MỤC LỤC
Nội dung
Phần I: Đặt vấn đề
Lý do chọn sáng kiến
Phần II: Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
2.3. Thực trạng vấn đề
2.4. Các nguyên nhân dẫn đến thực trạng
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
3.1 Kích thích sự chú ý cho học sinh
3.2. Phân loại đối tượng học sinh
3.3. Xác định vai trò của dạy học giải bài toán
3.4. Xác định cánh thức tổ chức dạy học giải toán
a. Chuẩn bị cho việc giải toán
b. Xác định rõ các bước giải một bài toán
c. Hình thành kĩ năng giải bài toán
3.5. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh
3.6. Tìm hiểu một số sai lầm của học sinh khi giải toán
3.7. Khích lệ học sinh hứng thú khi học tập
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Phần III. Kết luận và kến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị, đề xuất
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
* Lý do chọn sáng kiến
Trang
2
2
3
3
5
5
5
6
6
7
7
8
8
9
9
11
13
16
16
16
17
18
18
18
Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu quan trọng liên quan đến
chất lượng giáo dục. Từ nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013
về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được hội nghị trung ương 8 khóa XI thông qua.
Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho Giáo dục là đầu tư pháp triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch pháp triển kinh tế xã hội.
Cùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng
quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian
của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận
thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn toán còn góp phần rèn luyện
phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát
triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt
khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong
đời sống thực tế.
Dạy học môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ
bản ban đầu về số học, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và
thống kê đơn giản; hình thành các kĩ năng thực hành, đo lường, giải bài toán có
nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống, góp phần bước đầu phát triển năng lực
tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng. Nội dung cơ bản môn toán ở
Tiểu học bao gồm 5 tuyến kiến thức chính: Số học, Đại lượng và đo đại lượng,
Hình học, Thống kê mô tả, giải toán có lời văn. Trong đó tuyến kiến thức giải
toán có lời văn là nội dung cơ bản, chủ yếu của chương trình môn Toán ở Tiểu
học, Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở trường
phổ thông được thể hiện rõ ở 4 chức năng: Giáo dục toàn diện – Phát triển tư
duy trí tuệ - Kiểm tra đánh giá – Dạy học. Dạy học giải giải toán có lời văn có ý
nghĩa to lớn nhằm giúp HS củng cố lý thuyết vận dụng vào giải bài tập, vận
dụng vào đời sống; Rèn các kĩ năng; Phát triển tư duy như tư duy độc lập, sáng
tạo, lôgic, suy luận, phán đoán; Rèn cho HS thái độ học tập như tính đam mê,
cẩn thận, chính xác, tự giác, tích cực, sáng tạo, tự tin,… trong học tập, cụ thể:
Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả
các kiến thức về Số học, về Đo lường, về các yếu tố Đại số, các yếu tố Hình học,
Thống kê đã được học trong môn toán ở Tiểu học.
Thông qua nội dung thực tế muôn hình muôn vẻ của các đề toán, học sinh
sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để
rèn luyện khả năng áp dụng những kiến thức toán học vào thực tiễn cuộc sống.
Mỗi đề toán là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống. Khi giải mỗi bài toán, học
sinh biết rút ra từ bức tranh ấy bản chất toán học của nó, phải biết lựa chọn
những phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải
chính xác... Vì thế quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan
2
sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình.
Việc giải các bài toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói
quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán học sinh
phải biết tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu,
phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra cách
liên hệ giữa các số liệu. Nhờ đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn,
tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các
em sẽ khoa học hơn, tự tin và linh hoạt trong việc xử lí các tình huống trong
thực tiễn.
Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn
đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự
mình kiểm tra lại kết quả... Do đó giải toán là một cách rất tốt để rèn luyện đức
tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác.
Trong qua trình trực tiếp giảng dạy tại trường PTDTBT TH số 1 Sán Chải
chất lượng giáo dục của nhà trường được nâng lên, bên cạnh nhưng thành tựu
đạt được thì còn một số hạn chế như là chất lượng mũi nhọn chưa được nâng lên
rõ rệt, kĩ năng giải toán còn chậm đặc biệt là kĩ năng giải toán có lời văn của học
sinh lớp tôi đang giảng dạy.
Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm đứng lớp, tôi
thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở trường
tiểu học. Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp một, đặc biệt ở
học kì 2 lớp một các em đã viết lời giải cho phép tính… Vì vậy đây cũng là một
vấn đề mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt
chuyên môn, tích luỹ nghiệp vụ do nhà trường tổ chức. Làm thế nào để học sinh
hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng.
Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và sự nỗ lực không biết mệt mỏi của người
giáo viên đứng lớp.
Là một giáo viên đã có nhiều năm trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy, qua
kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp,
tôi đã rút ra được: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn
lớp 3” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và
chất lượng dạy và học đối với học sinh lớp 3 nói riêng.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Dạy học môn Toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ
bản ban đầu về số học, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và
thống kê đơn giản; hình thành các kĩ năng thực hành, đo lường, giải bài toán có
nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống, góp phần bước đầu phát triển năng lực
tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng. Nội dung cơ bản môn toán ở
Tiểu học bao gồm 5 tuyến kiến thức chính: Số học, Đại lượng và đo đại lượng,
Hình học, Thống kê mô tả, giải toán có lời văn. Trong đó tuyến kiến thức giải
3
toán có lời văn là nội dung cơ bản, chủ yếu của chương trình môn Toán ở Tiểu
học, Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở trường
phổ thông được thể hiện rõ ở 4 chức năng: Giáo dục toàn diện – Phát triển tư
duy trí tuệ - Kiểm tra đánh giá – Dạy học. Dạy học giải giải toán có lời văn có ý
nghĩa to lớn nhằm giúp HS củng cố lý thuyết vận dụng vào giải bài tập, vận
dụng vào đời sống; Rèn các kĩ năng; Phát triển tư duy như tư duy độc lập, sáng
tạo, lôgic, suy luận, phán đoán; Rèn cho HS thái độ học tập như tính đam mê,
cẩn thận, chính xác, tự giác, tích cực, sáng tạo, tự tin,… trong học tập, cụ thể:
Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả
các kiến thức về Số học, về Đo lường, về Các yếu tố Đại số, Các yếu tố Hình
học, Thống kê đã được học trong môn toán ở Tiểu học.
Thông qua nội dung thực tế muôn hình muôn vẻ của các đề toán, học sinh
sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để
rèn luyện khả năng áp dụng những kiến thức toán học vào thực tiễn cuộc sống.
Mỗi đề toán là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống. Khi giải mỗi bài toán, học
sinh biết rút ra từ bức tranh ấy bản chất toán học của nó, phải biết lựa chọn
những phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải
chính xác... Vì thế quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan
sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình.
Việc giải các bài toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói
quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán học sinh
phải biết tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu,
phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra cách
liên hệ giữa các số liệu. Nhờ đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn,
tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các
em sẽ khoa học hơn, tự tin và linh hoạt trong việc xử lí các tình huống trong
thực tiễn.
Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn
đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự
mình kiểm tra lại kết quả... Do đó giải toán là một cách rất tốt để rèn luyện đức
tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác.
Trong chương trình toán hiện hành, học sinh được làm quen toán có lời văn
ngay từ lớp 1 và các lớp khác của bậc tiểu học. Hầu hết ở các bài học dạng bài
hình thành kiến thức mới hay luyện tập thực hành bao giờ cũng có ít nhất là một
bài toán giải. Các bài toán giải có lời văn được rải đều tất cả các khối lớp và
được nâng cao dần về mức độ. Từ giải toán đơn (1 phép tính) ở lớp 1 đến giải
toán hợp (2 phép tính trở lên) và các bài toán điển hình ở lớp 2, 3, 4, 5. Toán có
lời văn thực chất là những bài toán thực tế. Nội dung bài toán được ghi bằng lời
văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống
thường xảy ra hằng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là phải lược bỏ những
yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất của bài toán, hay nói cách khác là chỉ ra
4
các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa trong bài toán và nêu ra phép
tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số bài toán.
Nói chung, giải toán có lời văn là yêu tố toán học trong chương trình môn
Toán, nó đòi hỏi người học khả năng tư duy khoa học vừa phải vận dụng tính
toán đồng thời phải sử dụng tư duy ngôn ngữ để hoàn thành bài giải. Điều đó có
thể là đơn giản đối với đối tượng học sinh năng khiếu nhưng ngược lại là khó
đối với đối tượng học sinh nhận thức chậm. Vì vậy, những em năng khiếu sẽ rất
hứng thú khi thực hành luyện tập các bài toán giải, ngược lại những em có khả
năng tư duy chậm hơn thì rất ngại học, chán nản dẫn đến tình trạng học sinh
chậm môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao so với các môn học khác.
Khi híng dÉn bµi to¸n một số gi¸o viªn cha lµm râ b¶n chÊt cña vÊn ®Ò, dÊu
hiÖu cña bµi to¸n, cha t¹o cho c¸c em thãi quen tãm t¾t bµi to¸n, lËp kÕ ho¹ch
gi¶i mµ chØ ®äc ®Ò råi gi¶i. §Æc biÖt ë líp 1, 2, 3 có giáo viên cho lµ dÔ, häc sinh
lµm ®îc ngay nªn thêng coi nhÑ việc hướng dẫn gi¶i to¸n, Ýt híng dÉn mµ cho
häc sinh tù ®äc ®Ò råi lµm. §©y lµ vÊn ®Ò gi¸o viªn cÇn quan t©m ®Ó cã thÓ híng
dÉn häc sinh gi¶i bµi to¸n cã lêi v¨n mét c¸ch hiÖu qu¶, qua ®ã cã thÓ ph¸t triÓn
n¨ng lùc t duy cho häc sinh.
Một số học sinh còn mải chơi, chưa chăm chỉ học tập, ngại hỏi giáo viên
khi không hiểu bài. Bên cạnh đó phần đa hoàn cảnh gia đình các em còn khó
khăn, do đó phụ huynh hầu như chỉ chăm lo làm kinh tế mà chưa thực sự quan
tâm tới việc học tập và giúp đỡ các em tháo gỡ kịp thời những khúc mắc, khó
khăn trong học tập khiến các em bỡ ngỡ khi làm bài, đặc biệt là Giải toán có lời
văn... chưa biết cách trình bày bài toán giải sao cho rõ ràng, đẹp mắt, ... dẫn đến
sự chán nản, thiếu tự tin,... từ đó tạo nên những lỗ hổng kiến thức trong học tập
của các em.
2. Thực trạng của vấn đề:
2. 1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của nhà trường và chính quyền địa
phương đã tạo điều kiện tốt nhất cho công tác giáo dục. Đặc biệt là sự quan tâm
giúp đỡ của nhà nước hỗ trợ chế độ bán trú nên các em được ăn ở tại trường
để có điều kiện học tập thuận lợi.
Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao
việc dạy học của giáo viên và học sinh.
Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.
Trong lớp có 12/22 học sinh ở bán trú.
2.2. Khó khăn:
Là một xã biên giới dân cư chủ yếu là người dân tộc Mông, đời sống kinh tế
còn nhiều khó khăn. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập
cũng như chất lượng học tập của các em.
Nhiều gia đình đi làm ở Trung Quốc để con ở nhà với ông bà, anh chị vì
vậy không ai quan tâm đến việc đi học của các em thậm chí các em phải nghỉ
học để đi làm nương cùng với anh chị.
5
Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của
các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
Cơ sở vật chất của nhà trường đã có đủ phòng học nhưng thiết bị dạy học
còn thiếu.
2.3. Thực trạng vấn đề
Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công giảng dạy lớp 3A trường
PTDTBT Tiểu học số 1 Sán Chải, lớp tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 22 học
sinh, nữ: 11 HS. Trong đó 100 % HS là dân tộc Mông. Các em ở rải rác khắp các
thôn trong xã, điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn điều đó cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.
Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
Việc tóm tắt, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với một số học sinh hoàn
thành và chưa hoàn thành của lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao,
nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp
Theo quy định một tiết dạy 35-40 phút, dạy kiến thức mới mất nhiều thời
gian, phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu
trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán, kĩ năng
giải toán có lời văn còn hạn chế. Cụ thể là:
Học sinh chỉ biết áp dụng giải đối với những bài tập đã cho biết hết điều
kiện bài toán.
Học sinh nhận thức chậm còn lúng túng chưa xác định được dạng toán để
áp dụng cách giải cho phù hợp.
Thậm chí có những học sinh còn chưa biết đặt lời giải, chưa trình bày một
bài giải sao chính xác, đầy đủ, gọn.
Lời giải không trùng với yêu cầu của phép tính đặt ra.
2.4. Các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
* Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa coi trọng việc hướng dẫn tổ
chức học sinh biết cách tìm hiểu phân tích tổng hợp bài toán, bỏ qua bước phân
tích bài toán khi hướng dẫn học sinh thực hành giải toán, thường là cho học sinh
đọc đề toán, cho học sinh xác định điều kiện cho biết và yêu cầu cần tìm sau đó
cho học sinh giải. Giáo viên đã bỏ qua bước quan trọng nhất để hướng dẫn học
sinh cách giải bài toán chính xác đúng với yêu cầu đặt ra là phân tích bài toán để
tìm ra mối liên quan giữa cái đã cho và cái cần tìm, xác định được dạng toán.
*Về phía học sinh: Do chưa có khả năng phân tích, tổng hợp hay khả năng
phân tích tổng hợp còn kém, sự chú ý không chủ định chiếm ưu thế, khả năng tư
duy lôgíc, tư duy ngôn ngữ còn hạn hẹp. Để giải toán có lời văn học sinh phải
kết hợp nhiều kĩ năng như: kĩ năng tính toán, kĩ năng tư duy ngôn ngữ để đặt lời
giải, kĩ năng trình bày bài khoa học nhưng các em còn hạn chế ở kĩ năng này.
Một số học sinh còn mải chơi, chưa chăm chỉ học tập, chây lười, ỷ nại, ngại
hỏi giáo viên khi không hiểu bài. Không thích tìm hiểu, khám phá. Bên cạnh đó
phần đa hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn, do đó phụ huynh hầu như chỉ
6
chăm lo làm kinh tế mà chưa thực sự quan tâm tới việc học tập và giúp đỡ các
em tháo gỡ kịp thời những khúc mắc, khó khăn trong học tập khiến các em bỡ
ngỡ khi làm bài, đặc biệt là Giải toán có lời văn...
*Về phía phụ huynh học sinh: Một số phụ huynh chỉ quan tâm dấu hiệu bên
ngoài của việc học tập đó là chỉ cần biết tính toán là được. Bên cạnh đó, phần đa
hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn, do đó phụ huynh hầu như chỉ chăm lo
làm kinh tế mà chưa thực sự quan tâm tới việc học tập và giúp đỡ các em tháo
gỡ kịp thời những khúc mắc, khó khăn trong học tập khiến các em bỡ ngỡ khi
làm bài, đặc biệt là Giải toán có lời văn, ... dẫn đến sự chán nản, thiếu tự tin,... từ
đó tạo nên những lỗ hổng kiến thức trong học tập của các em.
Khi tôi nhận lớp tôi đã khảo sát đầu năm chất lượng các môn đạt từ chuẩn
trở lên, riêng giải toán có lời văn tôi thu được kết quả như sau:
TSHS
Giải thành thạo
Kĩ năng giải chậm Chưa nắm được cách giải
22 em
3 em = 13,6%
9 em = 40,9 %
10 em = 45,5%
( Kết quả khảo sát ngày 15 tháng 9 năm 2016)
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
Việc học sinh thành thạo trong giải toán có lời văn sẽ giúp các em được rèn
luyện các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu
tượng hoá, cụ thể hoá,…; rèn luyện tư duy lôgíc và ngôn ngữ chính xác, rèn
luyện và phát triển các phẩm chất trí tuệ đó là tính linh hoạt và tính độc lập cho
học sinh (trong cách đặt lời giải, lựa chọn cách giải ngắn gọn,…). Ngoài ra còn
giáo dục cho các em tính thẩm mĩ: như biết lựa chọn một lời giải gọn, chính xác,
độc đáo, sự lập luận chặt chẽ và hợp lôgíc; trình bày bài giải hợp lí, sạch sẽ, đẹp
mắt và còn bồi dưỡng năng khiếu cho các em. Để đảm bảo được các chức năng
và nhiệm vụ khi giảng dạy học sinh giải toán có lời văn người giáo viên cần coi
trọng các bước khi hướng dẫn học sinh tham gia vào giải toán có lời văn trong
mỗi bài tập từ đó tạo thói quen cho học sinh trước khi giải một bài toán có lời
văn cần phải thực hiện qua các bước đó.
Thông qua việc hướng dẫn học sinh các bước giải toán có lời văn sẽ giúp
học sinh nắm vững cách giải toán có lời văn.
Mỗi lần tổ chức cho HS lập sơ đồ cách giải cho mỗi bài toán là đã giúp học
sinh củng cố và khắc sâu được vốn kiến kiến thức mà các em đã lĩnh hội.
Sau khi khảo sát chất lượng giải toán đầu năm học, bản thân tôi đã đã nắm
bắt được tình hình học sinh qua kĩ năng giải toán có lời văn đồng thời tìm hiểu
những sai lầm mà các em thường mắc phải khi giải toán có lời văn, tôi đã tiến
hành xây dựng các giải pháp như sau:
3.1. Kích thích sự chú ý cho học sinh:
Nhà tâm lí học Pôlya nói: “… Con người chỉ tư duy tích cực khi có nhu
cầu. Hoạt động nhận thức chỉ có kết quả cao khi chủ thể ham thích, tự giác và
tích cực”. (Pôlya, Tâm lý học, Tập II, Tr 128)
Do đó trong dạy học giải toán cần khéo léo sử dụng các phương pháp
7
thích hợp có tác dụng khêu gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư
duy của học sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của
giờ đang học. Đồng thời xây dựng niềm tin vào khả năng cho học sinh, làm cho
học sinh cảm thấy rằng nếu mình tập trung, chịu khó học tập thì sẽ thu lượm
được những kết quả tốt đẹp có ích cho bản thân, vừa lòng thầy cô, cha mẹ. Đặc
thù của việc giải toán đòi hỏi có các đức tính cần cù, chịu khó, tỉ mỉ, nhẫn nại,
thẩm mĩ, … nhưng học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi thường hay phân tán sự
tập trung, chóng chán. Hoạt động gợi nhu cầu nhận thức, gây hứng thú môn học
có thể được sử dụng linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Không nhất thiết, đơn
thuần chỉ sử dụng ngay đầu tiết dạy.
3.2. Phân loại đối tượng học sinh:
Nhận thức là hoạt động trí tuệ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà hình thức
thể hiện của nó là khả năng tiếp thu. Khả năng tiếp thu lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố môi trường. Xây dựng môi trường riêng cho mỗi cá nhân trong giờ học có
vai trò quan trọng trong việc giúp các em lĩnh hội các kiến thức bài học. Ta đã
biết học là hoạt động đơn phức của hoạt động trí óc. Do đó giáo viên cần nắm
thật vững, thật cụ thể lực học của từng cá nhân trong tập thể lớp để từ đó xây
dựng môi trường riêng, cách hướng dẫn riêng cho cá nhân trong hoạt động nhận
thức tiếp thu bài.
VD: Học sinh có tầm vóc thấp bé, cần bố trí chỗ ngồi hợp lý tránh tình trạng
đứng viết hoặc viết trên ghế.
VD: Học sinh có thị lực yếu, cần bố trí vị trí ngồi hợp lý trong lớp để em
nhìn rõ thuận tiện cho quá trình học tập.
VD: Học sinh ham chơi, khả năng tiếp thu chậm thì cần bố trí chỗ ngồi gần
bảng gần bàn giáo viên ở dãy ngoài để thuận tiện cho việc học của học sinh cũng
như giáo viên sẽ thuận tiện hơn trong việc kèm cặp, giúp đỡ.
Đối với những học sinh nhận thức chậm thì giáo viên phải chuẩn bị hệ
thống câu hỏi phụ nhiều hơn, chi tiết hơn để gợi ý hướng dẫn các em từng bước
tìm ra cách giải bài toán.
3.3. Xác định vai trò của dạy học giải bài toán:
Giáo viên cần phải xác định rõ: Việc dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm
giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán được rèn luyện ở kĩ
năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú.
Nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển
năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết
của người lao động mới.
Giải toán là một hoạt động bao gồm những những thao tác như xác lập được
mối liên hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của
bài toán để từ đó chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng cho câu hỏi bài
toán đặt ra.
3.4. Xác định cách thức tổ chức dạy học giải toán:
8
Điều quan trọng và chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp cho học
sinh tự mình tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong
điều kiện của bài toán và thiết lập được các phép tính số học tương ứng. Để tiến
hành được điều đó người ta đã xác định được ba mức độ sau đây:
- Mức độ thứ nhất: Bao gồm các hoạt động chuẩn bị cho việc giải bài toán.
- Mức độ thứ hai: Các hoạt động giúp HS làm quen với việc giải bài toán.
- Mức độ thứ ba: Bao gồm các hoạt động để hình thành các kĩ nặng để giải
bài toán.
a. Chuẩn bị cho việc giải toán:
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng
ta không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần
quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt.
Chúng ta đã biết học sinh lớp 3, đặc biệt là một số em chưa hoàn thành
còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy , để các em mạnh dạn tự tin
khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích
các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều
trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết học các
em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên
cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh:
Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe,
hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn
chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học
Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học
sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải toán một cách thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng suy luận của học sinh còn kém.
Học sinh chưa có kỹ năng phân tích - tổng hợp trước một đề toán. Khả năng
chuyển bài toán hợp về các bài toán đơn còn yếu. Khi giải toán các em chưa tập
hợp được kiến thức, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá.Điều
đáng chú ý ở đây là cách đặt lời giải cho phép tính, rất nhiều em chưa biết cách
đặt lời giải hoặc lời giải đặt chưa hợp lý. Do các em không được uốn nắn, luyện
tập nhiều trong quá trình học.
Như vậy nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài làm là:
Năng lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn
rất kém. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi
ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa
được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở những tiết toán có
bài toán giải tôi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp
trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 50 SGK Toán 3.
“ Thùng thứ nhất đựng 18 l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
9
nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”.
Yêu cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:
Thùng 1 có :
18l .
Thùng 2 có:
nhiều hơn 6l.
Hỏi cả hai thùng: .... l dầu?.
Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài toán, tôi hướng dẫn học
sinh tập tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Thùng 1
Thùng 2
18l
6l
Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng,
?l
tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải:
Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải
tính gì? ( Tính số dầu ở thùng thứ hai).
Yêu cầu học sinh nêu miệng lời giải và phép tính:
Thùng thứ hai đựng được số dầu là:
18 + 6 = 24 (l)
Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai:
Cả hai thùng đựng được số dầu là:
18 + 24 = 42 (l)
Tuy nhiên ở phép tính thứ hai, tôi thấy có một số em thực hiện tìm số dầu
cả hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 (l).
Đối với những em này, tôi nhận thấy các em có khả năng tư duy chưa tốt,
còn chưa nắm vững yêu cầu bài toán, đây là những trường hợp nằm trong nhóm
đối tượng học sinh nhận thức chậm. Tôi phải hướng dẫn các em hiểu rõ:
5kg ?kg
Muốn tìm số dầu cả hai thùng ta phải làm gì? để các em nêu được: Lấy số
dầu thùng thứ nhất + số dầu ở thùng thứ hai và giúp cho các em thấy được số
dầu ở thùng thứ nhất là 18l và số dầu ở thùng thứ hai là 24l.
Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán
và tập tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng nhiều lần để các em ghi nhớ một
bài toán.
Ví dụ: Bài tập 3 (trang 50 - SGK Toán 3)
27kg
Bao gạo
Bao ngô
Tôi cho học sinh đọc thầm phần tóm tắt, thảo luận nhóm đôi bạn rồi nêu đề
toán bằng lời theo yêu cầu.
Học sinh: Bao gạo nặng 27 kg. Bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai
bao gạo và ngô nặng tất cả bao nhiêu ki-lô-gam?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
Bao ngô nặng là: 27 + 5 = 32 (kg)
10
Cả hai bao gạo và ngô nặng là: 32 + 27 = 59 (kg)
Rồi tự trình bày bài giải:
Bao ngô nặng là:
27 + 5 = 32 (kg)
Cả hai bao gạo và ngô nặng là:
32 + 27 = 59 (kg)
Đáp số: 59 kg.
b. Xác định rõ các bước giải một bài toán:
Hoạt động này được hình thành theo bốn bước sau đây:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ
khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn
1 1
từ thông thường như: “ gấp đôi”, “ , ”, “tất cả”…
3 4
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài
toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại:
“ Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán…
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội
dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và
dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài
toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán.
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép chia” nếu
1 1
bài toán yêu cầu “tìm , ... ”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn
3 4
lại” hay là “lấy ra”. Chọn “phép nhân” nếu “gấp đôi, gấp 3” …
Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa
1
được quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường
3
nữa? (Bài 2 tr 119).
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái
đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu
hỏi gợi ý như:
+ Bài toán cho biết gì? (phải sửa quãng đường dài 1215m.)
1
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (đã sửa được quãng đường.)
3
11
+ Bài toán hỏi gì? (Đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa?)
+ Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa
trước hết phải tìm gì trước? Nêu cách tìm? (Tìm số mét đường đã sửa: 1215 : 3)
+ Sau khi tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (Tìm số mét
đường còn phải sửa)
+ Nêu cách tìm? ( Lấy tổng số mét đường phải sửa trừ đi số đã sửa).
b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng
quan trọng và khó khăn nhất đối với một số học sinh nhận thức chậm lớp 3.
Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là
một khó khăn lớn đối với người dạy. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi lựa
chọn các cách hướng dẫn sau:
Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của
bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu lời
giải: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:” (Đối với bài toán đơn)
Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: “Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa
bao nhiêu mét đường nữa trước hết phải tìm gì trước?” Để học sinh trả lời
miệng: “Tìm số mét đường đã sửa:” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải
(gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính):
Số mét đường đã sửa là:
1215 : 3 = 405 (m)
Số mét đường còn phải sửa là:
1215 - 405 = 810 (m)
Đáp số: 810 m.
Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các
em cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như 2
cách trên.
Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em
suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất
phù hợp với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (ngắn gọn, dễ
hiểu, phù hợp với các em) còn các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và
phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán:
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu trong kế hoạch
giải bài toán và trình bày bài giải.
1
Ví dụ 1: Một thùng đựng 24l mật ong, lấy ra số lít mật ong đó. Hỏi trong
3
thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong?
Học sinh lớp tôi thực hiện được cách làm như sau:
12
Tóm tắt
Có :
Bài giải
Số lít mật ong được lấy ra là:
24l.
1
Lấy ra:
số l mật ong.
3
Còn lại: ....l mật ong?
24 : 3 = 8 (l)
Trong thùng còn lại số lít mật ong là:
24 – 8 = 16 (l)
Đáp số: 16 lít mật ong.
Ví dụ 2: Một bến xe có 45 ô tô. Lúc đầu có 18 ô tô rời bến, sau đó có thêm
17 ô tô nữa rời bến. Hỏi bến xe đó còn lại bao nhiêu ô tô?
Học sinh lớp tôi thực hiện như sau
Tóm tắt
Bài giải
Có:
45 ô tô.
Số ô tô rời bến là:
Rời bến: 18 ô tô.
18 + 17 = 35 (ô tô)
Rời tiếp: 17 ô tô.
Số ô tô còn lại trong bến là:
Còn lại: ? ô tô.
45 – 35 = 10 (ô tô)
Đáp số: 10 ô tô.
Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán:
Việc giúp cho học sinh có thói quen tự kiểm tra lại kết quả của bài toán đã
tìm ra là một việc rất quan trọng, vì nó giáo dục các em đức tính cẩn thận, chu
đáo, ý thức trách nhiệm với công việc mình làm.
Việc kiểm tra này nhằm phân tích cách giải của bài toán đúng hay sai ở chỗ
nào để sửa chữa sau đó nếu cách giải đúng thì ghi đáp số. Giáo viên hướng dẫn
cho học sinh các cách kiểm tra kết quả của bài toán như:
Cách 1: Xét tính hợp lí của đáp số.
Cách 2: Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được với các số
đã cho trong bài toán.
Cách 3: Giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau nhưng có cùng kết quả.
Cách 4: Xây đựng bài toán ngược rồi giải bài toán đó.
c. Hình thành kĩ năng giải bài toán:
- Mục tiêu ở đây là hình thành năng lực khái quát hóa và kĩ năng giải toán,
rèn luyện năng lực sáng tạo trong học tập. Ta có thể tiến hành một vài giải pháp
sau đây:
Cho HS giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ
giữa số đã cho và số phải tìm hoặc là điều kiện trong bài toán. Ví dụ:
Bài toán 1: Một huyện trồng được 3256 cây lấy gỗ và 608 cây ăn quả. Hỏi
huyện đó trồng được tất cả bao nhiêu cây?
Bài toán 2: Một huyện trồng được 3256 cây lấy gỗ và số cây ăn quả bằng ½
số cây lấy gỗ. Hỏi huyện đó trồng được tất cả bao nhiêu cây?
Tiếp xúc với các bài toán thiếu đi một số các dữ liệu đã cho (VD: Bài toán 2)
Giải các bài toán trong đó phải xét tới nhiều khả năng xảy ra để chọn được
13
một khả thỏa mãn với điều kiện của bài toán.
Biết lập và biến đổi bài toán (Xây dựng bài toán ngược)
Ví dụ minh hoạ:
* Đối với kiểu bài đã biết hết các điều kiện bài toán.
Ví dụ 1: Một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài 35m, chiều rộng 20m.
Tính chu vi mảnh đất đó. (Toán lớp 3)
Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài toán:
Yêu cầu HS đọc kĩ để toán và trả lời: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu
tìm gì? (HS trả lời - Nhận xét)
Để tính được chu vi hình chữ nhật ta làm như thế nào? (HS nêu - Nhận xét)
Bước 2: Tìm tòi cách giải của bài toán:
Căn cứ vào dạng toán chúng ta vận dụng cách tóm tắt nào? (ngôn ngữ)
Yêu cầu HS tóm tắt được bài toán.
Tóm tắt:
Chiều dài : 35m
Chiều rộng : 20m
Chu vi
: …m ?
* Phân tích, tìm cách giải:
Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta làm thế nào? (Lấy chiều dài cộng chiều
rộng (cùng đơn vị đo) rồi nhân với 2.)
Quá trình phân tích trên GV lần lượt hướng dẫn học sinh lập sơ đồ ghi
vắn tắt cách giải như sau:
Chu vi =
( chiều dài
+ chiều rộng )
x
2
35m
20m
Sau khi học sinh đã biết cách phân tích bài toán trước lúc giải một bài toán
có lời văn GV yêu cầu mỗi học sinh tự lập sơ đồ cách giải vào giấy nháp rồi giải
bài toán.
Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán:
Hướng dẫn học sinh nhìn sơ đồ để trình bày hoàn chỉnh bài giải: Tìm đủ điều
kiện bài toán rồi mới tìm yêu cầu)
Bài giải:
Chu vi mảnh đất hình chữ nhật đó là:
(35 + 20) x 2 = 110 (m)
Đáp số: 110m
Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán:
Yêu cầu học sinh tự kiểm tra lại kết quả của bài giải xem đã đúng hay chưa.
* Đối với kiểu bài chưa biết hết các điều kiện bài toán.
Ví dụ: Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh. Hỏi hai anh
em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh? (Bài 1/50 SGK Toán 3)
Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài toán:
14
Yêu cầu học sinh đọc kĩ để toán và trả lời: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu
cầu tìm gì? Để tính được diện tích thửa ruộng hình thang hình cần phải biết
những điều kiện nào?
Bước 2: Tìm tòi cách giải của bài toán:
Căn cứ vào dạng toán chúng ta vận dụng cách tóm tắt nào? (ngôn ngữ)
Tóm tắt:
Anh có
: 15 tấm bưu ảnh
Em có ít hơn anh : 7 tấm bưu ảnh
Cả hai anh em
: … tấm bưu ảnh?
* Ta có thể dùng phương pháp phân tích để hướng dẫn HS suy luận như sau:
Bài toán hỏi gì? (Hai anh em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh)
Muốn biết hai anh em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh ta làm như thế nào?
(Lấy số bưu ảnh của anh cộng với số bưu ảnh của em)
Số bưu ảnh của anh biết chưa? (Biết rồi )
Số bưu ảnh của em biết chưa? (Chưa biết). Muốn tìm số bưu ảnh của em ta
làm thế nào? (Lấy số bưu ảnh của anh trừ đi 7)
Có thể ghi vắn tắt quá trình phân tích trên bằng sơ đồ:
Tất cả
||
Anh + Em
||
Anh – 7
Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán:
Từ sơ đồ trên ta có thể đi ngược từ dưới lên để trình bày bài giải như sau:
Bài giải:
Số bưu ảnh của em là:
15 – 7 = 8 (tấm)
Tất cả số bưu ảnh của hai anh em là:
15 + 8 = 23 (tấm)
Đáp số: 23 tấm bưu ảnh
Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán:
Yêu cầu học sinh tự kiểm tra lại kết quả của bài giải xem đã đúng hay chưa.
Có thể dùng các hình thức kiểm tra sau:
Xét tính hợp lí của đáp số
Trong trường hợp bài toán có nhiều cách giải mà tất cả các cách giải đều
dẫn tới cùng một đáp số thì đáp số đó là đúng.
- Thử lại đáp số dựa vào các mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìm
bằng cách lập bài toán ngược lại bài toán đã giải, coi đáp số tìm được là số đã biết và
một trong những số đã cho là chưa biết. Nếu tìm thấy đáp số của bài toán ngược này
đúng bằng số đã cho coi là chưa biết ấy thì bài toán đã được giải đúng.
Chẳng hạn: Xét tính hợp lí của bài toán trên là:
15
Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có 8 tấm bưu ảnh. Vậy số bưu ảnh của em ít
hơn của anh là:
15 – 8 = 7 (tấm)
Cả hai anh em có 23 tấm bưu ảnh mà anh có 15 tấm bưu ảnh, vậy em có số
tấm bưu ảnh là:
23 – 15 = 8 (tấm)
Vậy bài toán giải đúng.
3.5. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh:
Xây dựng mối quan hệ Gia đình – Nhà trường có vai trò quan trọng trong
tất cả các môn học. Riêng phân môn Toán đặc biệt là giải toán có lời văn thì giáo
viên cần có biện pháp phối kết hợp cùng gia đình để rèn luyện kỹ năng giải toán
cho học sinh, cụ thể:
Đề nghị phụ huynh thường xuyên theo dõi và nhắc nhở con em học và làm
bài ở nhà, dành quỹ thời gian hợp lý để kèm các em học giải toán khi cần.
Cung cấp các thông tin về tình hình học tập, sai lầm và lỗi hay gặp của học
sinh để phụ huynh phối hợp cùng uốn nắn sửa chữa.
Cung cấp các số liệu về môi trường làm việc của trẻ để phụ huynh nắm
được như: Quy cách bàn – ghế phù hợp với trẻ, khoảng thời gian hợp lý để học.
3.6. Tìm hiểu một số sai lầm của học sinh khi giải toán:
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học giải toán có lời văn nói
riêng, giáo viên cần theo dõi để tìm ra được những sai lầm của học sinh trong
học tập cũng như trong giải toán như: Không nắm được cách giải; Bài giải còn
thiếu, phép tính chưa đúng với lời giải đặt ra; Lời giải chưa đầy đủ; sai tên đơn
vị… Để từ đó tìm ra hướng khắc phục những thiếu sót, sai lầm cho học sinh
nhằm giúp các em ngày càng tiến bộ hơn.
3.7. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập:
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý
từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những
em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi
các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi
tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn.
Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ
rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học
sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học
tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.
Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí
thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề
tốt ch o việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối
16
trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang
trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện
vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học
cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có
hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là
kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên
cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2-3
phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa
giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng
nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học….
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý
đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu
được những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng
và trong chất lượng môn Toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là dạng
toán khó và mới của chương trình hiện nay. Học sinh phải đặt lời giải trước phép
tính và kết quả của bài toán. Nếu các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp ba
chắc chắn sau này các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở dạng
toán khó hơn.
Sau thời gian áp dụng các biện pháp trên tôi thu được kết quả như sau:
TSHS
Giải thành thạo
Kĩ năng giải chậm Chưa nắm được cách giải
22 em
7 em = 31,8 %
14 em = 63,6 %
1 em = 4,5%
( Kết quả khảo sát ngày 31 tháng 3 năm 2017)
Qua thời gian áp dụng các giải pháp trên kĩ năng giải và trình bày bài giải
của các em đã tiến bộ rõ rệt. Điều đó chứng tỏ biện pháp này đã có ảnh hưởng
rất lớn tới việc giải toán của học sinh. Các em học tập chủ động hơn, tích cực
hơn. Kết quả học tập cao hơn. Ngoài ra các em còn đạt được thành tích trong các
cuộc thi như Giải toán qua mạng bằng Tiếng Việt cấp trường là 6 học sinh tham
gia thi, cấp huyện là 4 em tham gia thi, cấp tỉnh là 1 em tham thi. Kết quả đạt
cấp trường là 4 em, giải khuyến khích cấp huyện là 1 em.
Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác
của học sinh, được sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó
là các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh chưa hoàn thành tuy
vẫn còn nhưng chỉ còn với tỉ lệ khá nhỏ, số học sinh hoàn thành và hoàn thành
tốt tăng. So với năm học trước thì kết quả trên thật là một điều đáng mừng. Điều
17
đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy học của tôi đã có kết
quả khả quan. Những thầy cô giáo trường bạn trong lần thanh tra trường khi dự
giờ lớp tôi cũng đã công nhận lớp học sôi nổi, nắm kiến thức vững chắc. Đó
chính là động lực để tôi tiếp tục theo đuổi ý tưởng của mình. Với kết quả này,
chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp tục phát huy hơn
nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn.
Qua quá trình giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận và tìm
hiểu thực tiễn. Tôi đã đề xuất một số biện pháp phù hợp với đặc điểm nhận thức
của học sinh Tiểu học để các em nắm chắc các bước giải toán có lời văn, hình
thành kỹ năng giải toán có lời văn góp phần nâng cao chất lượng môn Toán.
Trên cơ sở những kinh nghiệm đã áp dụng và kết quả thu được tôi rút ra bài học
kinh nghiệm sau:
Cải tiến phương pháp giải toán cho học sinh. Đây là khâu then chốt quyết
định chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Cần kết hợp tốt giữa dạy Toán với các phân môn Tiếng Việt và môn học khác.
Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động trong giờ học, chú trọng đến việc gợi
nhu cầu nhận thức cho học sinh trong quá trình dạy học.
Thường xuyên nhắc nhở các em vận dụng các quy tắc, thực hiện đầy đủ
các bước khi giải toán có lời văn.
Tìm hiểu những sai lầm của học sinh trong việc giải toán có lời văn.
Vận dụng tốt các phương tiện dạy học (SGK, vở thực hành, đồ dùng học
tập, phiếu học tập...) để thực hiện tốt mục tiêu, kết hợp tổ chức các trò chơi, đố
vui, kể chuyện toán học, để giờ học nhẹ nhàng sinh động, học sinh học thoải
mái, tránh áp đặt câu hỏi.
Trong mỗi tiết học cần tổ chức nhiều hoạt động hấp dẫn phù hợp với đặc
trưng môn học như: quan sát, thảo luận, thực hành, chơi trò chơi, … nhằm phát
huy tính tự chủ tron học tập (Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học). Đặc
biệt là chú trọng phương pháp thực hành – luyện tập trong việc giải toán. Cần nêu
vấn đề để phát huy năng lực cá nhân, tạo lập mối quan hệ hợp tác giữa giáo viên
và học sinh, giữa học sinh và học sinh, giữa học sinh- giáo viên và cộng đồng.
Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi
tin rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng
của các em lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em
học tốt hơn ở các lớp sau.
2. Kiến nghị, đề xuất:
* Đối với giáo viên:
Cần coi trọng việc hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn theo 4 bước.
Cần phải coi trọng phương pháp thực hành – luyện tập trong dạy học môn toán.
Cần đặc biệt quan tâm đến việc thường xuyên ôn tập, củng cố và hệ thống
hóa các kiến thức đã học và kỹ năng trong dạy học môn toán.
Cần phải kết hợp chặt chẽ việc dạy học tuyến kiến thức giải toán có lời văn
18
với dạy học các tuyến kiến thức khác.
* Đối với nhà trường:
Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo
phục vụ cho giảng dạy.
Thường xuyên tổ chức cho giáo viên sinh hoạt chuyên môn để giáo viên
trao đổi học tập kinh nghiệm.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
nhằm bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích môn Toán cho học sinh lớp 3. Trong
quá trình thực hiện tôi đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song không
tránh được những thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
và đóng góp chân thành của các cấp lãnh đạo, các đồng chí đồng nghiệp để tôi
giảng dạy ngày một tốt hơn, góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy của Trường PTDTBT Tiểu học số 1 xã Sán Chải..
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sán Chải, ngày 3 tháng 4 năm 2017
Người viết sáng kiến
Trần Thị Thu Hằng
PHÊ DUYỆT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
19
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1/ Pôlya: Tâm lý học – NXB giáo dục, 1990 (Bản dịch Tiếng Việt)
2/ Phương pháp dạy học môn học Toán ở tiểu học – NXB GD 2008.
3/ Những sai lấm (lỗi) khi giải toán ở Tiểu học – NXB GD 2010.
4/ Hướng dẫn giải toán – NXB GD
5/ Chuyên đề Giáo dục Tiểu học – Tập 49/2011
6/ Phương pháp giải bài toán ở Tiểu học - Lê Công Hạnh.
7/ Phương pháp viết nghiên cứu khoa học ứng dụng sư phạm.
8/ Sách giáo khoa toán lớp 3.
20
- Xem thêm -