Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp nhằm gắn sản xuất với thị trường của công ty thương mại và dược...

Tài liệu Một số biện pháp nhằm gắn sản xuất với thị trường của công ty thương mại và dược phẩm như thuỷ

.PDF
61
133
82

Mô tả:

\ LỜI MỞ ĐẦU Trong bất kỳ một nền kinh tế nào thì sản xuất cũng là để phục vụ cho tiêu dùng, nếu sản phẩm sản xuất ra mà không tiêu thụ được thì sản xuất trở nên vô nghĩa và vì thế không có lý do để doanh nghiệp tồn tại. Hơn nữa, hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp không nhất thiết phải quan tâm nếu như không cần tác động bất kỳ biện pháp nào mà sản phẩm vẫn có thể đến được với thị trường, với người tiêu dùng, và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế, không bao giờ có được điều này, trong khi đó, ngay từ đầu, khi tham gia vào thị trường, mục tiêu duy nhất của các doanh nghiệp, nhà sản xuất chính là thu được lợi nhuận. Do vậy, công tác lập ra kế hoạch tiêu thụ và xây dựng các chiến lược phân phối sản phẩm của mình nhằm đảm bảo cho tính liên tục của quá trình sản xuất và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp luôn được các doanh nghiệp chú trọng, đó chính là các biện pháp nhằm gắn sản xuất với thị trường. Hiện nay, các doanh nghiệp đang phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Để có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh đó buộc doanh nghiệp phải tạo ra cho mình một vị thế vững chắc, tạo cho doanh nghiệp một thị trường tiêu thụ riêng . Điều này có thể thực hiện được hay không còn chính là việc doanh nghiệp có biết cách gắn sản xuất với thị trường hay không, để từ đó đề ra các chiến lược kinh doanh sắc bén nhất, hiệu quả nhất. Tại Công ty Thương mại và dược phẩm Như Thuỷ, vấn đề gắn sản xuất với thị trường đang là điều quan tâm của ban lãnh đạo công ty để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, thông qua đó Công ty thu được nhiều lợi nhuận hơn. Trước tình hình đó, em đã chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm gắn sản xuất với thị trường của công ty Thương mại và dược phẩm Như Thuỷ”. Từ đó hệ thống lại một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm thông qua phương pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp, thống kê so sánh... nhằm phân tích thực trạng tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty , đề ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của Công ty trong thời gian tới. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Trang 1 \ _ Phần I: Lý luận chung về thị trƣờng, hoạt động tiêu thụ và vấn đề gắn sản xuất với thị trƣờng . _ Phần II: Thực trạng tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty thƣơng mại và dƣợc phẩm Nhƣ Thuỷ. _ Phần III: Một số phƣơng hƣớng và biện pháp thực hiện nhằm gắn sản xuất với thị trƣờng của Công ty. Trang 2 \ PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG, HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ VÀ VẤN ĐỀ GẮN SẢN XUẤT VỚI THỊ TRƢỜNG I. Thị trƣờng: I.1. Khái niệm, vai trò, chức năng của thị trường. * Khái niệm thị trường . Theo C.MAC “Hàng hoá là là một vật phẩm có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người và nó được sản xuất ra không phải là để cho người sản xuất tiêu dùng mà là để bán”. Hàng hoá được bán ở thị trường, tuy nhiên không thể coi thị trường chỉ là cái chợ, là cửa hàng, mặc dù đó là nơi mua bán hàng hoá. “Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá. Đó là những mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu của từng loại hàng hoá cụ thể “. Vậy, thị trường là nơi mà người mua và người bán tự tìm kiếm đến với nhau qua trao đổi, thăm dò, tiếp xúc để nhận lấylời giải đáp mà mỗi bên cần biết. - Các doanh nghiệp thông qua thị trường để giải quyết các vấn đề: + Phải sản xuất loại hàng gì ? Cho ai ? + Số lượng bao nhiêu ? + Mẫu mã, kiểu cách, chất lượng thế nào? - Người tiêu dùng thông qua thị trường để tìm hiểu : + Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu của mình ? + Nhu cầu được thoả mãn đến mức nào ? + Khả năng thanh toán ra sao ? * Vai trò của thị trường. Trang 3 \ Thị trường có vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Qua thị trường có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường, giá cả hàng hoá và các nguồn lực về tư liệu sản xuất, sức lao động ...luôn luôn biến động nhằm đảm bảo các nguồn lực có giới hạn này được sử dụng để sản xuất đúng những hàng hoá, dịch vụ mà xã hội có nhu cầu. Thị trường là khách quan từng doanh nghiệp không có khả năng làm thay đổi thị truờng. Nó phải dựa trên cơ sở nhận biết nhu cầu xã hội và thế mạnh kinh doanh của mình mà có phương án kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Tái sản xuất hàng hoá bao gồm cả sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Thị trường nằm trong khâu lưu thông, như vậy thị trường là khâu tất yếu của sản xuất hàng hóa. Thị trường chỉ mất đi khi hàng hoá không còn. Thị trường là “chiếc cầu” nối của sản xuất và tiêu dùng. Để sản xuất ra hàng hóa, doanh nghiệp phải chi phí sản xuất, chi phí lưu thông, và thị trường sẽ là nơi kiểm nghiệm các chi phí đó của doanh nghiệp. Sự vận động của thị trường chịu sự chi phối chủ yếu của các quy luật: _ Quy luật giá trị: quy định hàng hoá phải được sản xuất và trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là chi phí bình quân trong xã hội. _ Quy luật cung cầu: nêu nên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn có xu thế chuyển động xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. _ Quy luật giá trị thặng dư: yêu cầu hàng hoá bán ra phải bù đắp chi phí sản xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động và sản xuất mở rộng. _ Quy luật cạnh tranh: quy định hàng hóa sản xuất ra phải ngày càng có chi phí thấp hơn, chất lượng tốt hơn để thu được lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh với các hàng hóa cùng loại. * Các chức năng của thị trường. - Chức năng thừa nhận: thị trường là nơi gặp gỡ giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi hàng hóa, nhà doanh nghiệp đưa hàng hoá Trang 4 \ của mình ra thị trường với mong muốn chủ quan là bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù đắp được mọi chi phí đã bỏ ra và có nhiều lợi nhuận. Người tiêu dùng tìm đến thị trường để mua những hàng hóa đúng công dụng, hợp thị hiếu và phù hợp với khả năng thanh toán của mình. Trong qúa trình diễn ra trao đổi, mặc cả trên thị trường giữa đôi bên về một hàng hoá nào đó, sẽ có hai khả năng xẩy ra là thừa nhận hoặc không thừa nhận. Tức là có thể loại hàng hóa đó không phù hợp với khả năng thanh toán hoặc không phù hợp với công dụng và thị hiếu của người tiêu dùng.. trong trường hợp này quá trình tái sản xuất sẽ bị ách tắc không thực hiện được. Ngược lại, trong trường hợp thị trường thực hiện chức năng chấp nhận, tức là đôi bên đã thuận mua vừa bán thì quá trình tái sản xuất được giải quyết. - Chức năng thực hiện: Thị trường thực hiện các hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiện cân bằng cung cầu, thực hiện giá trị thông qua giá cả hàng hoá và làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực trong doanh nghiệp. - Chức năng điều tiết : nhu cầu của thị trường là mục đích của quá trình sản xuất. Thị trường là tập hợp các hoạt động của các quy luật kinh tế. Do đó, thị trường vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển doanh nghiệp. Chức năng này thể hiện ở chỗ nó cho phép doanh nghiệp bằng khả năng của mình tìm được nơi tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ với hiệu quả hay lợi nhuận cao, đồng thời cũng cho phép người tiêu dùng mua những hàng hóa có lợi ích tiêu dùng cho mình một cách hợp lý nhất. - Chức năng thông tin: thể hiện ở chỗ nó chỉ ra cho nhà sản xuất biết nên sản xuất mặt hàng nào, khối lượng bao nhiêu, và nên đưa ra thị trường ở thời điểm nào, chỉ ra cho người tiêu dùng biết nên mua một hàng hoá hay một mặt hàng thay thế nào đó hợp với nhu cầu của họ. Chức năng này hình thành là do trên thị trường có chứa đựng các thông tin về tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu cung cầu, quan hệ cung cầu của từng loại hàng hoá, chi phí sản xuất, giá cả thị trường, chất lượng sản phẩm, các điều kiện tìm kiếm và tập hợp các yếu tố sản xuất và phân phối sản phẩm. Đó là những thông tin cần thiết để người sản xuất và người tiêu dùng ra các quyết định phù hợp với lợi ích của mình. Trang 5 \ Việc tách biệt các chức năng ấy chỉ là các ước lệ mang tính chất nghiên cứu, trên thực tế, một hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường thể hiện đầy đủ và đan xen lẫn nhau của các chức năng trên. I.2. Phân loại thị trường Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là sự hiểu biết căn kẽ tính chất của thị trường, nên sự cần thiết là phải phân loại thị trường. “Phân loại thị trường có nghĩa là chia một thị trường lớn thành các thị trường nhỏ mà người tiêu dùng ở một thị trường nhỏ có cùng đặc điểm về hành vi mua bán “. Mỗi cách phân loại có một ý nghĩa quan trọng riêng đối với quá trình kinh doanh. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu: * Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các nước: _ Thị trường dân tộc: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán của những người trong cùng một quốc gia và có quan hệ kinh tế diễn ra trong mua bán chỉ ảnh hưởng đến các vấn đề kinh tế -chính trị -xã hội trong phạm vi nước đó. _ Thị trường thế giới: là nơi diễn ra hoạt động mua bán giữa các nước với nhau. Quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế của mỗi nước. * Căn cứ vào hàng hoá lưu thông trên thị trường : _ Thị trường tư liệu sản xuất :Vai trò của tư liệu sản xuất trong tái sản xuất xã hội quyết định thị trường, hoạt động trên thị trường là các doanh nghiệp lớn, cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ, quy mô thị trường lớn. Nhu cầu không phong phú đa dạng như nhu cầu trên thị trên thị trường tiêu dùng. Thị trường tư liệu sản xuất phụ thuộc nhiều vào thị trường tư liệu tiêu dùng. _ Thị trường tư liệu tiêu dùng: Tính đa dạng, phong phú về nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng quyết định tính phong phú đa dạng của thị trường tư liệu tiêu dùng. * Căn cứ vào vai trò của người mua và người bán trên thị trường : _ Thị trường người bán: Vai trò quyết định thuộc về người bán, giá cả bị áp đặt, cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động, nhiều mặt hàng, loại Trang 6 \ hàng cung ứng ra thị trường không theo yêu cầu của thị trường, vai trò của người mua bị thủ tiêu. Thị trường người bán được hình thành một mặt do hàng hoá chưa phát triển, mặt khác do sự tác động của hệ thống quản lý hành chính bao cấp. _ Thị trường người mua: Vai trò quyết định trong quan hệ mua bán thuộc về người mua, vì vậy là yếu tố quyết định của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Thị trường người mua là môi trường khách quan cho sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường. * Căn cứ vào số lượng người mua người bán trên thị trường : _ Thị trường độc quyền : Có thị trường độc quyền người bán và thị trường độc quyền người mua. Trên thị trường độc quyền giá cả và các quan hệ kinh tế khác bị chi phối rất lớn bởi các nhà độc quyền. Song không vì thế mà cho rằng các quan hệ kinh tế, giá cả tiền tệ ... trên thị trường độc quyền là hoàn toàn chủ quan, bởi vì trên thị trường độc quyền vẫn còn tồn tại cạnh tranh giữa người mua và người bán, vẫn có sự hoạt động của quy luật kinh tế thị trường. _ Thị trường cạnh tranh: có nhiều người mua, nhiều người bán, thế và lực của họ là có thể tương đương, họ cạnh tranh với nhau và do đó tạo ra thị trường cạnh tranh. Trên thị trường quan hệ kinh tế diễn ra tương đối khách quan và tương đối ổn định. II. Những vấn đề lý luận về tiêu thụ. II.1. Khái niệm. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển hoá từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ là một trong số 6 chức năng chủ yếu của doanh nghiệp (chức năng tiêu thụ, chức năng sản xuất, chức năng hậu cần trong kinh doanh, chức năng tài chính, chức năng kế toán, chức năng quản trị trong doanh nghiệp). Trang 7 \ Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại phát triển của doanh nghiêp. Nếu trong thời kỳ bao cấp trước đây, khi sản phẩm còn khan hiếm, hoạt động tiêu thụ sản phẩm không phải là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Vì mọi vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp đều được giải quyết từ một trung tâm duy nhất đó là Nhà nước. Doanh nghiệp hoạt động theo sự chỉ đạo từ trung tâm đó, sản phẩm làm ra đã có sẵn nơi tiêu thụ. Vì vậy, mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp trong thời kỳ này là hoàn thành kế hoạch được giao. Chuyển sang cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải tự hạch toán, tự ra quyết định và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh của mình, để tồn tại và phát triển được, doanh nghiệp phải tự tìm kiếm thị trường nên buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến hoạt động tiêu thụ làm sao để sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mặc dù sản xuất (doanh nghiệp sản xuất), hoặc chuẩn bị hàng hoá, dịch vụ (doanh nghiệp thương mại) là hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm, song chức năng tiêu thụ là điều kiện tiền đề không thể thiếu được. Từ thực tế hoạt động kinh doanh quản trị doanh nghiệp hiện đại cho rằng công tác điều tra nghiên cứu khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ đứng ở vị trí trước hoạt động sản xuất tác động mạnh mẽ có tính chất quyết định đến hoạt động sản xuất. Trong tổ chức kinh doanh, nhịp độ cũng như các diễn biến của hoạt động sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhịp độ và các diễn biến của hoạt động tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Sản xuất không quyết định tiêu thụ của doanh nghiệp mà ngược lại tiêu thụ quyết định sản xuất. II.2. Vai trò, nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm II.2.1.Vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mọi doanh nghiệp đều phải tiến hành mua sắm các yếu tố đầu vào như lao động, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị ... để sản xuất ra sản phẩm, sau đó đưa sản phẩm ra thị trường bán và thu Trang 8 \ tiền về. Trong quá trình này mọi doanh nghiệp đều mong muốn đạt lợi nhuận cao để tiến hành hoạt động cho kỳ sau. Do đó, tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, thông qua công tác tiêu thụ sản phẩm, thì hình thái tiêu thụ hiện vật chuyển sang hình thái giá trị. Công tác tiêu thụ sản phẩm có vai trò rất lớn trong việc bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp. Nếu tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì sẽ làm cho sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ nhanh và nhiều hơn, rút ngắn thời gian thu hồi vốn. Công tác tiêu thụ sản phẩm cũng có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Khi hoạt động tiêu thụ đạt hiệu quả cao tức là tốc độ tiêu thụ cao, lợi nhuận lớn thì doanh nghiệp cũng sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo cho đời sống người lao động và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.. II.2.2. Nhiệm vụ của công tác tiêu thụ sản phẩm . Mục tiêu của tiêu thụ là bán hết sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp với doanh thu tối đa và mọi chi phí cho hoạt động tiêu thụ là tốí thiểu. Với mục tiêu đó, hoạt động quản trị kinh doanh hiện đại thì tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ không còn là hoạt động chờ bộ phận sản xuất tạo ra sản phẩm rồi mới tìm cách tiêu thụ chúng mà hoạt động tiêu thụ phải có các nhiệm vụ chủ yếu sau: _ Xác định cầu thị trường và cầu của bản thân doanh nghiệp về các loại hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đang hoặc sẽ có khả năng sản xuất kinh doanh để quyết định đầu tư phát triển sản phẩm và kinh doanh tối ưu . _ Chủ động tiến hành các hoạt động về giới thệu sản phẩm để thu hút khách hàng . _ Tổ chức tốt công tác bán hàng nhằm bán được nhiều hàng hoá với chi phí cho công tác này là thấp nhất,cũng như đáp ứng được tốt các dịch vụ cần thiết sau bán hàng. Trang 9 \ _ Xây dựng các chính sách như chính sách sản phẩm, chính sách tiêu thụ, chính sách phân phối, chính sách giá cả sản phẩm .. II.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm a/ a/ Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp. *Nhân tố chất lượng sản phẩm. Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đưa ra khái niệm “chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn “. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội, công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo thời gian và không gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ. Bên cạnh những đặc tính khách quan của sản phẩm được biểu hiện trên các chỉ số cơ sở lượng hoá có thể đo lường đánh giá được, nói tới chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm. Ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm người ta đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20 % phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả kiểm tra cuối cùng. Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà cần căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Riêng đối với mặt hàng dược phẩm có vai trò hết sức quan trọng trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, và là sản phẩm tác động trực tiếp đến sức khoẻ con người nên trong quá trình sản xuất không thể có sản phẩm loại 1, loại 2 mà mọi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lượng của ngành. Mục tiêu nâng Trang 10 \ cao chất lượng sản phẩm luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. * Nhân tố giá cả cả sản phẩm. Một yếu tố quan trọng tạo nên giá cả sản phẩm là giá thành tiêu thụ. “Giá thành tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí của doanh nghiệp, và chi phí phục vụ khách hàng để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm”. Giá thành là cơ sở để xác định giá bán sản phẩm khi tiêu thụ. Trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều mong muốn có lãi nên phải quan tâm đến yếu tố giá thành tiêu thụ làm sao để giá thành thấp hơn so với giá bán sản phẩm trên thị trường. Chính sách giá hợp lý là một chất xúc tác quan trọng làm tăng doanh thu bán hàng. Một doanh nghiệp hàng tiêu thụ nhanh, kinh doanh có lãi, doanh nghiệp phải có chính sách giá linh hoạt. Một chính sách giá linh hoạt phải dựa vào nghiên cứu thị trường, xây dựng chính sách giá cả phải nhận biết giá toàn bộ thị trường tại các không gian và các thời điểm khác nhau. Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng quyết định của người mua. Khi tính giá, doanh nghiệp cần chú ý đến nhiều vấn đề, nhiều yếu tố, xuất phát từ những vấn đề bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, dẫn đầu tỷ phần thị trường, mục tiêu dẫn đầu về chất lượng hay là mục tiêu đảm bảo sống còn của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cần chú ý đến yếu tố sản xuất, đặc điểm chu kỳ sống của sản phẩm. Những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như là nhu cầu hàng hóa, độ co giãn của cầu, tình hình cạnh tranh trên thị trường sản phẩm và những yếu tố như môi trường kinh tế, thái độ của Chính phủ, là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp cần phải quan tâm để có chính sách giá cho phù hợp. * Phương thức thanh toán và tiêu thụ. Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả ở mức độ nào không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sản phẩm hàng hóa dịch vụ trên thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức tiêu thụ chúng. Đối với các thị Trang 11 \ trường khác nhau, doanh nghiệp cần tìm cho mình một phương thức tiêu thụ thích hợp, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng tiêu thụ. Các phương thức tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể lựa chọn là tiêu thụ trực tiếp hay là tiêu thụ gián tiếp. Cùng với phương thức tiêu thụ đó, doanh nghiệp có những quyết định sáng suốt trong lưu thông như xử lý đơn hàng, tổ chức kho tàng, dự trữ hàng hoá, vận chuyển hàng hoá đến người tiêu dùng và các chi phí cho hoạt động đó. Việc phối hợp các hoạt động đó ăn khớp với nhau sẽ đảm bảo công tác phục vụ khách hàng và tiết kiệm được chi phí, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Hình thức thanh toán trong tiêu thụ sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng cho cả người sản xuất và cả người tiêu dùng. Trong trường hợp nhiều doanh nghiệp bán cùng một loại sản phẩm theo cùng giá thì các điều kiện thanh toán có thể trở thành yếu tố quyết định đối với việc lựa chọn của người mua. Hình thức thanh toán mà hiện nay các doanh nghiệp vẫn đang áp dụng là thanh toán ngay hoặc bán trả chậm. Việc thực hiện cũng như lựa chọn phương thức thanh toán nào một cách linh hoạt, tuỳ vào đối tượng khách hàng, thời điểm bán hàng sẽ là một cách thức tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường cho doanh nghiệp và ngược lại. * Trình độ lao động và khả năng tổ chức tiêu thụ Như trên đã nói chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà lực lượng lao động là một trong các nhân tố quyết định đến chất lượng sản phẩm.” Dù công nghệ có hiện đại đến đâu thì nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất quyết định đến chất lượng các hoạt động và chất lượng của sản phẩm. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiêm, kỷ luật và khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp đều tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm”. Nói đến trình độ lao động không chỉ nói đến trình độ chuyên môn của người trực tiếp sản xuất mà cả trình độ quản lý tổ chức ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong đó vai trò của nhà quản lý ở khâu tiêu thụ có thể nói là quan trọng nhất vì chính tại đây, nhà quản lý phải bằng khả năng của mình tạo đầu ra cho sản phẩm, phải căn cứ vào đặc điểm sản phẩm, đặc điểm của hoạt động kinh Trang 12 \ doanh và đối tượng khách hàng để cho doanh nghiệp phục vụ được khách hàng một cách tốt nhất. Đối với sản phẩm dược thì yêu cầu trình độ của người bán hàng không chỉ ở nghệ thuật giao tiếp ứng xử với khách hàng, mà còn cả trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhân viên bán hàng luôn tạo được lòng tin với khách hàng thì sẽ thu hút được khách hàng tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp và ngược lại. b/ Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mỗi doanh nghiệp là một “chủ thể” sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tự định và tự chịu trách nhiệm về các kết quả thực hiện các quyết định sản xuất kinh doanh của mình. Mặc khác, trong điều kiện mở của nền kinh tế, xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu thế tất yếu, mỗi doanh nghiệp còn là một phân hệ mở trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế, môi trường kinh tế quốc dân và các yếu tố thuộc môi trường nội bộ ngành. *Khách hàng của doanh nghiệp Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vì quy mô của khách hàng tạo nên quy mô của thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu, các yếu tố tâm lý, tập quán và thị hiếu. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Thông thường, để theo dõi thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thường tập trung vào 5 loại thị trường khách hàng như sau: _ Thị trường người tiêu dùng: là các cá nhân và hộ tiêu dùng mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích cá nhân. _ Thị trường khách hàng là doanh nghiệp: là các tổ chức và doanh nghiệp mua hàng hoá và dịch vụ để gia công chế biến thêm hoặc để sử dụng vào một quá trình sản xuất kinh doanh khác. _ Thị trường buôn bán trung gian: là các tổ chức cá nhân mua hàng hóa dịch vụ cho mục đích bán lại để kiếm lời. Trang 13 \ _ Thị trường các cơ quan và tổ chức của Đảng và Nhà nước: mua hàng hoá dịch vụ cho mục đích sử dụng trong lĩnh vực quản lý, hoạt động công cộng hoặc để chuyển giao tới các tổ chức cá nhân khác đang có nhu cầu sử dụng. _ Thị trường quốc tế: khách hàng nước ngoài bao gồm người tiêu dùng, người sản xuất, người mua trung gian và chính phủ của các quốc gia khác. Nhu cầu và các yếu tố tác động đến nhu cầu của khách hàng trên các thị trường là không giống nhau do đó ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp cũng khác nhau , bởi vậy cần nghiên cứu riêng tuỳ vào mức độ tham gia vào các thị trường của mỗi doanh nghiệp để hoạt động tiêu thụ được thực hiện. * Các trung gian Marketing “Đó là các tổ chức dịch vụ, các doanh nghiệp khác và các cá nhân khác giúp cho Công ty tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ của mình đến người tiêu dùng cuối cùng”. Đối với doanh nghiệp sản xuất chỉ có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá nếu như các trung gian của họ bán được nhiều hàng hoá do doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp sản xuất là phải lựa chọn và bố trí hợp lý các trung gian này sao cho sản phẩm đến với người tiêu dùng và phục vụ được người tiêu đùng một cách tốt nhất. * Những người cung ứng. Là các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào cần thiết cho Công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung ứng trên thị trường. Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng, thì sớm hay muộn trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của Công ty. Vì vậy mà nhà quản trị phải luôn luôn có đầy đủ thông tin chính xác về tình trạng số lượng, chất lượng, giá cả.. về các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ để phục vụ tốt cho công tác tiêu thụ của doanh nghệp. * Số lượng doanh nghiệp trong nội bộ ngành. Số lượng các doanh nghiệp và quy mô sản xuất kinh doanh của họ đều có ảnh hưởng đến khả năng cung ứng hàng hoá dịch vụ và tạo ra sự cạnh tranh trong Trang 14 \ nội bộ ngành. Mỗi sự thay đổi của các doanh nghiệp trong nội bộ ngành đều tác động đến hoạt động tiêu thụ của Công ty, một sự thâm nhập của doanh nghiệp mới hay rút khỏi thị trường của doanh nghiệp khác cũng có thể ảnh hưởng đến doanh thu của Công ty. Vì vậy, Công ty phải thường xuyên quan tâm những thông tin về các doanh nghiệp bạn để điều chỉnh hoạt động và làm chủ tình hình trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. III. Mối quan hệ giữa sản xuất với thị trƣờng. Sản xuất với thị trường luôn có mối quan hệ mật thiết và tất yếu mà biểu hiện của mối quan hệ đó chính là ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp thì mối quan hệ này là không quan trọng, bởi vì các sản phẩm sản xuất ra đã có sẵn nơi tiêu thụ, doanh nghiệp không cần tìm hiểu nghiên cứu thị trường. Ngày nay, nếu doanh nghiệp không thừa nhận và đánh giá đúng được vai trò của mối quan hệ đó thì kết quả tất yếu của doanh nghiệp sẽ chỉ là sản xuất mà không thể giải quyết được đầu ra cho sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp, ngay từ khi bắt đầu đi vào sản xuất phải tìm hiểu thị trường cần những mặt hàng nào, số lượng bao nhiêu để xem khả năng của mình có sản xuất để đáp ứng được nhu cầu này hay không? Doanh nghiệp phải xem chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hoá mà doanh nghiệp đưa ra có phù hợp được với thị trường hay không? Từ đó xác định đối tượng khách hàng mục tiêu, tạo thị trường riêng cho mình để sau quá trình sản xuất, sản phẩm tung ra được thị trường chấp nhận thì công tác tiêu thụ sẽ thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, tạo đà cho quá trình tái sản xuất và mở rộng quy mô đầu tư sau này. Thị trường là nơi đánh giá thế và lực của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường là thị phần của doanh nghiệp, được tính bằng tỷ số giữa lượng cầu về sản phẩm của doanh nghiệp với lượng cầu của thị trường về sản phẩm đó. Sức mạnh của doanh nghiệp là khả năng tác động vào thị trường làm thay đổi giá cả hành vi mua hàng, có khi thôn tính cả đối thủ cạnh tranh. Người nắm được quy luật biến đổi của thị trường, phát triển được thị trường là người ở thế thắng. Thị trường càng mở rộng và ổn định, khả năng tiêu thụ càng tăng làm cho sản xuất kinh doanh càng phát triển, uy tín của doanh nghiệp càng Trang 15 \ tăng, sức cạnh tranh càng lớn. Mở rộng thị trường thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, tăng doanh thu tăng lợi nhuận tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục đầu tư hiện đại hoá sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm,tăng thêm khả năng chiếm lĩnh và cạnh tranh trên thị trường. Mở rộng thị trường còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. 3. CÁC BIỆN PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM . 3.1 Nghiên cứu thị trƣờng. Trong cơ chế thị trường , thị trường là môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng được với sự đa dạng và động thái của thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Trên thị trường còn có nhiều doanh nghiệp khác cùng hoạt động, doanh nghiệp nào cũng muốn đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của mình. Vì vậy để đảm bảo khả năng cạnh tranh, tránh rủi ro doanh nghiệp phải nắm chắc thị trường. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra, thu thập, xử lý và phân tích các thông tin thị trường nhằm phục vụ công tác sản xuất. Mục đích nghiên cứu thị trường là phục vụ việc ra quyết định kinh doanh. Tuỳ thuộc vào kết quả nghiên cứu, quyết định kinh doanh có thể là : _ Giữ vững ở mức độ duy trì sản lượng sản xuất tiêu thụ. _ Tăng cường sản xuất tiêu thụ . _ Thâm nhập vào thị trường mới . _ Rời bỏ thị trường hay thay đổi sản phẩm. Những quyết định cực kỳ quan trọng này có thể bảo đảm chính xác khi tổ chức công tác nghiên cứu thị trường một cách chu đáo. Nghiên cứu thị trường buộc doanh ngiệp phải phân tích cung, phân tích cầu và phân tích mạng lưới tiêu thụ. Muốn vậy phải lựa chọn được phương án nghiên cứu cho phù hợp. Trong thực tiễn kinh doanh người ta thường sử dụng các phương pháp Marketing để điều tra Trang 16 \ thị trường, chủ yếu là đều tra tại chỗ, điều tra tại hiện trường và phương pháp bán thử hàng hoá. Điều tra tại chỗ là phương pháp nghiên cứu thị trường thông qua tài liệu có sẵn như các tài liêu thống kê, báo tạp chí và các phương tiện thông tin khác. Bằng cách này thông tin thu được thường không chính xác nhưng gọn nhẹ, ít tốn kém, đòi hỏi phải có các chuyên gia nhiều kinh nghiệm. Thường áp dụng với các doanh nghệp vừa và nhỏ, phục vụ cho các quyết định kinh doanh tầm chiến thuật. Điều tra tại hiện trường là phương pháp nghiến cứu thị trường được tổ chức tại nơi cần nghiên cứu, được thực hiện bởi đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn. Bằng phương pháp này các nhân viên dùng phiếu điều tra hoặc trực tiếp phỏng vấn đối tượng để thu thập thông tin sau đó tiến hành và xử lý phân tích. Phương pháp này phức tạp chi phí tốn kém nhưng thông tin thu được giá trị cao. Thường áp dụng với doanh nghiệp lớn và vừa, phục vụ cho các quyết định kinh doanh ở tầm chiến lược. Phương pháp bán hàng thử là phương pháp nghiên cứu thị tuờng kết hợp với bán hàng hoá để hỏi ý kiến khách hàng đối với các thông tin về sản phẩm, cung cách phục vụ cũng có thể là những nhận xét về đối thủ. Phương pháp này thường được thực hiện dưới các hình thức chào hàng, tham gia hội trợ triển lãm, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm..Phương pháp này thường được áp dụng khi doanh nghiệp chuẩn bị tung sản phẩm mới vào thị trường hoặc thâm nhập thị trường mới. Dù áp dụng phương pháp nào thì nghiên cứu thị trường phải đưa được các thông tin chủ yếu sau : _ Thị trường cần gì? chủng loại sản phẩm nào? _ Thị hiếu của người tiêu dùng ? _ Số lượng cần bao nhiêu ? Thời gian cung ứng ? _ Quy cách phẩm chất sản phẩm ? _ Giá cả có thể chấp nhận ? Trang 17 \ _ Các thông tin về năng lực của người tiêu dùng ? _ Những người có khả năng cung ứng và năng lực của họ ? Để xác định cầu thị trường của doạnh nghiệp về một loại sản phẩm nào đó có thể dựa vào một số cách sau: _ Trong trường hợp đã có sẵn đơn đặt hàng hay hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, việc xác định cầu tương đối đơn giản bằng cách tổng hợp cầu của khách hàng theo các mức giá, chất lượng, theo thời gian mà xác định lượng cầu của doanh nghiệp. _ Trong trường hợp biết được dung lượng thị trường và thị phần tương đối của doanh nghiệp (với sản phẩm mà doanh nghiệp đã sản xuất và cung ứng),có thể tính : Cầu thị trường về =Dung lượng x Thị phần tương dối Sản phẩm của DN thị trường của DN _ Với sản phẩm thoả mãn nhu cầu thiết yếu, ít có sự biến động lớn về cầu có thể dựa vào tình hình bán hàng hiện tại để xác định cầu. _ Trong nhiều trường hợp và nhất là khi xác định nhu cầu dài hạn người ta áp dụng các phương pháp dự báo nhu câù như; phương pháp thống kê, phương pháp ngoại suy và ngoài ra còn có rất nhiều các phương pháp khác để dự báo cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp. 3.2 Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lƣợc sản phẩm. Chiến lược sản phẩm là hệ thống các mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm, làm cho sản phẩm luôn thích ứng với thị trường. Các mục tiêu về sản phẩm phải bao hàm cả về mặt chất và mặt lượng Mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm phải đề cập đến 3 nội dung chủ yếu sau: _ Nâng cao chất lượng sản phẩm. _ Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm. _ Phát triển sản phẩm mới. Trang 18 \ 3.2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, sẩn phẩm sẽ được chấp nhận. Nhờ đó doanh nghiệp tăng khả năng chiến thắng trong cạnh tranh, góp phần mở rộng thị ttrường. Tuy nhiên chất lượng và giá thành sản phẩm luôn có chiều hướng mâu thuẫn. Giải quyết được mâu thuẫn này nghĩa là doanh nghiệp nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành, thì hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được tiến hành một cách dễ dàng hơn. Do đó nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ có ý nghĩa tăng khả năng cạnh, tăng doanh số tiêu thụ mà còn tiết kiệm được chi phí, từ đó tăng lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm chịu tác động của rất nhiều yếu tố: quy trình công nghệ, nguyên vật liệu, trình độ người lao động và quản ký, hoạt động kiểm tra giám sát, máy móc thiết bị và các yếu tố ngoại cảnh khác. Để đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm cần có những biện pháp tác động vào các nhân tố này. Các biện pháp phải được thực hiện cả tầm vi mô và cả tầm vĩ mô. Đối với Nhà nước cần có quy định chặt chẽ về chất lượng đồng thời có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chất lượng là sự sống còn cho doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Các biện pháp đó là: _Đảm bảo cung ứng nguyên vật liệu đúng quy cách, chủng loại số lượng và chất lượng. _ Không ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đảm bảo máy móc hoạt động ổn định và chính xác. _Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, lao động có tay nghề cao, đồng thời với việc sử dụng đòn bẩy kinh tế, khích lệ vật chất đối với người lao động. _Tăng cường tổ chức hoàn thiện bộ máy quả lý. _Đầu tư hệ thống kho tàng bến bãi đảm bảo duy trì chất sản phẩm theo đúng quy trình kỹ thuật. 3.2 .2 Đa dạng hoá sản phẩm Trang 19 \ Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm để tránh rủi ro là đòi hỏi khách quan của kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đa dạng hoá sản phẩm có thể thực hiện theo hai hướng: phát triển đa dạng mặt hàng kinh doanh trên cơ sở một mặt hàng chủ lực hoặc phát triển đa dạng chủng loại sản phẩm trên cơ sở sản phẩm xương sống. Hình thức thứ nhất thực chất là kinh doanh với những sản phẩm khác nhau hoàn toàn về giá trị sử dụng, thậm chí về ngành nghề kinh tế kỹ thuật, nhưng có một vài sản phẩm được ưu tiên phát triển mạnh. Hình thức thứ hai thực chất là việc cải tiến, thay đổi mẫu mã phẩm trên cơ sở một sản phẩm gốc nhằm khai thác ở các đoạn thị trường khác nhau. Trên thực tế, các doanh nghiệp thường áp dụng cả hai hình thức này, vừa phát triển danh mục theo chiều rộng vừa phát triển theo chiều sâu. Để tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều các biện pháp nghiên cứu thị trường, các biện pháp khuyến khích người lao động có sáng kiến cải tiến kỹ thuật.. . 3.2.3. Phát triển sản phẩm mới: Theo quan niệm marketing vể sản phẩm mới có thể là những sản phẩm mới về nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm hiện có hoặc những nhãn do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty. Thiết kế sản phẩm mới là cần thiết cho doanh nghiệp, sản phẩm mới có thể đạt được một sự tiến bộ đáng kể về kỹ thuật song chưa hẳn đã đạt được một sự tiến bộ về mặt kinh tế. Chẳng hạn như thời kỳ nghiên cứu thiết kế, chế thử sản phẩm quá dài, chí phí quá cao hoặc khi sử dụng phải có điều kiện bổ sung bắt buộc gây tốn kém. Vì vậy sản phẩm mới phải nhất quán về phương diện: tiến bộ về mặt kỹ thuật và tiến bộ về mặt kinh tế. Để có sản phẩm mới phải trải qua các giai đoạn sau: * Giai đoạn nghiên cứu sản phẩm. Nghiên cứu sản phẩm là giai đoạn khởi đầu tính từ khi hình thành ý định sản phẩm mới đến khi các ý đó được luận chứng một cách tổng hợp về mặt kỹ thuật và kinh tế. Giai đoạn này gồm các bước: Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan