Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp khắc phục lỗi thường gặp trong phân môn lt và câu ở lớp 4...

Tài liệu Một số biện pháp khắc phục lỗi thường gặp trong phân môn lt và câu ở lớp 4

.DOC
23
162
142

Mô tả:

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4;5 KHẮC PHỤC CÁC LỖI KHI LÀM BÀI TẬP PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU. --------------------*************----------------------- A/ ĐẶT VẤN ĐỀ: Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục Tiểu học có nhiệm vụ “ Chuẩn bị những kiến thức, kĩ năng, thái độ để học sinh tiếp tục học lên”. Với vị trí, vai trò và nhiệm vụ quan trọng của mình, trong những năm gần đây ngành Giáo dục Tiểu học đã từng bước đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. NguyÔn ThÞ H¬ng 1 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN Qua thực tế dạy học ta thấy, việc dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong đó phân môn “ Luyện từ và câu” có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu dạy học sinh nghe – nói - đọc – viết, thực hiện mục tiêu số một của việc học Tiếng Việt trong trường Tiểu học. Trong phân môn Luyện từ và câu, yếu tố từ ngữ, ngữ pháp chi phối việc sử dụng các đơn vị ngôn ngữ để tạo thành lời nói, làm cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng là công cụ giao tiếp trong đời sống xã hội.Từ ngữ, ngữ pháp cũng là yếu tố quan trọng để phát triển trí tuệ, phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người học sinh. Như chúng ta đã biết, ngay từ đầu đến trường học sinh đã được làm quen với từ ngữ, ngữ pháp. Đặc biệt ở Tiểu học từ ngữ, ngữ pháp được dạy trong tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt, ở đâu có dạy tiếp nhận và sản sinh lời nói thì ở đó có dạy từ ngữ, ngữ pháp. NguyÔn ThÞ H¬ng 2 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN Có thể nói phân môn Luyện từ và câu là phân môn thực hành: Thông qua thực hành để hình thành khái niệm, quy tắc và cũng thông qua thực hành mà vận dụng, củng cố và hoàn thiện các khái niệm, các quy tắc. Trong tất cả các tiết học, các bài học đều có phần luyện tập thực hành, luyện tập ở tiết học khái niệm mới, luyện tập ở tiết ôn tập và có những tiết chỉ có luyện tập. Bởi vậy, để dạy học phân môn Luyện từ và câu đạt hiệu quả cao và người giáo viên cần nắm vững những lỗi từ ngữ, ngữ pháp mà các em gặp phải để có biện pháp giúp đỡ các em. B/ NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG: Qua thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4- 5 tôi thấy học sinh vướng mắc một số lỗi trong quá trình nắm các khái niệm từ ngữ, ngữ pháp. Các sai sót của học sinh đo trên các lỗi nhận diện, phân loại, phân tích các đơn vị từ ngữ, ngữ pháp. NguyÔn ThÞ H¬ng 3 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN 1. Khái niệm từ và kĩ năng nhận diện từ, phân cách các đơn vị từ trong câu: - Trong Tiếng Việt, từ không mang một hình thức nào đặc biệt, khái niệm về từ chưa thật hiển minh, nghĩa là nếu dựa vào định nghĩa khái niệm từ “ Từ bao giờ cũng có ý nghĩa và dùng để đặt câu; có từ 2 tiếng ,có từ 3 tiếng… cũng có từ chỉ do một tiếng có nghĩa tạo thành ” thì không thể giải thích triệt để mọi trường hợp . - Có nhiều trường hợp, cương vị từ không rõ ràng đối với học sinh tiểu học. Ví dụ bài tập yêu cầu xác định từ đơn, từ ghép trong câu. Có những tổ hợp như: hoa ngô, bắp ngô, lá ngô…, chuồn chuồn nước, tung cánh, lướt nhanh, mặt hồ, trải rộng, lặng sóng…là những tổ hợp mà việc ranh giới không dễ dàng. 2. Khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy và kĩ năng nhận diện, phân loại từ theo cấu tạo. Khi nhận diện từ đơn, từ ghép, từ láy học sinh thường có những nhầm lẫn sau: NguyÔn ThÞ H¬ng 4 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN - Trường hợp ghép ngẫu kết như: bồ kết, tắc kè, chẻo bẻo, ểnh ương, apatít… có em cho là từ ghép, có em cho là từ đơn đa âm; kiểu láy như chuồn chuồn, chôm chôm,…có những em cho không phải là từ láy. - Trường hợp các từ có các tiếng vừa có quan hệ về âm, vừa có quan hệ về nghĩa như: mặt mũi, đi đứng, buôn bán, tươi tốt, thúng mủng…nhiều em cho là từ láy. Các từ có một yếu tố mất nghĩa như: đất đai, chim chóc, khách khứa…lại được các em xếp vào từ ghép. - Các từ Hán- Việt như: chuyên chính, cần mẫn,…được các em cho là từ láy, trong khi các từ láy vắng khuyết phụ âm đầu như: ồn ào, ầm ĩ,… hoặc các từ láy có phụ âm đầu được viết bằng các con chữ khác nhau như: cong queo, kính coong, lại không được xem là từ láy. 3. Kĩ năng nhận diện, phân tích các thành phần câu. NguyÔn ThÞ H¬ng 5 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN - Học sinh thường hay mắc lỗi khi vạch ranh giới giữa chủ ngữ, vị ngữ trong câu; đặc biệt là các dạng câu như: + Tiếng suối chảy róc rách. + Những con voi về đích trước tiên huơ vòi chào khán giả. - Một số em thường nhầm định ngữ với vị ngữ. Ví dụ trong câu: “ Những con chim bông biển trong suốt như thủy tinh lăn tròn trên những con sóng”. Các em cho rằng “ trong suốt như thủy tinh” là vị ngữ. Hoặc trong câu: “ Các anh chiến sĩ ngồi trong khoang lái đang sẵn sàng đợi lệnh”. Thì các em cho rằng “ ngồi trong khoang lái” là vị ngữ. Hoặc trong các cụm danh từ: + Những cánh đồng thơm mát… + Những ngả đường bát ngát… + Những dòng sông đỏ nặng phù sa… + Những ngôi nhà mới được xây dựng… NguyÔn ThÞ H¬ng 6 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN Một số em lại cho rằng các từ ngữ : “ Thơm mát”, “ bát ngát”, “ đỏ nặng phù sa”, “ mới được xây dựng” là vị ngữ. II. CÁCH KHẮC PHỤC. Để dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học được tốt, chúng ta cần nghiên cứu các lỗi từ ngữ, ngữ pháp của học sinh; xác định được những khó khăn mà các em mắc phải khi nắm các khái niệm và sử dụng các đơn vị từ ngữ, ngữ pháp được học trong chương trình Tiểu học. Những lỗi khi nhận diện , khi sử dụng các đơn vị này và nguyên nhân mắc lỗi. Từ đó không chỉ tìm cách sửa lỗi mà quan trọng hơn là đề xuất những việc cần điều chỉnh về nội dung, phương pháp dạy học, đề xuất những biện pháp phòng ngừa những lỗi này. Sau đây là một số cách khắc phục các lỗi đã nêu ở trên mà tôi đã đúc rút được. 1.Kĩ năng nhận diện từ, phân cách các đơn vị trong câu. NguyÔn ThÞ H¬ng 7 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN - Muốn xác định, nhận biết được từ, nói cách khác muốn vạch ranh giới giữa các từ trong văn bản ta phải dựa vào định nghĩa về từ trong sách giáo khoa: “ Từ có nghĩa và dùng để đặt câu” . hoặc nói cụ thể hơn: “ từ là tiếng có nghĩa, dùng để đặt câu”. Từ đó ta đối chiếu với các tiếng trong một chuổi lời nói ( văn bản ), xem tiếng ( hoặc tập hợp các tiếng ) nào mang đặc trưng cơ bản của từ thì khẳng định đó là từ, có thể dùng dấu sổ dọc ( / ) để vạch ranh giới giữa các từ trong câu. Khi vạch ranh giới giữa các từ trong văn bản, ta thường gặp những tổ hợp tiềm tàng hai cách hiểu: là một từ ( từ ghép ) hoặc kết hợp gồm hai từ đơn; như ví dụ đã nêu ở hai phần trước. - Muốn biết được một tổ hợp nào đó là một từ ghép hay kết hợp hai từ đơn, ta lần lượt xem xét hai tổ hợp ấy về hai phương diện: kết cấu và nghĩa + Cụ thể về mặt kết cấu, nếu quan hệ giữa các yếu tố mà lõng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm NguyÔn ThÞ H¬ng 8 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN xen các yếu tố khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của tổ hợp về cơ bản không thay đổi…thì tổ hợp ấy là hai từ đơn . Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa các yếu tố tổ hợp chặt chẽ, khó có thể tách rời, tạo thành một khối vững chắc, mang tính cố định, ổn định…thì tổ hợp ấy là một từ ghép. Ví dụ: Trong các tổ hợp đã đề cập ở trên, các tổ hợp: chuồn chuồn nước, mặt hồ, lặng sóng, …được coi là có quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố tạo thành; còn các tổ hợp : tung cánh, lướt nhanh, trải rộng,…mối quan hệ giữa các yếu tố tạo thành ít nhiều lỏng lẻo, dễ tách rời . Như vậy, các tổ hợp thứ nhất mang nhiều đặc trưng của từ ghép( mỗi tổ hợp là một từ ghép) , còn các tổ hợp thứ hai mang nhiều đặc trưng của cụm từ tự do (mỗi tổ hợp gồm hai từ đơn ). + Về mặt nghĩa, nếu tổ hợp đó gọi tên, định danh một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, biểu đạt một khái niệm ( sự vật, hiện tượng ) thì tổ hợp ấy là một từ ghép. NguyÔn ThÞ H¬ng 9 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN Ngược lại nếu tổ hợp ấy gọi tên , định danh hai hay nhiều sự vật, hiện tượng, biểu đạt khái niệm ( về sự vật, hiện tượng ) thì tổ hợp ấy là sự kết hợp hai hay nhiều từ đơn. Ví dụ: Về mặt nghĩa, các tổ hợp thuộc nhóm thứ nhất ( chuồn chuồn nước…) mang nhiều đặc trưng của từ; còn các tổ hợp thuộc nhóm thứ hai mang nhiều đặc trưng của kết hợp hai từ đơn. Tóm lại đối với tổ hợp có tính “ lưỡng khả” ( hai khả năng, hai cách hiểu ) như đã nói ở trên nếu ta xử lý một cách thỏa đáng, có cơ sở khoa học thì việc xác định, nhận biết từ, cũng chính là việc vạch ranh giới từ trong văn bản sẽ diễn ra một cách thuận lợi, dễ dàng và kết quả đạt được sẽ chính xác. 2.Khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy và kĩ năng nhận diện , phân loại từ theo cấu tạo. Đối với những lỗi này khi dạy giáo viên cần làm rõ cho hoc sinh nắm được một cách chính xác về khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy. Tuy nhiên NguyÔn ThÞ H¬ng 10 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN giáo viên cần lưu ý hai điều : thứ nhất nội dung của các khái niệm trên ( từ đơn, từ ghép, từ láy ) gắn với những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu, cho nên cách giới thiệu nội dung khái niệm , cách định nghĩa khái niệm giữa các tác giả ít nhiều khác nhau ; thứ hai các khái niệm (đồng thời là các đơn vị kiến thức ) trên ( từ đơn, từ ghép, từ láy) được bố trí dạy ở cả Tiểu học và THCS, có tính chất đồng tâm. Vì vậy ở Tiểu học ta chỉ nên nêu nội dung của từng khái niệm trên ở mức độ nhất định, có tính chất sơ giản, ban đầu, phù hợp với đối tượng học sinh Tiểu học. * Từ đơn. - Theo SGK Tiếng Việt Tiểu học : “ từ do một tiếng có nghĩa tạo thành” . Như vậy theo quan điểm này từ chỉ gồm một tiếng, từ nhiều tiếng không thuộc phạm vi từ đơn. Trong định nghĩa này cần chú ý khái niệm “ nghĩa” . Nghĩa của từ đơn gồm nghĩa từ vựng, nghĩa ngữ pháp, nghiã tình thái. NguyÔn ThÞ H¬ng 11 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN - Theo giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học ở trường Sư phạm thì giới thiệu: “ từ đơn là những từ do một hình vị tạo nên. Đa số từ đơn Tiếng Việt là từ đơn âm ( ví dụ: sông, núi, đi,…). Từ đơn đa âm có thể là từ thuần Việt ( ví dụ: bồ kết, chèo bẻo, tắc kè,…), cũng có thể là từ vay mượn ( ví dụ: mì chính, cà phê, xà phòng,…)”. * Từ ghép. - Theo SGK Tiếng Việt Tiểu học: “ từ ghép là từ do hai, ba hoặc bốn tiếng ghép lại mà có nghĩa”. Do không nói rõ các tiếng trong từ ghép là tiếng có nghĩa và mối quan hệ giữa các tiếng trong từ ghép là quan hệ về nghĩa, cho nên định nghĩa trên của SGK có phần chưa thỏa đáng; bởi vì nó ứng với tất cả các từ đa âm trong Tiếng Việt. Như vậy đối chiếu với định nghĩa về từ đơn Tiếng Việt trong SGK Tiểu học, có thể khẳng định tổ hợp các từ : bồ kết, tắc kè, chèo bẻo, ểnh ương, apatít,…không phải là từ đơn. Nhưng các từ này NguyÔn ThÞ H¬ng 12 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN cũng không phải là từ ghép bình thường, vì các tiếng trong từ không có nghĩa và quan hệ giữa các tiếng trong mỗi từ không phải là quan hệ về nghĩa. Những từ này cũng không phải là từ láy, bởi vì quan hệ giữa các tiếng trong mỗi từ không phải là quan hệ về âm. Vậy khi dạy giáo viên có thể nói với học sinh như sau: các từ này không phải là từ đơn, không phải là từ láy mà là từ ghép – một loại ghép đặc biệt. * Từ láy. - Từ láy là từ do hai hoặc hơn hai tiếng có quan hệ với nhau về âm thanh tạo thành.Trong từ láy thường có một tiếng có nghĩa và một tiếng láy lại. - Theo SGK Tiểu học: “ Từ láy là từ do hai hay nhiều tiếng láy lại tạo thành”. Định nghĩa này chưa nói rõ cơ chế tạo từ trong từ láy là cơ chế “ láy lại toàn bộ hoặc bộ phận tiếng gốc”. Bên cạnh đó, nếu chỉ nhấn mạnh dấu hiệu NguyÔn ThÞ H¬ng 13 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN “ hai hay nhiều tiếng láy lại tạo thành” thì các từ ghép như: mặt mũi, đi đứng, buôn bán, tươi tốt, nhỏ nhẹ ,…cũng có đặc trưng ấy. Chính vì vậy học sinh mới mắc vào các lỗi nêu ở trên, cụ thể: 1- Các từ : mặt mũi, đi đứng, buôn bán, … có em cho là từ láy. 2- Các từ có một yếu tố mất nghĩa như: đất đai, chim chóc, cây cối, bạn bè,…lại xếp vào từ ghép. 3- Các từ : ồn ào, ầm ĩ, óc ách, inh ỏi,…không được xem là từ láy. Vậy giáo viên cần giúp đỡ học sinh thấy rõ, các tiếng trong từ thuộc nhóm (1) đều có nghĩa từ vựng. Quan hệ giữa các tiếng trong từ là quan hệ về nghĩa, cho nên các từ đó là từ ghép. Các từ ghép này có hình thức ngẫu nhiên giống từ láy. Những đặc điểm về hình thức ngữ âm của các từ này không liên quan gì đến bản chất cấu tạo từ, giá trị cấu tạo từ của chúng. NguyÔn ThÞ H¬ng 14 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN Còn những từ ở nhóm thứ (2) lâu nay tồn tại những cách hiểu khác nhau về bản chất cấu tạo từ của các từ này. Có người cho rằng, nếu nhìn nhận các từ này dưới góc độ “ lịch đại” và nhấn mạnh những đặc trưng ngữ nghĩa của chúng thì có thể coi đây là những từ ghép. Nhưng dưới góc độ “ đồng đại” và nhấn mạnh mối quan hệ về ngữ âm giữa hai tiếng trong từ, ta có thể coi những từ này là từ láy có nghĩa khái quát. Mặc dù có những sự không đồng nhất đó nhưng khi dạy giáo viên có thể giải thích cho học sinh thấy đây là những từ láy có nghĩa khái quát. Đối với những trường hợp ở nhóm (3), thoạt nhìn và đối chiếu với định nghĩa về từ láy trong SGK Tiếng Việt Tiểu học thì nghĩ rằng không phải từ láy. Nhưng quan sát kĩ ta thấy các từ trên đều giống nhau về hình thức ngữ âm; ở các tiếng trong từng từ đều vắng khuyết phụ âm đầu. Bên cạnh đó, đặc trưng ngữ nghĩa của những từ này cũng gần NguyÔn ThÞ H¬ng 15 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN giống với đặc trưng ngữ nghĩa của từ láy. Vậy khi dạy giáo viên có thể giải thích cho học sinh: đây là các từ láy, nhưng là từ láy đặc biệt (đặc biệt ở chỗ: nó không giống các từ láy bình thường về hình thức ngữ âm). 3. Kĩ năng nhận diện, phân tích các thành phần câu. * Để giúp học sinh xác định được chủ ngữ, vị ngữ trong câu, trước hết cần giúp các em hiểu: chủ ngữ, vị ngữ gắn bó với nhau bằng quan hệ chủ - vị. Trong mối quan hệ này, chủ ngữ nêu đối tượng thông báo, còn vị ngữ chứa nội dung thông báo về đối tượng ấy. Chủ ngữ trả lời câu hỏi “ Ai ?”, “ Cái gì ?”,…Vị ngữ trả lời câu hỏi “ Làm gì?”, “ Như thế nào?”. Ngoài quan hệ ngữ pháp, cần hiểu về quan hệ ý nghĩa giữa Chủ ngữ và Vị ngữ như: - Chủ ngữ gọi tên sự vật ( người, vật, việc) còn vị ngữ miêu tả hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất của sự vật đó. NguyÔn ThÞ H¬ng 16 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN - Chủ ngữ nêu đối tượng, vị ngữ biểu hiện điều nhận định về đối tượng đó. Vấn đề đặt ra ở đây là bằng cách nào để vạch ra được ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ. Nói cách khác, bằng cách nào xác định được điểm kết thúc của chủ ngữ và điểm bắt đầu của vị ngữ, nhất là đối với những trường hợp mà các ranh giới đó không rõ ràng. Đi vào từng trường hợp cụ thể, ta sẽ hướng dẫn học sinh dựa vào những nhận thức khái quát trên để xác định. Ví dụ: + Trường hợp thứ nhất: “ Tiếng suối chảy róc rách” Học sinh thường có hai cách hiểu sau đây khi vạch ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ của câu: 1-Tiếng suối / chảy róc rách. 2-Tiếng suối chảy / róc rách. Dựa vào quan hệ lôgic giữa chủ ngữ và vị ngữ, ta nhận thấy trong cách hiểu (1) “ Tiếng suối” là âm thanh thì không thể “chảy” được . Vì NguyÔn ThÞ H¬ng 17 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN vậy cách hiểu này là không hợp lí. Do đó cách hiểu (2) cho “ Tiếng suối chảy” là chủ ngữ; “róc rách” là vị ngữ, là cách hiểu hợp lý, phù hợp về quan điểm lôgic, quan hệ về ý nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu. + Trường hợp thứ hai: “ Những con voi về đích trước tiên huơ vòi chào khán giả” cũng có hai cách hiểu khác nhau về ranh giới của chủ ngữ và vị ngữ trong câu. 1- Những con voi / về đích trước tiên huơ vòi chào khán giả. 2- Những con voi về đích trước tiên / huơ vòi chào khán giả. Cách hiểu (1) không hợp lý, bởi vì dựa vào đặc trưng về cấu tạo của cụm danh từ, ta nhận thấy tổ hợp “ những con voi” bao giờ cũng có định ngữ đứng sau, nhằm hạn định, cụ thể hóa ý nghĩa cho danh từ đứng trung tâm ( “con voi” là danh từ trung tâm ), trả lời cho câu hỏi ( những con voi nào? ), có như thế mới tạo ra được những cụm danh từ hoàn NguyÔn ThÞ H¬ng 18 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN chỉnh, và cả cụm danh từ này mới đảm nhận được chức năng làm bộ phận chủ ngữ của câu. Như vậy, ở đây cụm danh từ “Những con voi về đích trước tiên” làm bộ phận chủ ngữ theo cách hiểu (2) là hợp lí. * Đối với trường hợp học sinh nhầm định ngữ sau trong các cụm danh từ là vị ngữ của câu như đã nêu trên; giáo viên cần nói rõ để học sinh hiểu được là tuy thoạt nhìn giữa định ngữ sau và vị ngữ có những nét giống nhau như vậy nhưng chúng khác nhau về cấp bậc, chức năng, tác dụng. Định ngữ là thành tố phụ của danh từ trung tâm, thuộc bậc cụm từ, còn vị ngữ là một trong hai thành phần chính của câu. Định ngữ có nhiệm vụ hạn định, cụ thể hóa ý nghĩa cho danh từ trung tâm, còn vị ngữ nêu nội dung thông báo về đối tượng do chủ ngữ biểu thị. Vì vậy, trong các ví dụ trên,các từ ngữ: “ trong suốt như thủy tinh”, “ngồi trong khoang lái”, “ thơm mát”, “ bát ngát”, “ đỏ nặng NguyÔn ThÞ H¬ng 19 Trêng TiÓu häc Hng Lam SKKN phù sa”, “ mới được xây dựng” chỉ là định ngữ sau cụm danh từ chứ không phải là vị ngữ. C/ KẾT LUẬN. 1. Kết quả đạt được. Qua thực tế dạy học lớp 4 - 5, tôi đã nghiên cứu chương trình sách giáo khoa và đã tìm ra được những biện pháp để giúp học sinh khắc phục lỗi khi làm bài tập Luyện từ và câu. Thông qua kết quả học tập của học sinh trên lớp cũng như khi làm bài khảo sát chất lượng về phân môn Luyện từ và câu đã được nâng lên rõ rệt. 2. Bài học kinh nghiệm. - Để dạy học Luyện từ và câu đạt hiệu quả cao, giáo viên phải nắm chắc nội dung dạy học, các kiến thức và kĩ năng từ ngữ và ngữ pháp cần trang bị cho học sinh; nắm được ý đồ tác giả khi xây dựng chương trình và SGK; thấy được ưu, nhược điểm của chương trình và các tài liệu dạy học để phát huy những điểm mạnh, khắc phục, hạn chế những nhược điểm đó. NguyÔn ThÞ H¬ng 20 Trêng TiÓu häc Hng Lam
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan