Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp làm tốt công tác y tế học đường trong trường mầm non...

Tài liệu Một số biện pháp làm tốt công tác y tế học đường trong trường mầm non

.DOC
32
1183
132

Mô tả:

PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có câu khẩu hiệu mà bất cứ quốc gia nào, đất nước nào cũng biết đến là “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Vì vậy, công tác chăm sóc sức khỏe cho đối tượng học sinh lúc nào cũng có nhiều ý nghĩa thiết thực và giữ một vai trò, vị trí quan trọng của mỗi quốc gia. Học sinh là đối tượng đang ở trong giai đoạn phát triển và lớn nhanh về mọi mặt. Do đó muốn có một thế hệ tương lai vừa khỏe mạnh, vừa thông minh thì toàn xã hội cần phải chú ý đến công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho các em ngay từ tuổi đến trường. Trong cuộc đời của một con người, người học sinh có khoảng 20 năm phải ngồi trên ghế nhà trường từ bậc mầm non đến bậc trung học phổ thông để thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. Đây chính là thời gian các em gặp phải khá nhiều bệnh tật từ môi trường sống, môi trường học đường; bị ảnh hưởng bởi các tai nạn, thương tích hoặc do chế độ dinh dưỡng không hợp lý... Nếu không có sự chăm sóc của gia đình và xã hội nói chung, của ngành y tế và ngành giáo dục - đào tạo nói riêng thì những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của học sinh là điều không thể tránh khỏi và trở thành vấn đề rất lớn của xã hội. Nhiều loại bệnh tật sẽ để lại những di chứng suốt cả cuộc đời của các em nếu như không được chăm sóc, bảo vệ một cách đầy đủ. Nhà trường là nơi tập trung nhiều học sinh, đối tượng này được sinh hoạt, học tập trong một khoảng không gian hạn chế của trường học và phòng học. Đây là những yếu tố và điều kiện thuận lợi để cho các loại tai nạn, thương tích, bệnh tật có cơ hội phát sinh, lây nhiễm. Vì thế, sự phát 1 triển lệch lạc trong giai đoạn này sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường sau này sẽ khó khắc phục. Nhà trường là nơi giáo dục toàn diện cho cả một thế hệ trẻ liên tục từ hết thế hệ này kế tiếp đến các thế hệ khác. Vì vậy, Y tế trường học là một công tác quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe cho trẻ và là một công tác cần được quan tâm triển khai hoạt động một cách liên tục nhằm chuyển biến các kiến thức khoa học thành các kỹ năng thực hành trong mọi hoạt động sống của lứa tuổi học đường. Làm tốt công tác Y tế học đường là việc làm hết sức cần thiết để công tác giáo dục đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ Lao đô ông. Điều đó góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển giáo dục và xa hơn nữa là sức khỏe của dân tộc mai sau. Để có một thế hệ trẻ có đầy đủ đức tài và thể lực đáp ứng yêu cầu thời đại Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá thì chúng ta phải thực sự quan tâm chăm sóc, nuôi dạy trẻ tốt giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về thể chất cũng như tinh thần là một yêu cầu vô cùng cấp thiết. 2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tế ngành Mầm non đã thu hút được hơn 85% trẻ trong độ tuổi đến trường. Vì vậy trẻ được chăm sóc sức khỏe trong trường Mầm non chiếm tỷ tệ khá cao. Công tác chăm sóc sức khỏe trong trường Mầm non, mặc dù đã được quan tâm nhưng mới chỉ chú ý đến bề ngoài còn mang nặng tính hình thức mà chưa phát triển sâu rộng. Trường Mầm non nơi tôi đang công tác là một trường trọng điểm nằm ở trung tâm thành phố với trình độ dân trí và điều kiện kinh tế phát triển. Nhà trường luôn được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo sát sao nhưng việc thực hiện chăm sóc sức khỏe học đường còn gặp nhiều khó khăn. Cơ 2 sở vật chất, trang thiết bị đã có nhưng còn ở mức độ thô sơ và chưa có phòng Y tế riêng. - Đội ngũ giáo viên nhiệt tình yêu nghề mến trẻ có trách nhiệm cao nhưng trình độ chuyên môn chưa đồng đều, tuổi đời còn trẻ. - Tỷ lệ trẻ mắc các bệnh nhiễm trùng, viêm nhiễm đường hô hấp, bệnh về tiêu hóa, bệnh về mắt, bệnh răng miệng còn cao. Việc chăm sóc chủ yếu dựa vào những kiến thức thực hành chăm sóc sức khỏe của giáo viên được cung cấp ở các trường Sư phạm mầm non, qua học tập bồi dưỡng các chuyên đề do các cấp tổ chức hoặc qua phối hợp với Y tế địa phương. - Sự phối hợp giữa Gia đình - Nhà trường tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa trường Mầm non và cha mẹ trẻ nhằm chia sẻ kinh nghiệm hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ còn hạn chế. Vì vậy thiết kế, đề xuất các biện pháp cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe trẻ em, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của bậc học mầm non vào mục tiêu đào tạo phát triển toàn diện cho trẻ là hết sức cần thiết. Là một cán bộ Y Tế, xác định được tầm quan trọng của công tác y tế học đường, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Một số biện pháp làm tốt công tác Y tế học đường trong trường Mầm non" II. ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐỀ TÀI Nghiên cứu thực trạng và nghiên cứu một số biện pháp chính để thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe học đường cho trẻ trong độ tuổi mầm non. III. PHẠM VI ÁP DỤNG Đề tài được nghiên cứu áp dụng đối với trẻ Mầm non tại trường Mầm non nơi tôi đang công tác và có thể trao đổi với các trường mầm non khác trong toàn bậc học. IV. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI 3 Nhằm cung cấp một số biện pháp tăng cường công tác chăm sóc nâng cao sức khoẻ học đường, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện cho trẻ Mầm non. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để hoàn thành tốt đề tài này tôi đã áp dụng những phương pháp nghiên cứu sau: 1. Phương pháp học tập nghiên cứu tài liệu 2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế 3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 4. Phương pháp so sánh đối chứng 5. Phương pháp tuyên truyền PHẦN THỨ HAI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có sự phối hợp chỉ đạo triển khai công tác y tế trường học trên phạm vi cả nước, ban hành nhiều văn bản pháp quy quan trọng, tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh những hoạt động trong lĩnh vực này và là cơ sở xây dựng kế hoạch triển khai công tác y tế trong trường học. Tạo tiền đề thúc đẩy cho công tác này được hoạt động tốt, hạn chế tới mức thấp nhất trẻ mắc bệnh ở tuổi học đường, thực hiện mục tiêu chương trình nêu cao khẩu hiệu “Vì sức khoẻ trẻ em”. Riêng bậc học mầm non những năm trở lại đây được sự quan tâm của Đảng và nhà nước nên việc chăm sóc giáo dục trẻ đã có những bước tiến 4 đáng kể, góp phần nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ trẻ em tại các cơ sở mầm non. Trước khi áp dụng “Một số biện pháp làm tốt công tác Y tế học đường trong trường mầm non” tôi đã tiến hành khảo sát như sau: 1. Khảo sát kết quả theo dõi biểu đồ tăng trưởng a. Kết quả theo dõi cân nặng Năm học TS Trẻ phát triển BT trẻ về cân nặng cân 2009-2010 2010-2011 Số trẻ Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân SDD vừa SDD nặng Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % 484 465 96,1 19 3,9 0 505 490 97,0 15 3,0 0 * Biểu đồ quần thể theo dõi cân nặng theo độ tuổi Tỷ lệ % 100 97.0% 96.1% 80 490 trẻ 465 trẻ 60 40 20 5 3.9% 19 trẻ 2010-2011 Năm học 0 0 3.0% 15 trẻ 0 2009-2010 Ghi chú: Màu xanh Trẻ phát triển bình thường Màu vàng Trẻ Suy dinh dưỡng vừa Màu cam Trẻ Suy dinh dưỡng nặng b. Kết quả theo dõi chiều cao TS Năm học trẻ cân 2009-2010 2010-2011 Trẻ phát triển BT về chiều cao Số trẻ Tỷ lệ % Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân SDD vừa SDD nặng Số Số trẻ Tỷ lệ % Tỷ lệ % trẻ 484 463 95,7 21 4.3 0 505 489 96,8 16 3,2 0 Biểu đồ quần thể theo dõi chiều cao theo độ tuổi Tỷ lệ % 100 96,8% 95,7% 80 489 trẻ 463 trẻ 60 40 6 20 4,3% 21 trẻ 2010-2011 Năm học 0 0 3.2% 16 trẻ 0 2009-2010 Ghi chú: Màu xanh Trẻ phát triển bình thường Màu vàng Trẻ Thấp còi độ 1 Màu cam Trẻ Thấp còi độ 2 2. Khảo sát kết quả khám sức khỏe định kì Tổng `Năm học số trẻ khám TS Số trẻ mắc các bệnh Tai, mũi, họng Tỷ lệ % Răng hàm mặt Tỷ lệ Tim, Tỷ lệ Bệnh Tỷ lệ % % khác % phổi trẻ Tỷ lệ mắc % bệnh 2009-2010 480 17 3,5 68 14,2 1 0,2 3 0,6 89 18,5 2010-2011 501 17 3,4 67 13,4 0 0 2 0,4 86 17,2 3. Công tác tuyên truyền Nhà trường đã chỉ đạo 100% nhóm lớp xây dựng góc tuyên truyền song chưa hiệu quả, chưa cập nhật được những thông tin mang tính thời sự, hình ảnh và nội dung còn nghèo nàn không được thay đổi thường xuyên. Phụ huynh học sinh chưa hiểu hết tầm quan trọng của công tác phối kết hợp giữa Nhà trường – Gia đình về chăm sức khoẻ cho trẻ. Do đó, công tác tuyên truyền chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của họ. Với thực tế khảo sát như vậy tôi đã tìm ra những giải pháp khắc phục để có kết quả như ý muốn. 7 II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch hoạt động y tế học đường Đây là công tác quan trọng hàng đầu được thực hiện vào đầu năm học, công tác này là kim chỉ nam cho hoạt động. Một nhân viên y tế trường học muốn công tác Y tế học đường hoạt động có hiệu quả thì phải xây dựng được kế hoạch một cách thiết thực, hiệu quả nhất để trình lãnh đạo phê duyệt và tổ chức thực hiện. Đầu năm học, cán bộ chuyên trách mảng y tế trường học của Phòng giáo dục sẽ có kế hoạch thực hiện chung cho tất cả các đơn vị trường học mà Phòng quản lý. Đây sẽ là định hướng chung cho kế hoạch hoạt động tại đơn vị. Tùy theo đặc thù của đơn vị, chương trình y tế của địa phương mà người cán bộ y tế trường học mới xây dựng chi tiết về kế hoạch của mình. Khi lên kế hoạch, tôi luôn chú trọng đến việc thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục cho học sinh về việc phòng bệnh rải đều trong 9 tháng học tập, tháng nào tại địa phương thường hay xuất hiện loại bệnh gì thì tuyên truyền, giáo dục loại bệnh đó. Ngoài ra tôi còn đặc biệt chú trọng đến các đại dịch mang tính chất thời sự mà thế giới và nước ta quan tâm, lo lắng. Ví dụ: Dịch cúm A H1N1, cúm AH5N1... hoặc trong năm học có dịch Chân - Tay - Miệng… tôi sẽ xây dựng một kế hoạch thực hiện riêng để đạt hiệu quả tuyên truyền giáo dục cao hơn. Đó là kế hoạch hoạt động chung cho cả năm học. Ngoài kế hoạch chung, tôi còn lên kế hoạch cho từng tuần cụ thể. Từng ngày trong tuần thực hiện công việc gì nêu ra cho rõ ràng. Sau khi lên được kế hoạch chi tiết, thiết thực tôi trình lãnh đạo phê duyệt và tiến hành tổ chức thực hiện. Trong quá trình thực hiện tôi cũng luôn bám sát theo chỉ đạo của Phòng giáo dục, chương trình y tế địa phương để kịp thời bổ sung vào kế hoạch thực hiện cũng như có được sự chủ động để phối hợp với thực hiện các chương trình y tế cho đơn vị. 8 Kế hoạch Y tế trường học được tôi xây dựng như sau: Biện pháp 2: Tạo môi trường thân thiện, trong sạch an toàn Là cán bộ phụ trách y tế tôi thấy tầm quan trọng của công tác vệ sinh môi trường liên quan mật thiết đến sức khỏe và hạnh phúc của con người. Môi trường sạch sẽ phòng được 80% bệnh tật. Môi trường tốt sẽ là điều kiện để nâng cao thể lực và giáo dục trẻ. Đối với các cháu tuổi Mầm non môi trường ấy chính là buồng lớp, sân chơi, nhà vệ sinh, đồ dùng, đồ chơi. Mỗi tuần một lần chúng tôi tổ chức tổng vệ sinh chung trong trường vào ngày quy định. Ví dụ: Vệ sinh phòng nhóm, khu vệ sinh luôn sạch sẽ. Đồ dùng, đồ chơi được cọ rửa, phơi nắng, được cất ngăn nắp và được che đậy. Rác thải được thu gom vào thùng rác có nắp đậy, hàng ngày rác được đổ vào xe rác công cộng, không để tình trạng rác ứ đọng… Mỗi tháng một lần làm vệ sinh tỉ mỉ nhà cửa và đồ dùng trong trường. Định ngày giặt chăn màn và rèm cửa, quét dọn toàn bộ sân vườn, khơi thông cống rãnh, xử lí rác thải hợp vệ sinh…Thường xuyên quét dọn vệ sinh khu vực trong và ngoài nhà trường. Kết hợp với giáo viên các lớp dạy trẻ cách trang trí nhóm lớp, vệ sinh đồ dùng đồ chơi. Nhà trường luôn làm tốt công tác xây dựng môi trường thân thiện, an toàn mọi lúc mọi nơi cho trẻ, thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng, vệ sinh đồ dùng đồ chơi sạch đẹp, thông thoáng phòng nhóm. Tạo môi trường phù hợp gần gũi với trẻ từ ở lớp học, nhà vệ sinh, bếp đến môi trường xung quanh bằng các loại đồ dùng đồ chơi tự tạo, trang trí sắp xếp theo chủ đề. Phát động giáo viên và phụ huynh đóng góp và trồng nhiều cây xanh, bố trí cây cảnh theo nhiều kiểu dáng để tạo bóng mát, vẻ đẹp xanh sạch cho môi trường Sư phạm. Với khẩu hiệu “Hãy chung tay bảo vệ môi trường vì một thế giới trẻ thơ”, tập thể sư phạm nhà trường luôn có hành vi, cử chỉ, đúng mực trong 9 việc làm và sinh hoạt, là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Có thái độ đúng và tinh thần trách nhiệm cao đối với việc bảo vệ và giữ gìn môi trường Xanh – Sạch - Đẹp. Các bé đang dọn vệ sinh nhóm lớp Biện pháp 3: Xây dựng kế hoạch phòng chống tai nạn thương tích Phòng chống tai nạn thương tích trong trường Mầm non là việc làm vô cùng quan trọng. Vì thế, tôi đã kết hợp với Ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch trường học an toàn phòng chống tai nạn thương tích cho học sinh. Kiện toàn củng cố công tác Y tế, mua sắm trang thiết bị để kịp thời xử trí những tai nạn không may xảy ra trong trường. Để phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, chúng tôi sử dụng các đồ chơi, đồ dùng dạy học tuyệt đối an toàn như không có vật sắc nhọn, vật cứng, vật nặng. Chủ yếu sử dụng đồ dùng, đồ chơi bằng nhựa mềm, cao su dẻo đạt tiêu chuẩn chất lượng về an toàn. Riêng với những đồ chơi dạng hột hạt liên quan đến việc học xâu chuỗi, hạt nảy mầm..., chúng tôi sử dụng những hạt to và giám sát kỹ quá trình các cháu chơi, hết giờ chơi cất lên cao để tránh trẻ nuốt hoặc nhét vào tai, mũi. Đồ chơi ngoài trời như xích đu, đu quay, cầu trượt..., chúng tôi đều yêu cầu bọc cao su vào các góc cạnh sắt để tránh cho các cháu những tình huống va đập. 10 Đồ chơi nào không còn đủ độ an toàn, nhà trường đều sửa chữa hoặc thay mới để tránh sự cố cho trẻ. Tôi còn kết hợp với Ban chỉ đạo trực tiếp kiểm tra giám sát việc thực hiện phòng chống tai nạn thương tích, trường học an toàn trong từng nhóm lớp (Kiểm tra đồ dùng đồ chơi, kiểm tra hệ thống điện, nguồn điện phải để cao, xa khỏi tầm tay với của trẻ... để đảm bảo an toàn) Tôi tham mưu với lãnh đạo nhà trường cơi nới hệ thống lan can hành lang cao hơn trước và lắp hệ thống mành chống nắng nhằm ngăn bớt bụi bẩn, chống ô nhiễm mỗi trường để đảm bảo sức khỏe cho trẻ và phòng tránh các tai nạn thương tích có thể xảy ra. Phối hợp với y tế Phường và y tế Thành phố vận động cán bộ giáo viên, nhân viên, phụ huynh và học sinh tham gia tích cực tháng hành động vì trẻ em, tháng an toàn giao thông… Truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về xây dựng trường học an toàn phòng chống tai nạn thương tích bằng nhiều hình thức như tờ rơi, băng zôn, áp phích, khẩu hiệu, tổ chức các hoạt động ngoại khoá. Cải tạo môi trường học tập và sinh hoạt an toàn. Có quy định và phát hiện, xử lý tai nạn thương tích tại trường, có phương án khắc phục như không cho xe đi lại trong sân trường, để xe đúng nơi quy định, đón trả trẻ đúng giờ… Ngoài ra, tôi còn kết hợp giáo viên nhóm lớp tích hợp phòng chống tai nạn thương tích vào các môn học và hoạt động. Biện pháp 4: Tăng cường vệ sinh cá nhân cho trẻ Trẻ em là thời kỳ cơ thể đang phát triển, hệ thần kinh chưa hoàn chỉnh sức đề kháng với bệnh tật nói chung cũng như khả năng thích ứng của da còn yếu nên trẻ dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn cũng như dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết và môi trường. Vì vậy, nên giáo dục trẻ em có thói quen vệ sinh dựa trên sự hình thành phản xạ có điều kiện, giúp trẻ có được những thói quen tốt có lợi cho sức khỏe. 11 a.Vệ sinh trẻ: ChØ ®¹o tèt c«ng t¸c vÖ sinh c¸ nh©n t¹o thãi quen cho trÎ, röa tay b»ng xµ phßng cho trÎ trước khi ¨n vµ sau khi ®i vÖ sinh. Việc tạo nề nếp, thói quen cho trẻ tại các lớp đã được thực hiện nghiêm túc hàng ngày với kế hoạch chỉ đạo hàng tháng, hàng tuần. Nhờ đó, các lớp đã vận dụng cụ thể thời gian, sắp xếp hợp lý tạo cơ hội cho trẻ tham gia các trò chơi được tổ chức trên tiết học hoặc hoạt động vui chơi được tích hợp hài hoà. b. Thường xuyên giữ cho trẻ sạch: Đối với trẻ phải được rửa tay, được chăm sóc chu đáo về khâu vệ sinh, được sử dụng nước sạch, lau khăn sạch đã được sấy hấp đảm bảo vệ sinh. Đối với trẻ bé cô giáo là người trực tiếp giúp trẻ vệ sinh cá nhân. c. Rèn kĩ năng vệ sinh cá nhân: Chỉ đạo các lớp triển khai dạy trẻ các kỹ năng vệ sinh cá nhân để trẻ có thói quen lau mặt theo quy trình, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, súc miệng nước muối… Từ đó hình thành ở trẻ thói quen vệ sinh, lao động tự phục vụ: Với trẻ lớn biết lau bàn ăn, chia bát, chia thìa, phơi khăn… Vệ sinh văn minh lịch sự, biết lấy tay che miệng khi ho, ngáp, hắt hơi. Không ăn quả xanh uống nước lã… Dạy trẻ biết thu dọn rác sạch sẽ, sau khi làm xong và bỏ rác vào sọt, không vứt rác bừa bãi. Biết dọn dẹp đồ dùng đồ chơi cẩn thận vào nơi quy định. Để đạt được hiệu quả cao trong giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ, tôi đã tạo ra xung quanh trẻ những điều kiện đầy đủ thuận lợi. Ví dụ: Khi ở lớp cũng như ở nhà mỗi trẻ cũng cần có những đồ dùng vệ sinh cá nhân như khăn mặt, khăn tay, bàn chải đánh răng, ca cốc, lược… những đồ dùng đó được để ở chỗ quy định mà trẻ có thể tự lấy và cất đi dễ dàng. Tôi luôn lồng ghép giáo dục vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân vào các tiết học và các hoạt động hàng ngày của trẻ, dần dần giúp trẻ hiểu được cái đẹp, cái sạch của con người, học được những tác phong nếp sống văn minh, vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống... Điều này có ý nghĩa quan trọng 12 cho việc giáo dục thói quen vệ sinh văn minh cho trẻ: Sạch sẽ, trật tự, ngăn nắp. Bé rửa tay bằng xà phòng Bé rửa mặt Biện pháp 5: Tổ chức mạng lưới giám sát của trường để phát hiện sớm các bệnh truyền nhiễm và các bệnh thường gặp khác: a. Các bệnh truyền nhiễm như: + Bệnh truyền qua đường hô hấp (Ho gà, bệnh cúm, bệnh sởi …) + Bệnh truyền qua đường tiêu hóa (Tiêu chảy, tả lỵ, thương hàn …) + Bệnh truyền qua đường máu (Sốt xuất huyết , HIV/ AIDS…) + Bệnh truyền qua đường da và niêm mạc (Bệnh Chân – Tay Miệng, nấm móng tay, ghẻ…) b. Các bệnh thường gặp khác: + Bệnh đau mắt hột, thấp tim, suy dinh dưỡng … + Các bệnh do thiếu các vi chất (Iode, sắt, vitamin A, … ) . c. Biện pháp phòng chống: Tôi đã cùng Ban sức khỏe nhà trường và giáo viên thường xuyên quan sát, theo dõi các dấu hiệu mầm bệnh của học sinh để kịp thời xử trí cách ly và chuyển tuyến trên điều trị, phòng chống lây nhiễm rộng từ trường tới gia đình và xã hội . 13 Đối với các bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp có hướng báo động thành đại dịch như bệnh cúm gia cầm cúm AH5N1, cúm AH1N1, bệnh Chân – Tay - Miệng… tôi kết hợp với cán bộ y tế tuyến trên tổ chức thông tin tuyên truyền rộng rãi trong trường học, ngoài cộng đồng dân cư về các dấu hiệu của người mắc bệnh, truyền thông các biện pháp phòng chống dịch... Khi phát hiện ca bệnh phải báo cáo ngay với cơ sở y tế gần nhất để cách ly, theo dõi điều trị, xử lý môi trường: vệ sinh tiêu độc, khử trùng,… Khi phát hiện học sinh mắc bệnh dịch, trước hết tôi thông tin hướng dẫn phụ huynh học sinh cách chăm sóc trẻ tại nhà như làm hạ sốt (lau mát bằng khăn ấm, uống thuốc hạ nhiệt …), theo dõi tình trạng của trẻ. Từ ngày thứ ba trở đi nếu thấy bất kì dấu hiệu nghi ngờ nào hoặc tình trạng sức khỏe bị nặng hơn phải đưa tới trạm y tế hoặc bệnh viện tiếp tục theo dõi và điều trị để ngăn chặn lây truyền bệnh từ người này sang nguời khác . Trong quá trình dạy ở lớp, giáo viên phát hiện học sinh có dấu hiệu mắc bệnh truyền nhiễm cần thông báo kịp thời với Ban sức khỏe của nhà trường. Tôi cùng với Ban sức khỏe nhà trường trực tiếp theo dõi triệu chứng của bệnh, liên hệ với cán bộ y tế Phường chẩn đoán và điều trị đồng thời thông báo với phụ huynh học sinh chuyển bệnh nhân lên tuyến trên điều trị với những trường hợp bệnh nặng . Biện pháp 6: Xây dựng kế hoạch phòng chống dịch bệnh Để làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh trong nhà trường, trước tiên tôi phải hiểu được quá trình dịch bệnh. Nắm vững nguyên tắc phòng chống dịch, vệ sinh trường học và thực hiện tốt các biện pháp phòng chống dịch bệnh như sau: a. Thường xuyên kiểm tra vệ sinh Y tế học đường: - Kết hợp với Ban Giám Hiệu thường xuyên kiểm tra vệ sinh Y tế học đường, công tác an toàn phòng dịch bệnh, theo dõi sức khoẻ của trẻ hàng 14 ngày, báo cáo kết quả kịp thời để xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên trong công tác phòng chống dịch. Nhằm mục đích đề phòng bệnh lây lan rộng, khi có dịch tôi đã kết hợp với Y tế Phường diệt khuẩn dự phòng để ngăn chặn bệnh truyền nhiễm nảy sinh. Đặc biệt chú ý khử khuẩn nước, xử lí phân, rác thực hiện đúng quy tắc về vệ sinh cá nhân. Hàng năm tôi kết hợp với Y tế Phường và Viện vệ sinh dịch tễ thực hiện đúng lịch phun thuốc muỗi và chống côn trùng 6 tháng 1 lần bằng thuốc của Viện vệ sinh dịch tễ trước mùa truyền bệnh của chúng. (Để đảm bảo không độc hại với trẻ vào buổi chiều ngày thứ bảy sau khi trẻ về hết mới phun thuốc) Thường xuyên kiểm tra định kì các khu vực vệ sinh và cống rãnh thoát nước tháng một lần. Đồng thời cho khơi nạo vét cống, hố ga, đường thoát nước... b. Công tác phối kết hợp giữa các bộ phận trong nhà trường và cộng đồng - Tôi kết hợp với Ban Giám hiệu tổ chức, tham gia các lớp tập huấn công tác phòng chống dịch bệnh cho cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường. - Phối hợp với các cô giáo lồng ghép giáo dục cho học sinh những hiểu biết tối thiểu về phòng chống dịch bệnh: Dạy trẻ cách giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh thân thể, cách nhận biết những con côn trùng có hại gây nguy hiểm tới cuộc sống… - Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để cùng thực hiện tốt những nội dung phòng bệnh ở gia đình góp phần nâng cao hiệu quả những biện pháp đã thực hiện ở trường. - Tuyên truyền các biện pháp phòng chống dịch cho phụ huynh học sinh và các thành viên trong nhà trường, huy động các lực lượng này tuyên truyền trong cộng đồng dân cư bằng những hình thức phong phú như phát tờ rơi, tranh cổ động, bảng tin, truyền thanh nội bộ…, huy động đoàn thanh niên tình nguyện tham gia phòng chống dịch bệnh. - Gặp gỡ tư vấn cho cha mẹ trẻ về tình hình sức khoẻ của trẻ. 15 - Phối hợp chặt chẽ với Y tế Phường và Y tế Thành phố để có kế hoạch đối phó, không để dịch bệnh xảy ra. Định kì tiêm phòng Vac-xin cho trẻ theo quy định. c. Nắm bắt thông tin kịp thời chính xác: Tôi luôn nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác để tham mưu với nhà trường về công tác phòng chống dịch khi ngoài cộng đồng có dấu hiệu dịch bệnh xuất hiện. Nhận và thực hiện tốt các công văn chỉ đạo của cấp trên đưa xuống đặc biệt là các đợt dịch lớn như: Tả, Cúm AH1N1, Cúm AH5N1, sốt xuất huyết, dịch lợn tai xanh, dịch Chân – Tay - Miệng... Với khẩu hiệu tuyên truyền: “Phòng chống dịch bệnh là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể và toàn trường” nên nhiều năm qua trường tôi không có dịch bệnh xảy ra. Bé học cách đeo khẩu trang Cô và trẻ cùng phòng chống dịch cúm Biện pháp 7: Kết hợp với bộ phận dinh dưỡng xây dựng khẩu phần ăn và thực đơn cho trẻ * Khi xây dựng khẩu phần ăn và thực đơn cho trẻ cần tuân thủ theo các yêu cầu sau: - Đảm bảo cho khẩu phần đủ về năng lượng và các chất dinh dưỡng. - Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa các chất sinh năng lượng. Cân đối tỷ lệ đạm động vật và thực vật, mỡ động vật và dầu thực vật, cân đối các Vitamin và chất khoáng. - Đảm bảo khẩu phần của trẻ ở trường chiếm 60-70% khẩu phần cả ngày, trong đó tỷ lệ: 16 Bữa trưa = 30-35 % Bữa chiều = 25-30% Bữa phụ = 1/2 bữa chính - Thực đơn được xây dựng theo từng ngày, tuần, tháng và theo mùa để dễ điều hòa thực phẩm. - Xây dựng thực đơn nhiều ngày cần thay đổi món ăn cho trẻ đỡ chán và đảm bảo đủ đa dạng các chất dinh dưỡng. Khi thay đổi cần đảm bảo thay thế thực phẩm trong cùng nhóm (Ví dụ: Thay thịt bằng cá, trứng hoặc tôm… hoặc phối hợp các thực phẩm thay thế để đạt được giá trị dinh dưỡng tương đương). - Trong cùng một ngày nên dùng thực phẩm giống nhau cho các chế độ ăn để tiện cho tiếp phẩm đi chợ. Trong điều kiện tiếp phẩm đi chợ không có các loại thực phẩm theo như thực đơn thì có thể thay thế các loại thực phẩm khác nhưng cần đảm bảo: + Chỉ được thay thế thực phẩm theo cùng nhóm. (Ví dụ: Thay gạo bằng bánh phở hoặc bún, bánh mì...Thay thịt lợn bằng thịt bò, thịt gà, trứng, cá,… Các loại rau thay bằng đậu đỗ, giá, bí, khoai tây…) + Khi thay đổi cần chú ý lượng tương đương để cho giá trị dinh dưỡng và tính cân đối trong khẩu phần không bị thay đổi. * Để góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và nâng cao giá trị dinh dưỡng cho thực phẩm, trường tôi thường xuyên thực hiện tốt “Mười nguyên tắc vàng chế biến thực phẩm an toàn” của tổ chức Y tế thế giới: - Lựa chọn thực phẩm tươi, sạch, an toàn. - Thực hiện “Ăn chín uống sôi”, rửa sạch, ngâm kỹ, gọt vỏ rau quả tươi trước khi sử dụng. - Ăn ngay khi thức ăn vừa được nấu chín. - Che đậy, bảo quản cẩn thận thức ăn đã được nấu chín - Rửa tay trước khi chế biến thực phẩm, đặc biệt sau khi đi vệ sinh hoặc tiếp xúc với các nguồn dễ gây ô nhiễm khác. - Đun kỹ lại thức ăn trước khi sử dụng. 17 - Không để lẫn thực phẩm sống với thực phẩm chín, không dùng chung dụng cụ chế biến giữa thực phẩm sống và chín. - Bảo đảm dụng cụ, nơi chế biến thực phẩm phải khô ráo, gọn gàng sạch sẽ, hợp vệ sinh. - Tuyệt đối không sử dụng thực phẩm ôi thiu, hỏng mốc quá hạn. - Sử dụng nguồn nước sạch, an toàn trong chế biến thực phẩm. * Kết hợp với quản lý ăn, tổ dinh dưỡng đi kiểm tra bữa ăn hàng ngày của trẻ và lắng nghe ý kiến phản ánh của giáo viên nhóm lớp để điều chỉnh thực đơn ăn cho phù hợp, đảm bảo giúp trẻ ăn ngon miệng hết xuất. Biện pháp 8: Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng, dụng cụ nhà bếp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường. a. Vệ sinh khu vực bếp: Xây dựng bếp theo quy định một chiều: Cửa đưa thực phẩm tươi sống - sơ chế thực phẩm - tinh chế thực phẩm - chia thức ăn chín - cửa vận chuyển thức ăn chín lên các nhóm lớp. Thực hiện nguyên tắc bếp một chiều, hợp vệ sinh nhằm tránh thực phẩm sống và chín dùng chung một lối đi. Các dụng cụ chế biến sống và chín phải riêng biệt. Sắp xếp vị trí các khu vực sao cho thuận tiện, gọn gàng và có biển đề rõ ràng nơi tiếp phẩm và nơi sơ chế khu nấu chín và nơi chia cơm từng lớp, nhà bếp phải có bảng phân công trong ngày: Người nấu chính, người nấu phụ, người tiếp phẩm, người sơ chế. Bếp ăn phải có thực đơn theo tuần, bảng định lượng suất ăn hàng ngày và công khai tài chính. Phải thực hiện nghiêm túc việc tính khẩu phần ăn cho trẻ và vệ sinh nhà bếp theo lịch hàng ngày, tuần, tháng, khi nấu xong phải dọn dẹp, xếp đồ dùng ngăn nắp đúng nơi quy định. b. Vệ sinh đồ dùng, dụng cụ chế biến Đồ dùng dụng cụ phục vụ trong bếp được đầu tư đầy đủ đảm bảo an toàn thuận tiện sử dụng, hàng năm có bổ sung theo kế hoạch của tổ song việc giữ gìn bảo quản và vệ sinh được quan tâm hàng đầu. Các dụng cụ chế 18 biến thực phẩm sống - chín đều có biển hiệu đề rõ ràng tránh nhầm lẫn. Tủ lạnh, tủ đá được vệ sinh sạch 2–3 lần/tuần không có mùi. Chén bát và nơi để thức ăn phải thoáng, bát hàng ngày phải được rửa sạch và tráng bằng nước đun sôi, phải có rổ úp bát, không dùng bát nhựa, các dụng cụ xoong nồi phải sạch sẽ, rá rổ dao thớt phải khô ráo được treo và kê cao thoáng. Không đựng mắm muối vào đồ có chứa chì, đồng, sắt gây ô nhiễm thực phẩm, các dụng cụ đều bằng I - nox được vệ sinh theo lịch phân công hàng tuần đảm bảo vệ sinh. c. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm Việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm lớn của toàn xã hội hiện nay. Ngoài những biện pháp quy định trong các chương trình, chúng tôi đã ký hợp đồng cam kết đảm bảo mua thực phẩm sạch đồng thời liên tục kiểm tra các mẫu thực phẩm theo định kỳ, thường xuyên giám sát kiểm tra gửi mẫu thực phẩm đi kiểm tra tại Viện vệ sinh dịch tễ. - Phải thực hiện kí hợp đồng thực phẩm sạch với các nhà cung cấp tin cậy, có địa chỉ rõ ràng. - Chế biến đúng quy trình, thực hiện thực đơn của trường. Đảm bảo vệ sinh và dinh dưỡng cho trẻ. - Bảo đảm thức ăn nước uống cho trẻ an toàn. - Phải lưu mẫu thức ăn, đó là việc làm hết sức cần thiết đối với bếp ăn tập thể đông người. Chính vì vậy tôi thường xuyên đôn đốc chị em trong tổ Dinh dưỡng để thức ăn lưu nghiệm đầy đủ, đúng quy định một xuất ăn của các món ăn trong ngày, kể cả ăn phụ, có nhãn mác ghi ngày giờ rõ ràng (Thức ăn lưu nghiệm phải để đúng 24 giờ sau mới được huỷ). Việc làm này phòng khi có xảy ra ngộ độc, bác sĩ tìm nguyên nhân ngộ độc do thức ăn hay lí do khác được dễ dàng. d. Vệ sinh môi trường: Rác và thức ăn hàng ngày phải đổ vào đúng nơi quy định, rác ngày nào phải xử lý ngày đó không để hôm sau mới xử lý 19 gây mất vệ sinh, rác phải để xa nơi chế biến, cống rãnh phải được khơi thoáng không ứ đọng. Hình ảnh bếp ăn tại trường Đồ dùng đựng thức ăn Biện pháp 9: Quản lý theo dõi biểu đồ tăng trưởng, tổ chức khám sức khỏe định kì và tiêm phòng cho trẻ 1. Theo dõi Biểu đồ tăng trưởng Các cháu đến trường Mầm non được cân - đo theo dõi biểu đồ tăng trưởng 3 tháng/lần. Theo dõi biểu đồ tăng trưởng giúp cha mẹ trẻ và cô giáo: - Theo dõi đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ một cách dễ dàng. - Phát hiện kịp thời tình trạng trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và suy dinh dưỡng thể thấp còi. - Theo dõi tình trạng sức khoẻ chung của trẻ giúp cho các bậc phụ huynh và những người chăm sóc trẻ điều chỉnh chế độ ăn và các biện pháp chăm sóc trẻ cho phù hợp. - Kết hợp với giáo viên các nhóm lớp đo chiều cao, cân nặng lấy kết quả và tập hợp vào sổ theo dõi sức khoẻ, chấm biểu đồ tăng trưởng. Có như vậy, việc cân đo mới có ý nghĩa trong vấn đề theo dõi sức khoẻ của trẻ. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan