống câu hỏi mở và câu hỏi đóng.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại, trò chuyện
Trò chuyện, đàm thoại với các giáo viên giảng dạy tại nhóm lớp ở trường
mầm non, trò chuyện với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, hệ thống các tình huống giao
tiếp nhằm tìm hiểu về các KNGT của trẻ thông qua hoạt động khám phá
MTXQ.
6.2.3. Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động giáo viên và trẻ thông qua quá trình khám phá
môi trường xung quanh nhằm thu thập thông tin cho đề tài nghiên cứu.
6.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công thức thống kê toán học để phân tích số liệu thu được.
4
6.3. Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm các phương pháp đã đề xuất nhằm kiểm nghiệm
hiệu quả áp dụng các biện pháp rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá MTXQ.
7. Đóng góp mới của đề tài.
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận về KNGT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá MTXQ.
- Làm rõ thực trạng và nguyên nhân của việc rèn luyện KNGT cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá MTXQ
- Đề xuất một số biện pháp rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá MTXQ
8. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được bố trí thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo thông
qua hoạt động khám phá MTXQ.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua HĐ khám phá MTXQ.
Chương 3: Xây dựng một số biện pháp rèn luyện KNGT cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh và thực
nghiệm sư phạm.
5
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về giao tiếp nói chung.
Từ trước đến nay đề tài về giao tiếp luôn là đề tài hấp dẫn lôi cuốn
nhiều nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước thuô ôc các lĩnh
vực khác nhau như: tâm lí học, giáo dục học, xã hô ôi học, triết học.v.v…
1.1.1.1. Trên thế giới.
Từ thời cổ Hy Lạp, vấn đề giao tiếp được con người chú ý nghiên
cứu như Xôcrat (470- 399 TCN) và Platon (428-347 TCN) đã nói: “Đối
thoại như là sự giao tiếp trí tuê ô phản ánh mối quan hê ô giữa con người
với con người”.[29-7]
Tuy nhiên, trước thế kỷ XIX giao tiếp chưa được nghiên cứu như mô ôt
môn chuyên ngành tâm lý học.
Từ thế kỷ XIX, giao tiếp đã được đánh giá có tầm quan trọng đă cô biê tô
trong sự hình thành và phát triển bản chất xã hô iô con người. Với các công trình:
“Vấn đề giao tiếp, những đă ôc trưng của nó trong công viê ôc của con
người” của A.A.Bodalivo (1972)
“Tâm lí học giao tiếp” của A.A.Lêonchiep (1974)
“Giao tiếp là vấn đề của tâm lí học đại cương” (1978) của A.Ph.Lomov,
Ở giai đoạn này, vấn đề giao tiếp được nghiên cứu và phân tích khá chi
tiết dưới góc đô ô tâm lí học đại cương của A.Ph.Lomov trong chuyên thảo
“Vấn đề giao tiếp trong tâm lí học” (1981). Và tiếp sau đó có hàng loạt
những công trình nghiên cứu khác về giao tiếp.
Và các công trình nghiên cứu đó chủ yếu đi theo hai hướng chủ đạo sau:
6
+ Hướng thứ nhất: Nhấn mạnh các khía cạnh thông tin trong giao tiếp:
Đại diê ôn cho các hướng này là các nhà khoa học, các nhà tâm lí:
M.A.Acgain, K.K.Platonov, I.A.L.Kolominxki, L.P.Bueva, Laswell ( 1948),
G.Thines(1975), V.N.Panpherov, N.Wiener (1971), G.Perdonici (1963)...
Chẳng hạn như: K.K.Platonov và G.G.Golubev đã liê ôt giao tiếp vào
mô ôt trong những “loại hình hoạt đô nô g” cho rằng: “Giao tiếp là sự trao đổi
thông tin giữa con người với nhau” và “giao tiếp là sự tác đô ông lẫn nhau
trên cơ sở phản ánh tâm lí lẫn nhau” [35]
M.A.Acgain cho rằng: “giao tiếp là sự tác đô ông, sự truyền, và tiếp
nhâ ôn thông báo, sự trao đổi thông tin của con người.” [5]
I.A.L.Kolominxki lại mô tả: “Giao tiếp là sự tác đô ông qua lại có đối
tượng và thông tin giữa con người với con người trong đó những quan hê ô liên
quan đến nhân cách được thực hiên,
ô bô ôc lô ô và hình thành” [3]
Còn nhà nguyên cứu L.P.Bueva lại cho rằng: “GT không chỉ là mô ôt quá
trình tinh thần mà còn là quá trình vâ ôt chất, quá trình xã hô ôi, trong đó diễn
ra sự trao đổi các hoạt đô ông, kinh nghiêm,
ô sản phẩm của hoạt đô ông” [44]
B.D. Pasughin: “giao tiếp là quá trình tác dụng lẫn nhau, trao đổi
thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhâ ôn thức lẫn nhau” [44]
Gần đây, G.M.Andreva trong cuốn “Tâm lí học xã hô ôi” đã cho rằng
giao tiếp có ba mă ôt quan hê ô hữu cơ với nhau: mă ôt thông tin, mă ôt tri giác của
con người với nhau, mă ôt tác đô nô g qua lại của con người với nhau. [2]
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu theo hướng này chưa chỉ ra đă cô điểm
của đối tượng giao tiếp của con người được biểu hiê nô trong truyền thông, làm
cho truyền thông trở nên tích cực hơn, và trở thành nô iô dung cơ bản của giao
tiếp.
+ Hướng thứ 2: Hướng này các nhà nghiên cứu lại nhìn nhâ ân bản
chất giao tiếp trong hê âthống các khái niêm,
â phạm trù tâm lí học.
7
Đại diê nô cho hướng này là các nhà tâm lí, giáo dục học A.A.Lêonchiep
và B.Ph.Lomov. Hai nhà tâm lí học này đưa giao tiếp song song với hoạt đô nô g.
- Quan điểm xem giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, hoặc
có thể là điều kiện, phương thức của hoạt động bao gồm đầy đủ các thành
phần trong sơ đồ cấu trúc của hoạt động: chủ thể- hoạt động- đối tượng. Đại
diện tiêu biểu cho quan điểm này là A.A.Lêonchiep, thuộc trường phái hoạt
động trong tâm lý học Xô Viết.
- Quan điểm thứ hai xem giao tiếp là một phạm trù đồng đẳng với
phạm trù hoạt động. Đại diện cho quan điểm này là B.Ph.Lomov. Ông định
nghĩa: “Giao tiếp là mô ôt hê ô thống những quá trình có mục đích và đô ông cơ
đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt đô ông tâ ôp
thể, thực hiênô các quan hê ô xã hô ôi và nhân cách, các quan hê ô tâm lý và sư
dụng các phương tiênô đă ôc thù mà trước hết là ngôn ngữ.” [28]
Tuy nhiên, đa số các nhà tâm lý học như G.M. Andreeva, D.B.Enconhin,
K.K. Platonov, A.A. Bodalev… Cho rằng hai quan điểm nêu trên đều có mặt
hợp lý và chưa hợp lý, chưa thỏa đáng. Hoạt động và giao tiếp gắn chặt với
nhau, không thể hiểu đúng bản chất của giao tiếp nếu tách rời hoạt động. Đồng
thời nếu tuyệt đối hóa bất cứ phạm trù nào đều dẫn đến sai lầm.
1.1.1.2. Ở trong nước.
Đến nay, giao tiếp đã trở thành nội dung nghiên cứu phổ biến trong
nhiều lĩnh vực khác nhau và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Khái quát
các nghiên cứu về giao tiếp ở Việt nam có thể chia làm ba hướng như sau:
+ Hướng thứ nhất: Xem giao tiếp là một tiến trình truyền đạt thông tin:
Các tác giả đã đề cập như: Nguyễn Văn Lê (1992), Nguyễn Khắc Viện
(1995), Nguyễn Thị Phượng và Dương Quang Huy (1997), Trần Thị Minh Đức.
Theo “Từ điển tâm lý học” của Nguyễn Khắc Viện. “Giao Tiếp là quá
trình truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm cho một
8
người hay một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau ( Tương tác).
Thông tin hay thông điệp được phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên
dều vận dụng một mã chung.” [50] Theo “Tâm lý học đại cương” của Trần
Thị Minh Đức (chủ biên): “ Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người
với con người nhằm mục đích nhận thức thông qua sự trao đổi với nhau về
thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua lại với nhau”[11].
+ Hướng thứ 2: Xem giao tiếp là sự tiếp xúc tác động ảnh hưởng lẫn
nhau: Theo hướng này có các tác giả: Phạm Minh Hạc (1988), Trần Trọng
Thủy, Nguyễn Ngọc Bích (1995), Ngô Công Hoàn (1992), Nguyễn ThạcHoàng Anh (1992), Nguyễn Quang Uẩn (1998)…
- Tác giả Ngô Công Hoàn với vấn đề nghiên cứu: “ Vấn đề giao tiếp”
trong tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 92 -96 cho GV tiểu học.
“ Một số vấn đề tâm lý học về giao tiếp sư phạm” (1994) [17]; Năm
1997 “Giao tiếp và ứng xư sư phạm” đã đưa ra những đánh giá về vai trò của
hoạt động giao tiếp trong giáo dục, đặc biệt tác giả này đã đưa ra những nhận
định, phương pháp nhằm hình thành kĩ năng giao tiếp sư phạm cơ bản giúp
cho giáo viên có thể tiếp cận và dạy học có hiệu quả hơn.
- Tác giả Trần Trọng Thủy với “ Giao tiếp với sự phát triển nhân
cách của trẻ” (1981) đã nghiên cứu về vai trò và mối quan hệ giữa giao tiếp
với sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ em ở từng lứa tuổi phát triển khác
nhau. Và ông khẳng định rằng “ Giao tiếp gắn liền với quá trình hoạt động
xã hội của trẻ em, giúp trẻ hòa nhập với môi trường xã hội” [41]
Còn theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “ Giao Tiếp là sự tiếp xúc tâm lý
giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông
tin, về xảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay
nói cách khác đi giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người – người
hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác.” [52]
9
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác về khái niệm giao
tiếp là gì như: “C.Mac và phạm trù GT” của tác giả Đỗ Long (1980); “GT,
tâm lí và nhân cách” của Trần Trọng Thủy (1981);“ Bàn về phạm trù giao
tiếp” của tác giả Bùi văn Huê ;ô Trần Thanh Thủy với cuốn “Đă ôc điểm giao
tiếp của giáo viên mầm non sư phạm” (1985); Phạm Minh Hạc với cuốn sách:
“Giao tiếp là điều kiênô tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lí”(1988);
“Nghê ô thuâ ôt giao tiếp” của Chu Sĩ Diên (1995), Trần Trọng Thủy và Nguyễn
Sinh Huy đã cho ra đời cuốn “Nhâ ôp môn khoa học giao tiếp” (1996); “Giao
tiếp và ứng xư sư phạm” Ngô Công Hoàn (1997)…
Như vậy, Các tác giả đều đã khẳng định được bản chất tâm lí của giao
tiếp, chỉ ra được nô ôi dung, đă cô điểm, hiê ôu quả, phương tiê ôn... của giao tiếp.
Đă ôc biê ôt trong ngành giáo dục mầm non, là ngành giáo dục tạo nền
tảng ban đầu cho con người cũng có nhiều tác giả chuyên sâu nghiên cứu với
nhiều công trình như: “Mô ôt số vấn đề giao tiếp và giao tiếp sư phạm trong
hoạt đô ông của giáo viên mầm non” của TS. Lê Xuân Hồng. “Giao tiếp và
ứng xư sư phạm dành cho giáo viên mầm non” của Ngô Công Hoàn - ĐH sư
phạm và ĐH Quốc Gia Hà Nô ôi...
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các nhà Tâm lý học,
Giáo dục học đã góp phần phát triển khoa học giáo dục Viê ôt Nam, trong đó
có Giáo dục học mầm non.
1.1.2. Nghiên cứu về giao tiếp của trẻ em.
1.1.2.1. Trên thế giới.
Trước hết, trong tâm lý học Xô Viết, L.X.Vugotxki đã đề câ ôp từ những
năm 30 trong chương trình: “ Sự phát triển của những chức năng tâm lý bâ ôc
cao”. Đă ôc biê ôt là từ những năm 70 đến nay, giao tiếp đã trở thành vấn đề
quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học quan tâm như: A.
10
Nleochiev, DB. Enconin, A. V.daparogiet. M. Lisana với cuốn “ Nguồn gốc
của sự hình thành giao tiếp trẻ em” -1978, A.V. Daproget và M. Llisana “Sự
phát triển giao tiếp ở trẻ mẫu giáo” – 1974, A. Uxova với “Vai trò của trò
chơi trong giao dục trẻ em” – 1976, E.I. Chikiepva “Sự phát triển của trẻ
trước tuổi học trò”- 1975….
Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu kể trên đều đi sâu vào
những vấn đề cơ bản của giao tiếp đó là:
- Khẳng được vị thế, vai trò, ý nghĩa mang tính chất quyết định của
giao tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
- Tìm ra được các chức năng quan trọng đă ôc biê ôt của giao tiếp đó là:
thông báo và tiếp nhâ ôn thông tin, giúp trẻ tiếp thu và lĩnh hô ôi những kinh
nghiê ôm lịch sử, xã hô ôi của loài người, giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới
xung quanh mình, thể hiê ôn cảm xúc của mình với người khác, và hỗ trợ trong
quá trình phối hợp hoạt đô nô g cùng nhau…
- Kể ra được các dạng giao tiếp trẻ em.
- Những con đường giao tiếp trẻ em.
- Cách thức tổ chức hoạt đô nô g giao tiếp cho trẻ em.
- Phương pháp nâng cao chất lượng hoạt đô nô g giao tiếp.
1.1.2.2. Ở trong nước.
Nghiên cứu về khía cạnh tâm lý giao tiếp trẻ em. Vấn đề khái niệm
giao tiếp, hình thành nhu cầu và kĩ năng giao tiếp của trẻ được phản ánh trong
các công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thạc,
Ngô Công Hoàn, Lê Xuân Hồng. Các tác giả đã cho thấy rằng giao tiếp có
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ. Đồng
thời trong các tác phẩm đó, các tác giả cũng nêu lên được nhu cầu giao tiếp
của trẻ em như thế nào, và đặc điểm về giao tiếp trẻ em qua từng độ tuổi khác
11
nhau. Bên cạnh đó các tác giả cũng chỉ ra được các đối tượng giao tiếp của trẻ
và tầm ảnh hưởng của các đối tượng đối với sự hình thành nhân cách của một
đứa trẻ như trẻ giao tiếp với người lớn, với bạn cùng tuổi, bạn khác giới và
với thế giới đồ vật. Mỗi đối tượng trẻ thể hiện một cách giao tiếp riêng biệt.
Đặc biệt các tác giả này đều đề cao vai trò sư phạm của người giáo viên mầm
non, đây là một đối tượng có sự ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đến quá trình giao
tiếp của đứa trẻ. Để từ đó các tác giả xây dựng nên các hình thức, phương
pháp, môi trường…. nhằm góp phần hình thành cho trẻ KNGT tốt nhất có thể.
Cùng chủ đề nghiên cứu về giao tiếp ở lứa tuổi trẻ em, năm 2003, tác
giả Hoàng Thị Phương, nghiên cứu một số biện pháp giáo dục hành vi giao
tiếp có văn hóa cho trẻ 5 đến 6 tuổi, giao tiếp được khai thác dưới góc độ
hành vi văn hóa sơ đẳng nhưng là cơ bản, phổ biến, đặc trưng cho lứa tuổi
mẫu giáo lớn. Đó là những kỹ năng mang tính nền tảng làm cơ sở để giáo dục
và phát triển sau này cho trẻ thơ ở tuổi học tiểu học. [33]
Nguyễn Ánh Tuyết cũng xuất bản cuốn “ Giáo dục trẻ em trong
nhóm bạn bè”, (1987) [45] “ Sự hình thành xã hội trẻ em trước tuổi học”
(1988) [46] với hai tác phẩm này thì tác giả đề cao vai trò của hoạt động
nhóm, hoạt động tập thể trong đó hoạt động giao tiếp nắm vai trò chủ đạo có
ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách xã hội cho trẻ
em trong suốt cuộc đời.
Trong luận án PT.S của Lê Xuân Hồng “ Một số đặc điểm giao tiếp
của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi” (1996) [20] và
Nguyễn Xuân Thức: “ Nghiên cứu tính tích cực về giao tiếp của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong hoạt động vui chơi” (1997) đã nêu được những đặc điểm cơ
bản của giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khi tham gia các hoạt động nhóm
và tập thể ở trường mầm non.
12
Đề tài “ Tính chủ động giao tiếp của trẻ em mẫu giáo 5-6 tuổi” (1995)
của hai tác giả Nguyễn Xuân Thức và Nguyễn Thạc cũng đã trình bày thực
trạng mức độ tính chủ động giao tiếp của trẻ mẫu giáo và những biểu hiện cơ
bản của tính chủ động giao tiếp. Từ đó tác giả đã xây dựng nên hệ thống một
số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động giao tiếp cho trẻ mầm
non. [39].
1.2. Giao tiếp và kĩ năng giao tiếp của trẻ 5-6 tuổi
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1.Giao tiếp.
Giao tiếp là mô ôt hiê ôn tượng tâm lý phức tạp và có nhiều mă ôt, nhiều
cấp
đô ô khác nhau. Có nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi định nghĩa
đều được dựa trên mô tô quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lý của nó.
Dưới góc đô â thông tin học, có tác giả cho rằng:
Giao tiếp là mô ôt quá trình trao đổi và truyền đạt thông tin
Người đầu tiên đề câ ôp đến vấn đề này là Weiner- nhà tâm lý học người Anh
(1947), tiếp theo là nhà Xã hô ôi học người Mỹ Laswell (1948), Georgen
Thines và các cô ông sự (1975) đã nêu “ Giao tiếp được coi là sự truyền đạt
thông tin, qua đó các trạng thái của hê ô thống phát thông tin phát huy ảnh
hưởng tới hê ô thống nhâ ôn thông tin” Thâ ôm chí J. P Gruere (1982) đã đưa ra
mô tô định nghĩa mang tính vâ tô lý về giao tiếp như sau: “ Sự giao tiếp là mô ôt
quá trình chuẩn trong đó mô ôt thông điêpô được chuyển tải từ mô ôt bô ô phát tới
mô ôt bô ô thu, thông qua mô ôt chuỗi các yếu tố được gọi là nguồn, kênh, địa chỉ”
[51] “ Là một tin nào đó được truyền từ điểm này sang điểm khác”
G.A.Miller (1956) [51]
13
Hạn chế của định nghĩa các tác giả trên là coi hoạt đô nô g giao tiếp như mô tô
chương trình được mã hóa, xem nhẹ yếu tố chủ thể, xem nhẹ mối liên hê ô nhân
cách của quá trình giao tiếp và hạn chế hoạt đô nô g sáng tạo của nhân cách.
Dưới góc đô â tâm lí học, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và
vận hành các mối quan hệ người và người, hiện thực hóa quan hệ giữa người
với nhau. Hiểu theo góc độ này có nhiều nhà tâm lý định nghĩa GT như sau:
- Tác Giả K.K. Platonov định nghĩa: “ Giao tiếp là những mối liên hệ
có ý thức của con người trong cộng đồng xã hội loài người” [35]
- A.N. Lêonchiep- nhà tâm lí học Liên Xô cũ cho rằng: “Giao tiếp là
mô ôt dạng đă ôc biêtô của hoạt đô ông nó có đầy đủ các đă ôc điểm cơ bản của hoạt
đô ông như tính mục đích, vâ ôn hành theo nguyên tắc gián tiếp”. [26]
- B. PH. Lomov - nhà tâm lý học người Nga trong cuốn “Những vấn đề
giao tiếp trong tâm lý học đại cương” coi giao tiếp là mô ôt phạm trù cơ bản và
định nghĩa “ Giao tiếp là mối quan hê ô tác đô ông qua lại giữa con người với tư
cách là chủ thể” [28]
Ở Việt Nam, từ những năm 70 của thế kỉ XX trở lại đây, các nhà tâm lý
học cũng rất quan tâm đến lĩnh vực giao tiếp, xem đó là một đối tượng quan
trọng trong tâm lí học và lấy nó làm cơ sở hình thành nên chuyên ngành khoa
học riêng về giao tiếp.
Dưới góc đô â tâm lý học đại cương: TS Phạm Minh Hạc định nghĩa:
“ Giao lưu là hoạt đô ông xác lâ ôp và vâ ôn hành các quan hê ô người- người
để hiênô thực hóa các quan hê ô xã hô ôi giữa người ta với nhau”. Giao lưu ở đây
được tác giả dùng đồng nghĩa với giao tiếp. Đây chính là điều kiê ôn, là nguồn
gốc nảy sinh và phát triển tâm lý người. [13]
- Theo tác giả Ngô Công Hoàn “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con
người
14
với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh
nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp [17]
- Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa “ Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa
người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về
cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại
với nhau.” [52]
* Các nhà tâm lý học cấu trúc coi: “Giao tiếp là những thông điêpô
về nhâ ôn thức, tình cảm thuô ôc về ý thức hay vô thức, nhờ mô ôt mạng lưới
truyền thông tin giữa những người cần đối thoại”. [44]
- Các nhà tâm lí học nhân cách quan niê ôm: “Giao tiếp là quá trình tác
đô ông qua lại giữa con người với con người, qua đó tiếp xúc tâm lí được thực
hiênô và các quan hê ô liên nhân cách được cụ thể hóa”. [44]
- Nguyễn Thạc và Hoàng Anh định nghĩa về giao tiếp như sau: “giao
tiếp là hình thức đă ôc trưng cho mối quan hê ô giữa con người với con người
qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lí, được biểu hiê ôn ở các quá trình thông tin,
hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác đô ông qua lại lẫn nhau” [37]
Từ điển tâm lý, trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em do bác sỹ Nguyễn
Khắc Viê ôn chủ biên, Hà Nô ôi – 1991: “Giao tiếp là sự trao đổi giữa người với
người thông qua ngôn ngữ nói, viết, cư chỉ. Ngày nay từ này hàm ngụ sự trao
đổi thông qua mô ôt bô ô mã (code). Người phát tin mã hóa mô ôt số tín hiêu,
ô
người nhâ ôn tin giải mã, mô ôt bên truyền mô ôt ý nghĩa nhất định để bên kia
hiểu được.” [50]
Như vậy, dưới góc độ tâm lí học, các tác giả tuy chưa có sự đồng nhất
về định nghĩa giao tiếp nhưng nhìn chung tất cả các khái niệm đều có nói lên
được một số đặc điểm chung như sau: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa người
với người trong cộng đồng xã hội qua đó xác lập và hiện thực hóa các mối
quan hệ xã hội của họ nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu nhất định”
15
* Dưới góc đô â ngôn ngữ học.
Dưới góc độ này cũng có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về GT.
- Theo Berge (1994), giao tiếp được hiểu như một “quá trình thông
tin diễn ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một
ngữ cảnh và một tình huống nhất định” như vậy giao tiếp cũng có thể định
nghĩa như một thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp được phát ra
được hiểu là tin đã được mã hóa thành lời nói hoặc lời viết, được truyện đi từ
người phát đến người nhận. [44]
Diê ôp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc (1991) cho rằng: “Giao tiếp là sự
tiếp xúc với nhau giữa cá thể này với các thể khác trong mô ôt cô ông đồng xã
hô ôi. Loài đô ông vâ ôt không làm thành mô ôt xã hô ôi vì chúng không có giao tiếp
với nhau như loài ong, loài kiến” định nghĩa này cho thấy rằng giao tiếp chỉ
xuất hiện trong cộng đồng người làm cho cộng đồng đó mang tính xã hội còn
những loài khác không có giao tiếp thì bản thân nó chỉ được xem như là một
quần thể, không hề có tính xã hội. [22]
- Theo từ điển Tiếng Viê ôt định nghĩa:“Giao tiếp là sự tiếp xúc trao đổi
với nhau giữa con người với con người bằng ngôn ngữ” (1992), “ Từ điển
tiếng Việt”, Trung tâm từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội.
- Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học Tiếng Việt, tác giả
Nguyễn Như ý giải thích giao tiếp là “ Sự thông báo hay truyền đạt thông
báo nhờ một hệ thống mã nào đó” [53]
Hai tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy coi: Giao tiếp của
con người là một quá trình có chủ định hay không chủ định, có ý thức hay
không có ý thức mà trong đó có các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong
các thông điệp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.” Trong định nghĩa này tác
giả không chỉ đề cập đến đối tượng dùng để giao tiếp mà còn nêu lên cả
phương tiện giao tiếp để tiến hành giao tiếp. Với định nghĩa này thì ngay cả
16
khi trẻ không có ý thức (trẻ thiểu năng, bị hội chứng down) hay trẻ chưa có ý
thức (trẻ dưới ba tuổi) vẫn có thể tham gia vào quá trình giao tiếp [40] .
Tóm lại, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau tùy theo từng góc độ
về giao tiếp tuy nhiên các nhà nghiên cứu đều nêu bật lên được đặc điểm
chung về giao tiếp như sau: Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các
mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm về giao tiếp như
sau: “Giao tiếp là sự tương tác giữa các cá nhân với nhau bằng phương tiện
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm mục đích xác lập các mối quan hệ giữa
người với người, qua đó các cá nhân trao đổi thông tin, biểu đạt và tiếp
nhận thông tin, cảm xúc, tình cảm, các trạng thái, nhu cầu cá nhân với
nhau và ảnh hưởng đến nhau, góp phần cho sự phát triển trí tuệ và nhân
cách.”
1.2.1.2. Kĩ năng giao tiếp
KNGT được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất nào. Tùy vào mục đích nghiên cứu khác nhau, mỗi tác
giả đưa ra cho mình một định nghĩa khác nhau.
Nguyễn Văn Đính Trong cuốn “ Giao tiếp tâm lý và nghệ thuật giao
tiếp, ứng xư trong kinh doanh và du lịch” Quan niệm rằng: “ KNGT là khả
năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện bên ngoài và đoán biết được diễn
biến tâm lý bên trong của con người ( đối tượng giao tiếp). Đồng thời biết sư
dụng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách định hướng để
điều chỉnh và điều khiển quá trình giao tiếp đạt được mục đích nhất định.”
với ông, ông xem KNGT như là khả năng ( một dạng biểu hiện của năng lực)
nhưng ông chưa làm nổi bật được mặt thao tác, hành động của KNGT. Xuất
phát từ quan niệm “ Giao tiếp là một dạng đặc biệt của hành động” nghĩa là
17
giao tiếp cũng diễn ra bằng hành động và có cả các thao tác cụ thể, sử dụng
các phương tiện khác nhau, nhằm đạt được mục đích xác định, thỏa mãn các
nhu cầu cụ thể, tức là thúc đẩy động cơ. Do vậy muốn định nghĩa được
KNGT phải đi từ khái niệm kĩ năng trong tâm lý học. Khi định nghĩa về
KNGT cần chú ý đến những
đặc điểm sau:
- KNGT là sự thực hiện một cách có hiệu quả một hành
động nào đó trong hoạt động giao tiếp ( mặt thao tác)
- KNGT bao gồm cả tri thức và logic các thao tác, hành
động và hướng tới thực hiện mục đích của hoạt động giao tiếp.
- Khi thực hiện KNGT, con người phải sử dụng các phương
tiện giao tiếp ngôn ngữ, phi ngôn ngữ phù hợp với điều kiện hoàn cảnh giao tiếp.
Kĩ năng giao tiếp được hình thành qua các con đường:
- Những thói quen ứng xử được hình thành trong gia đình.
- Do vốn sống, vốn kinh nghiê ôm của cá nhân qua tiếp xúc với mọi
người trong các quan hê ô xã hô ôi.
- Rèn luyê nô trong môi trường qua các lần thực hành giao tiếp.
Như vậy, Từ những ý trên, đề tài sử dụng định nghĩa về KNGT như
sau:
“Kỹ năng giao tiếp là sự thực hiện có hiệu quả hành động giao tiếp
bằng cách sử dụng các phương tiện giao tiếp ( ngôn ngữ, phi ngôn ngữ) để
tác động đến đối tượng, điều khiển bản thân, tổ chức quá trình giao tiếp
nhằm đạt được mục đích nhất định. Kỹ năng giao tiếp là bao gồm cả tri
thức giao tiếp, kĩ thuật hành động và thái độ phù hợp để giao tiếp có hiệu
quả.”
1.2.2.
Chức năng giao tiếp.
Có rất nhiều cách tiếp câ ôn, phân tích chức năng của giao tiếp. Theo các
18
nhà tâm lý học cá nhân thì cho rằng: giao tiếp thực hiên các chức năng sau:
- Chức năng định hướng hoạt đô nô g.
- Chức năng nhâ ôn thức ( chức năng phản ánh).
- Chức năng đánh giá và điều chỉnh
Theo các nhà tâm lí học xã hô iô thì giao tiếp có hai chức năng cơ bản sau:
- Chức năng liên kết.
- Chức năng hòa nhâ ôp.
Theo các nhà tâm lí học Xô Viết B. F. Lomov & A.A.Bodaliov thì giao
tiếp có ba chức năng cơ bản sau:
- Chức năng nhâ ôn thức: Thông tin, thông báo.
- Chức năng đánh giá thái đô .ô
- Chức năng điều chỉnh, điều khiển.
Nhưng các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thì cho rằng giao tiếp thực hiê ôn
các chức năng sau:
- Chức năng nhâ nô thức: Nhờ có chức năng này mà con người có thể truyền
đạt, lĩnh hô iô các sự kiến, khái niê m
ô , những giá trị trong quá trình giao tiếp.
- Chức năng duy trì sự tiếp xúc: chức năng này giúp người giao tiếp có
thể lấp chỗ trống khi tiến hành đối thoại.
- Chức năng siêu ngôn ngữ: là chức năng rút gọn- nói ít, hiểu nhiều
trong quá trình giao tiếp.
- Chức năng quy chiếu: đòi hỏi chủ thể giao tiếp phải hiểu được đă ôc
điểm, tâm lý của đối tượng giao tiếp để đảm bảo hiê ôu quả giao tiếp.
- Chức năng thơ mô nô g: thể hiê nô trong các cuô cô giao tiếp có tính chất
văn hóa nghê ô thuâ tô .
. Theo PGS.TS Ngô Công Hoàn: nếu coi giao tiếp là một phạm trù của
Tâm lý học hiện đại thì bản thân quá trình giao tiếp thực hiện các chức năng:
- Chức năng định hướng hoạt động của con người.
19
- Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người.
Các quan điểm trên xuất phát từ những quan điểm khác nhau, những
hướng nghiên cứu khác nhau nên cũng có những điểm khác nhau. Song các
quan điểm trên đều đã nêu ra được các chức năng cơ bản của giao tiếp theo
nhiều hướng tiếp cận khác nhau.
Trong đề tài này, chúng tôi có cùng quan điểm với PGS. TS Ngô Công
Hoàn. Đó là giao tiếp có hai chức năng cơ bản:
- Chức năng định hướng hoạt động của con người. Đây chính là chức
năng bao quát nhất, bất kỳ một sự tiếp xúc nào giữa con người với con người
đều cần phải biết mục đích giao tiếp để làm gì? Như vậy cần chú ý đến những
thay đổi nhỏ những biểu hiện của hành vi, cử chỉ, thái độ…. của chủ thể và
đối tượng giao tiếp, để có những hành vi đáp lại phù hợp.
- Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người. Đây là chức
năng hết sức quan trọng bởi lẽ nó hình thành ở trẻ những đức tính tốt, giúp trẻ
biết cách điều khiển điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp nhất.
1.2.3.
Các phương tiện giao tiếp.
Các phương tiện giao tiếp là cách thức để biến những mục đích giao
tiếp thành hiện thực trong thực tế.
* Phương tiê ôn ngôn ngữ: Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến
hành thông qua hệ thống tín hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết.
Đây là hình thức giao tiếp đặc trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao
tiếp xã hội bởi nó có những chức năng: chức năng thông báo, chức năng diễn
cảm và chức năng tác động. Giao tiếp ngôn ngữ có thể được biểu hiện qua
nhiều hình thức. Trong giao tiếp, tuỳ vào đối tượng, mục đích, hoàn cảnh…
mà người ta sử dụng các hình thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau. Theo như
cách chia của trường phái Palo Alto thì có giao tiếp chỉ định và giao tiếp loại
suy, hay bác sỹ Nguyễn Khắc Viện thì lại gọi là giao tiếp nói chỉ (chỉ định) và
20
- Xem thêm -