Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biên pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng xuất khâủ của hàng thủy sản việt ...

Tài liệu Một số biên pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng xuất khâủ của hàng thủy sản việt nam vào thị trường hoa kỳ trong thời gian tới

.PDF
55
151
123

Mô tả:

LUẬN VĂN: Một số biên pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng xuất khâủ của hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới Lời mở đầu Trong thời gian qua, cùngvới những tiến triển tốt đẹp trong quan hệ ngoại giao thì quan hệ kinh tế giữa Việt Nam- Hoa Kỳ đã có những chuyển biến tích cực. Về thương mại, mặc dù quan hệ hai nước đã được nối lại vào đầu những năm 1990, nhưng sau tháng 2/1994, khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và cho phép các công ty kinh doanh của Hoa Kỳ đượcmở văn phòng đại diện ở Việt Nam, quan hệ thương mại giữa hai nước mới có những tiến bộ thực sự. Và gần đay nhất, ngày 13/ 7/2000, sau 4 năm kiên trì đàm phán, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã được Chính phủ 2 nước ký kết và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 10/ 12 / 2001. Hiệp định thương mạiViệtNam - Hoa Kỳ không chỉ có tác dụng mở rộng quan hệ giữa 2 nước mà còn mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với tất cả các nước. Nó khẳng định sự cam kết tiếp tục mở cửa của Việt Nam và sự công nhận của Hoa Kỳ cũng như cộng đồng quốc tế về những tiến bộ trong chính sách mở cửa của Việt Nam. Với việc tiếp tục cải cách luật pháp, kinh tế, hành chính và cải thiện môi trường đầu tư, chẳng những quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được cải thiện mà quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước khác cũng được tăng cường, dòng đầu tư nước ngoài từ Hoa Kỳ, từ các công ty của Hoa Kỳ tại các nước khác và từ các nước khác vào Việt Nam sẽ từng bước được hồi phục. Đối với Việt Nam, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức khi thâm nhập vào thị trường hấp dẫn nhất thế giới này. Mặc dù mới có hiệu lực được hơn một năm nhưng phai công nhận Hiệp định đã phát huy tác dụng thể hiện ở chỗ kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào thị trường Hoa Kỳ đã tăng đột biến trong đó hang thủy sản chiếm một tỷ trọng đáng kể. Trong thời gian thực tập tại Vụ thương mại thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư tôi đã được tìm hiểu về những diễn biến phức tạp trên thị trường nhập khẩu thủy sản Hoa Kỳ và thực trạng xuất khẩu của thủy sản Việt Nam vào thị trường này giúp tôi hoàn thành chuyên đề: “ Một số biên pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng xuất khâủ của hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới “. Vì thời gian thực tập không dài, năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề không không thể tránh khỏi những thiếu xót, kính mong được sự gop ý của thầy để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Kết cấu chuyên đề thực tập gồm 4 phần: Phần I : Tổng quan về những thuận lợi và khó khăn khi tiếp cận với thị trường Hoa Kỳ. Phần II : Tình hình xuất khẩu của hàng thủy sản Viêt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua và định hướng năm 2003 Phần III : Đánh giá thuận lợi, khó khăn và triển vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Hoa Kỳ Phần IV : Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng xuất khẩu của hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới. Phần I : Tổng quan về những thuận lợi và khó khăn khi tiếp cận thị trường hoa kỳ. 1. Thuận lợi : 1.1. Quan hệ lịch sử : Hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ từng là đối thủ trong một cuộc chiến tranh lâu dài, một cuộc chiến tranh còn để lại nhiều vết thương. Nhưng nếu hai dân tộc biết khép lại những trang đau thương của quá khứ để hợp tác vì tương lai thì quan hệ lịch sử lại trở thành một thế mạnh. Những thuận lợi do quan hệ lịch sử có thể tóm tắt như sau: 1.1.1. Sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau Trải qua những thăng trầm lịch sử, người dân hai nước dù muốn hay không cũng buộc phải quan tâm và có sự hiểu biết nhất định về nhau. Hàng triệu người Mỹ đã từng có mặt tại Việt Nam trong những năm chiến tranh và chính họ khi trở về khi trở về với đời sống bình thường, vô tình trở thành những cầu nối văn hoá hai dân tộc. Sự xuất hiện hàng ngàn tác phẩm văn học, điện ảnh, hồi ký và nghiên cứu về văn hoá, xã hội Việt Nam, trong đó có những tác phẩm đạt giải cao tại Hoa Kỳ, cũng góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự hiểui biết của công chúng Hoa Kỳ về Việt Nam. Những hiểu biết này sẽ là yếu tố khá thuận lợi khi 2 nước trở thành đối tác kinh tế của nhau. Một số người Mỹ quay trở lại thăm việc hoặc kinh doanh với Việt Nam về phía Việt Nam cũng có nhiều người có người thân hoặc bạn bè là người Mỹ sẵn sàng chia sẽ những mối quan tâm và cùng nhau hợp tác kinh oanh cùng thu lợi nhuận. Đội ngũ trí thức và kỹ thuật viên do Hoa Kỳ đào tạo. Do có quan hệ lâu dài trong quá khứ nên tại Việt Nam có một đội ngũ đáng kể những người được đào tạo trực tiếp tại Hoa Kỳ; những người này tiếp thu được nền khoa học công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới hoặc thông hiểu những tập quán và luật lệ kinh doanh Hoa Kỳ. Đây là đội ngũ trí thức quan trọng có thể góp phần khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong giai đoạn hiện tại khi các doanh nghiệp Việt Nam còn bỡ ngỡ với thị truờng Hoa Kỳ, đặc biệt là trong việc lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và sử dụng các thiết bị do Hoa Kỳ sản xuất. 1.1.2. Hiểu biết của người Mỹ về các sản phẩm Việt Nam. Mặc dù trong nhiều năm sau chiến tranh quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn rất nhỏ nhưng nhiều loại sản phẩm Việt Nam vẫn có được chỗ đứng nhất định đối với người tiêu dùng Hoa Kỳ. Đó là vì trên thực tế người dân 2 nước có hiểu biết về nhãn mác, hàng hoá do nước kia sản xuất. Hàng triệu công dân Hoa Kỳ từng có mặt tại Việt Nam ở họ đã hình thành thói quen tiêu dùng một số sản phẩm hàng hoá của Việt Nam. Thói quen tiêu dùng đó có thể được mở rộng sang người thân và bạn bè của họ, tạo nên một lượng khách hàng tiềm tàng cho hàng hoá Việt Nam. Về phía mình, người Việt Nam cũng khá quen thuộc nhiều nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng của Hoa Kỳ, đánh giá cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ của các Công ty Hoa Kỳ. Do vậy các Công ty Việt Nam có thể học tập được nhiều ở các Công ty Hoa Kỳ. Riêng đối với các Công ty hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu, việc tiêu thụ hàng hoá của Hoa Kỳ tại Việt Nam là khá thuận lợi. 1.2. Tiềm năng của Việt Kiều: 1.2.1. Công đồng Việt Kiều hình thành một thị trường quan trọng: Hiện có 1,5 triệu Việt Kiều đang làm ăn, sinh sống tại Hoa Kỳ. Mặc dù đã định cư tại Hoa Kỳ khoảng 20 -30 năm, song phần lớn các gia đình Việt vẫn giữ thói quen tiêu dùng các sản phẩm Việt Nam. Vì thế, Việt Kiều tạo ra một thị trường đáng kể cho các sản phẩm truyền thống của Việt Nam. Xin lưu ý rằng, với số dân tương đương với một quốc gia nhỏ ở Bắc Âu và thu nhập khá cao, sức mua của cộng đồng này là rất lớn so với những thành phố tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. 1.2.2. Đối tác kinh doanh và hợp tác: Trong nhiệm vụ xâm nhập thị trường Hoa Kỳ hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam còn bị hạn chế về nhiều mặt như thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm cũng như thông tin và kinh phí để xâm nhập thị trường nhanh chóng và có hiệu qủa. Do vị thế đặc biệt của mình, Việt Kiều ở Hoa Kỳ có thể là lực lượng đắc lực hỗ trợ và khắc phục những điểm yếu này. Về mặt tài chính, nhiều người Việt bước đầu đã thành công trong việc kinh doanh tại Hoa Kỳ. Một số người đã trở thành những nhà kinh doanh giỏi, một số khác trở về đầu tư tại Việt Nam. Nếu Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam biết khai thác và phát huy sức mạnh về phương diện chất xám cũng như tiềm năng kinh tế và nhân lực của họ, Việt Kiều sẽ là cầu nối quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thành công vào thị trường Hoa Kỳ. 1.2.3. Ưu thế về văn hoá, ngôn ngữ: Trong kinh doanh hiện đại ngày nay, yếu tố văn hoá càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Điều này trước hết thể hiện ở khả năng nắm bắt thị hiếu, thói quen tiêu dùng của người dân địa phương, điều kiện quyết định sự thành công của một loại sản phẩm nhấtđịnh. Đặc biệt khi tiếp cận với một thị trường lớn và đa dạng như thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp phải nắm bắt được và hành xử theo các chuẩn mực văn hoá chung và văn hoá kinh doanh tại đây. Hoa Kỳ đang sống trong kỷ nguyên thông tin với nhịp sống khẩn trương và mạnh mẽ, có khả năng thu nạp rất nhiều yếu tố ngoại lai và thị trường được quốc tế hoá sâu sắc. Trong bối cảnh đó, các nhà kinh doanh Việt Nam phải tăng cường khả năng thích ứng của mình, đặc biệt là khả năng thích ứng về ngôn ngữ. Để khắc phục tình trạng trên Việt Kiều là những người trợ giúp đắc lực. Việt Kiều có những điểm chung về văn hoá giữa 2 dân tộc; họ có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam khắc phục những trở ngại do sự dị biệt về văn hoá giữa 2 dân tộc để xâm nhập thành công thị trường này. 1.2.4. Hiểu biết sâu sắc 2 thị trường: So với phần lớn các nhà kinh doanh Việt Nam, nhiều chuyên gia Việt Kiều được đào tạo khá cơ bản và có kiến thức chuyên sâu, thông thạo các khía cạnh của hoạt động kinh doanh quốc tế, am hiểu ngoài ngõ ngách, lắt léo của các luật lệ và thủ tục kinh doanh, pháp luật. Đó là lực lượng rất đáng quý và có thể trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam lúc này còn rất bỡ ngỡ trong thị trường phức tạp rộng lớn và thay đổi nhanh chóng như thị trường Hoa Kỳ. Việt Kiều có thể dễ dàng biết được những mặt hàng nào có thể tiêu thụ trên thị trường Hoa Kỳ mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp. Với hiểu biết sâu và cụ thể về cả 2 thị trường của 2 nước, Việt Kiều trở thành những đối tác tin cậy và có khả năng hợp tác cao với các doanh nghiệp Việt Nam trong chiến lược xâm nhập Hoa Kỳ. Các hình thức có thể hợp tác là : (1). Liên doanh, liên danh hoặc các đại lý phân phối Tuỳ từng trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam có thể chọn phương thức hợp tác với Việt Kiều có hiệu quả nhất. (2). Tư vấn hoặc môi giới kinh doanh Do ưu thế của mình, Việt Kiều có thể đóng vai trò như một nhà tư vấn hoặc môi giới trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập thành công vào thị trường rất phức tạp như thị trường Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện chưa có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn, nhưng trong một thị trường mới và phức tạp như thị trường Hoa Kỳ thì để tránh rủi ro việc sử sụng tư vấn là rất cần thiết. Tuy nhiên, do phía dịch vụ tư vấn tại Hoa Kỳ quá đắt nên việc khai thác dịch vụ tư vấn từ những chuyên gia Việt Kiều về các lĩnh vực kinh doanh, pháp luật là rất thiết thực. Do có chung những nét tương đồng với doanh nhân Việt Nam, Việt Kiều cũng có thể đảm nhận vai trò môi giới kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam hiêu quả hơn các nhà môi giới khác. 1.3. Lợi thế giá cả: Cạnh tranh về giá cả đối với những mặt hàng đủ loại diễn ra rất gay gắt trên thị trường. Chúng ta có một lợi thế rất lớn là giá nhân công rẻ , trong khi trình độ giáo dục của Viêt Nam là khá tốt so với các nước đang phát triển. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh tốt về giá, chúng ta phải phấn đấu nhiều trong lĩnh vực quản lý sản xuất bảo quản và phân phối. Trên thực tế, một số hàng hoá của chúng ta đã có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường Hoa Kỳ, điển hình là cá Tra và cá Ba Sa. Chính nối lo ngại về sự cạnh tranh của cá Việt Nam đã khiến các nhà sản xuất cá Hoa Kỳ ra sức vận động để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một đạo luật liên quan đến nhập khẩu cá da trơn (catfish) gây ồn ào trong thời gian qua. Tuy nhiên, giá cả luôn gắn liền với chất lượng ; một hàng hoá được coi là có tính cạnh tranh hơn so với các sản phẩm cùng loại chỉ khi có chất lượng tương tự hoặc rẻ hơn, hoặc có cùng giá bán nhưng chất lượng tốt hơn. Hàng Viêt Nam sau khi được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường hóa sẽ có giá cả cạnh tranh hơn trên thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên chúng ta cần nhớ rằng hiện đã có 227 Quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại bình thường hoá với Hoa Kỳ, bởi vậy yếu tố được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường hoá vẫn chưa đủ để chúng ta chiếm lĩnh thị trường, mà điều quan trọng nữa là chúng ta phải chủ động và nỗ lực mọi mặt để giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chỉ có như vậy, mới nâng cao được tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Nhìn chung, các mặt hàng Việt Nam không qua chế biến như thuỷ sản đông lạnh ... có khả năng cạnh tranh hơn, còn phần lớn hàng qua chế biến có giá cả không thấp hơn hay thậm chí còn cao hơn hàng nước ngoài cùng loại, mà lý do là doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ lạc hậu hơn cũng như có nhiều phụ phí ngoài sản xuất. Điều này đã làm giá thành sản phẩm Việt Nam tăng cao . 1.4. Quy mô kinh doanh nhỏ Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ. Theo thống kê, chỉ có 21% doanh nghiệp quốc doanh và 1% doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn trên 10 tỷ đồng. Trong số 162 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ở Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố dẫn đầu cả nước về xuất khẩu có tới 44,44 % doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng. Đây là một thực trạng, nhưng chúng ta cần phải biết rõ lợi thế và nhược điểm của quy mô kinh doanh để có thể khai thác những lợi thế cũng như hạn chế những nhược điểm của nó. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế mà các doanh nghiệp lớn không có được như : quy mô kinh doanh nhỏ có độ phân tán RR như thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là với các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận muộn và còn nhiều bỡ ngỡ với thị trường nhiều đối thủ cạnh tranh này. Các doanh nghiệp, có bản chất linh hoạt của mình, dễ luồn lách để xâm nhập vào các mảng thị trường cũng như các khu vực khác nhau trên toàn Hoa Kỳ. Có thể nói doanh nghiệp nhỏ nhưng hiệu quả, kinh doanh không nhỏ và nhiều doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam có thể tạo ra sức mạnh lớn khi xâm nhập thị trường lớn nhất thế giới này. 1.5. Thuế Khi Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ có hiệu lực, thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá Việt Nam giảm bình quân từ 40 - 70% xuống còn 3 -7%. Hàng Thuỷ sản nằm trong nhóm ngành được hưởng lợi nhiều nhất vì thuế nhập khẩu giảm mạnh. Thuế nhập khẩu chưa Mặt hàng có quy chế quan hệ thương mại bình thường hoá Thuế suất quy chế quan hệ thương mại bình thường hoá Tên các loại 20% 5% Cá (Thùng đóng dưới 6,8 kg) 25% 3% 2. Khó khăn: 2.1. Những khó khăn do chệnh lệch trình độ phát triển 2.1.1. Môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa đáp ứng các chuẩn mực Quốc tế. * Sự yếu kém của hệ thống hải quan , thuế, ngân hàng. - Thủ tục Hải quan Việt Nam khác phức tạp, rắc rối thậm chí có cả hiện tượng gây khó khăn để trục lợi của một số nhân viên hải quan làm cản trở hoạt động xuất nhập khẩu. - Những yếu kém của hệ thống thuế, đặc biệt là những quy định bất hợp lý về mức thuế hoặc áp giá tính thuế hoặc các loại phụ thu đã làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động xuất nhập khẩu. - Sự yếu kém về nghiệp vụ và mức độ tín nhiệm thấp của các Ngân hàng Việt Nam trong thang bậc xếp loại mức tín nhiệm của các ngân hàng Quốc tế cũng gây khó khăn không nhỏ trong công tác xuất nhập khẩu. * Hệ thống quản lý hành chính cồng kềnh và kém hiệu quả. Trong hoạt động kinh doanh, nhiều khi các doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát quá mức về mặt hành chính, đặc biệt là các vụ thanh tra, kiểm tra liên miên hoặc kéo dài, hoặc bất ngờ của một số cơ quan có thẩm quyền. * Cơ sở hạ tầng kỹ thuật lạc hậu Thực trạng này làm cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam có độ RR cao do nguy cơ bị chậm trễ về thời gian giao nhận hàng và hàng hoá dễ bị hư hỏng hoặc giảm chất lượng do điều kiện kỹ thuật chưa bảo quản kém nhiều hơn hoặc hàng hoá của doanh nghiệp sẽ có giá thành cao hơn. 2.1.2. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp còn thấp * Quy mô kinh doanh nhỏ: - Đối với một số ngành hàng mà nhu cầu khách hàng không tập trung thì chi phí vận chuyển sẽ rất lớn khi kinh doanh tại thị trường khổng lồ như Hoa Kỳ. - Những doanh nghiệp nhỏ rất khó tạo dựng và khảng định một chỗ đứng vững chắc tại một thị trường lớn với những yêu cầu khắt khe như thị trường Hoa Kỳ. - Quy mô vốn nhỏ cũng khiến doanh nghiệp thường e ngại sử dụng tư vấn để tìm hiểu về thị trường Hoa Kỳ, về các Công ty Hoa Kỳ cũng như về hệ thống pháp luật của nước này. * Công nghệ và thiết bị lạc hậu. Nhìn chung, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện thấp hơn so với các nước trong khu vực ASEAN và các nước Châu á có hàng nhập vào Hoa Kỳ như : Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan ... công nghệ và thiết bị lạc hậu là nguyên nhân chính dẫn đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp. * Chất lượng hàng hoá thấp Chất lượng phần lớn hàng hoá Việt Nam hiện nay là đáng lo ngại, tỷ lệ doanh nghiệp không đạt tiêu chuẩn chất lượng nào , nghĩa là khó lòng xuất khẩu được sản phẩm sang Hoa Kỳ lên đến 57,41%. Sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đưa vào thị trường Hoa Kỳ đa số là các sản phẩm khai thác từ thiên nhiên như : Thuỷ hải sản ... và hầu hết được xuất khẩu dưới dạng thô ít qua chế biến, hiệu quả thấp, giá cả rất thấp và bấp bênh, trị giá xuất khẩu không ổn định. * Chi phí sản xuất cao Điều này do năng suất lao động thấp, chi phí đầu vào sản phẩm cao hơn so với các nước trong khu vực. * Chưa chú trọng xác lập động quyền sở hữu nhãn hiệu. Điều này khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và nhiều khi không xuất khẩu được do những quy định pháp lý trên thị trường Hoa Kỳ. * Trình độ kinh doanh thấp - Hoạt động tiếp thị còn yếu Chưa chủ động thu hút khách hàng và giao dịch trực tiếp. - Khâu thiết kế sản phẩm đơn điệu, ít phù hợp với thị hiếu khách hàng Hoa Kỳ. - Thiếu am hiểu về thị trường Hoa Kỳ Các DN Việt Nam chưa hiểu nhiều về thị trường Hoa Kỳ cộng với khả năng tiếp thị yếu đã làm giảm khả năng tiếp cận với thị trường. - Thiếu thông tin về thị trường Hoa Kỳ là đất nước rộng lớn lại có hệ thống luật pháp khá phức tạp, trong khi đó các DN Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu tiên trong quá trình xâm nhập thị trường này, hầu hết còn ít hiểu biết và chưa nhiều kinh nghiệm về cả phương diện pháp luật lẫn tập quán kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ. - Trình độ tiếng Anh thấp Sự yếu kém về tiếng Anh hạn chế khả năng đánh giá đúng những RR và những khía cạnh phức tạp nhiều khi đến lắt léo của một bản hợp đồng; điều này chưá đựng những nguy cơ tiềm tàng có thể làm thiệt hại hàng triệu Đô la đối với DN Việt Nam. 2.2. Những khó khăn do hoàn cảnh địa lý và cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Hàng hoá Việt Nam xâm nhập thị trường Hoa Kỳ chậm hơn so với hàng hoá của rất nhiều nước khác. Các đối tác kinh doanh cũng như thói quen, sở thích tiêu dùng sản phẩm trên thị truờng Mỹ đã rất ổn định, vì vậy chia sẻ và tăng được thị phần cho hàng hoá Việt Nam là thách thức lớn đối với hoạt động xuất khẩu của các DN Việt Nam. 2.2.1. Những khó khăn do khoảng cách địa lý quá xa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do Việt Nam và Hoa Kỳ cách nhau quá xa nên thời gian vận tải hàng hoá thường kéo dài, chi phí vận tải cao lên kàm ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của các DN Việt Nam. Thời gian vận chuyển dài làm cho hàng thuỷ sản tươi sống bị giảm về chất lượng tỷ lệ hao hụt tăng, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam cần tiết kiệm thời gian, đặc biệt là các khâu thu mua, đóng gói, vận chuyển làm thủ tục hải quan tại Việt Nam để hàng hoá nhanh chóng được đưa vào thị trường Hoa Kỳ. 2.2.2.Nhiều đối thủ lớn có sức cạnh tranh và kinh nghiệm thương trườngdài hạn hơn. Tính cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ là rất cao. Do sức mua lớn và ổn định, hầu hết các Quốc gia trên thế giới đều coi thị trường Hoa Kỳ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu. Chính phủ và các nhà DN của các nước này đều rất nỗ lực để thâm nhập và giành thị phần tối đa trên thị trường quan trọng nhất thế giới này. * Các DN Hoa Kỳ: Các DN chủ nhà có ưu thế về mọi mặt, am hiểu thị trường, luật lệ kinh doanh cùng với sự vượt trội về vốn, công nghệ và sự hỗ trợ đắc lực của Chính phủ nên chắc chắn họ là những đối thủ mạnh hàng đầu và đáng quan tâm nhất. * Các DN Mêhicô và Canađa Các DN Mêhicô và Canađa rất hiểu biết thị trường Hoa Kỳ, có khoảng cách địa lý gần Hoa Kỳ nhất, hàng hoá của họ cũng được ưu đãi và dễ dàng xâm nhập thị trường này. * Các doanh nghiệp EU, Nhật Bản, Trung Quốc, ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước trong khu vực ASEAN. Các DN này là những đối thủ có sức mạnh đáng kể, cần đặc biệt chú ý đến hàng hoá của Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN do tính chất của hàng hoá Việt Nam gần giống với hàng hoá của các Quốc gia này vè khía cạnh chất lượng, tính chất sử dụng nhiều lao động và chủng loại nguyên liệu, sản phẩm nhiệt đới so với Việt Nam, Trung Quốc có nhiều lợi thế về kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ. Trước hết, họ có đội ngũ đông đảo Hoa Kiều khá giàu có và đã có mặt từ hàng trăm năm nay tại Hoa Kỳ nên rất am hiểu kinh tế, xã hội của đất nước này. Ngoài ra, các DN Trung Quốc đã có một thời gian dài chuẩn bị, nỗ lực phục yếu kém để nâng cao chất lượng hàng hoá. Do Trung Quốc đã được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường hoá của Hoa Kỳ nên giá hàng hoá của Trung Quốc hiện nay thấp hơn bình quân từ 20 - 30% so với hàng hoá Việt Nam. Công nghệ thiết kế mẫu mã của Trung Quốc cũng phát triển hơn so với Việt Nam nên Trung Quốc chủ động trong sản xuất và xuất khẩu thành phẩm sang Hoa Kỳ với giá thấp, trong khi nhiều sản phẩm của Việt Nam chủ yếu vẫn là gia công cho nước ngoài. Trung Quốc có chính sách thu hút đầu tư để phát triển nguồn nguyên liệu, nên đã tự túc để được hầu hết nguyên liệu. Trong khi Việt Nam phải nhập rất nhiều loại nguyên liệu để sản xuất.Việc tự túc được nguyên liệu là một xu thế nổi bật của hàng hoá Trung Quốc, giúp giảm được chi phí, tăng nhanh được giá trị xuất khẩu và cải thiện đáng kể cán cân thương mại . Phần II : Tình hình xuất khẩu của hàng thuỷ sản việt nam vào thị trường hoa kỳ trong thời gian qua và định hướng năm 2003 1. Những nhân tố ảnh hưởng 1.1 Hiệp định thương mại Việt Mỹ và triển vọng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 1.1.1. Cơ hội kinh doanh: Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện nay. Mỹ được coi là thị trường đầy triển vọng, đứng thứ 2 sau Nhật Bản. Trong định hướng phát triển giai đoạn 2005 - 2010 của Ngành thuỷ sản Việt Nam thị trường Mỹ sẽ chiếm tỷ trọng 25 - 28% vào năm 2010. Ngành Thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 94 với giá trị ban đầu còn thấp, chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm 1998 lên tới 82 triệu USD (tăng gấp 14 lần so với năm 1994) đưa vào Việt Nam lên vị trí thứ 19, trong số các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập từ Việt Nam 130 triệu USD thuỷ sản các loại. Năm 2000 đạt 302,4 triệu USD (tăng so với năm 1999 là 114%). Theo xu hướng chung về mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam mặc dù chỉ mới xuất hiện trong giai đoạn gần đây. Mỹ đã là thị trường xuất khẩu thuỷ sản đầy triển vọng, có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đều qua các năm. Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn liền với tiến độ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam - Mỹ đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết vào 13/7/2000 và chính thức có hiệu lực thi hành từ 10/12/2001. Sự kiện đó mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cần được chuẩn bị nắm bắt ngay với các doanh nghiệp Việt Nam. * Đối với Việt Nam và các nước xuất khẩu thuỷ sản khác, Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 thế giới và cũng là thị trường tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị và chất lượng. Ngay sau khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ song phương có hiệu lực, quy chế tối huệ quốc (MFN) trong thương mại hàng hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường đầy hấp dẫn với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu MEN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN 7,5%, phi MFN 15% ; ốc thuế suất tương ứng 5% và 20% ; cá phi tươi và đông 0% và 0-5,5cent/kg ; cá khô : 4 -7% và 25-30%. * Hiệp định thương mại Việt- Mỹ khuyến khích việc tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại giữa 2 nước như: Hội chợ, triển lãm, trao đổi các phái đoàn và hội thảo thương mại tại Lãnh thổ 2 nước, cho phép các công dân và Công ty 2 nước quảng cáo các sản phẩm dịch vụ bằng cách thoả thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quảng cáo bao gồm: Truyền hình, phát thanh, đơn vị kinh doanh, in ấn và bảng hiệu... * Mỗi bên cũng cho phép liên hệ và bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giữa các công dân và Công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ hội cho cả doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ có điều kiện tìm hiểu sâu về thị trường của nhau để mở rộng hoạt động buôn bán giữa 2 nước. 1.1.2. Thách thức Mặc dù Hiệp định thương mại đem đến cho các DN Việt Nam những thuận lợi về chính sách, cơ chế xuất khẩu hàng hoá và thuế nhập khẩu nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, đó là: (1) Việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điều quyết định để tăng khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam và Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển nhưng Việt Nam chưa được hưởng chế độ này. Mức thuế trung bình MFN là 5% nhưng nếu được hưởng thuế ưu đãi thì gần như = 0% . (2). Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ loại hàng thuỷ sản vào Mỹ. Trong số đó có rất nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như: Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản ) Trung Quốc (tôm đông, cá rô phi phi lê) Canađa (tôm hùm, cua) Inđônêxia ( cua, cá ngừ, cá rô phi phi lê) Phi lip pin ( hộp cá ngừ, cá ngừ tươi và đông, tôm đông, và rong biển).. Nên sự cạnh tranh trên thị trường này sẽ ngày càng quyết liệt đặc biệt đối với 1 số mặt hành chủ lực như : Tôm đông, cá phi lê , cá ngừ. (3). Trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu, Mỹ có nhu cầu cao về các hàng cao cấp tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá phi lê hộp thuỷ sản ...) nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng sơ chế, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm khoảng 30% giá trị xuất khẩu của Việt Nam). Cụ thể với mặt hàng cá ngừ, hiện nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ (95% giá trị xuất khẩu cá ngừ) trong khi cá Ngừ đóng hộp là hàng thuỷ sản được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị hàng xuất khẩu của Việt nam không đáng kể (5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản như: ngọc trai, agar, cá cảnh... (giá trị nhập khẩu năm 2000 đạt 9 tỷ USD chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta mới chỉ chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói chưa được sự phù hợp cao của hàng xuất nhập khẩu Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. (4). Thị trường Mỹ là một thị trường thuỷ sản khó tính của thế giới, hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt chẽ của Cục quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) theo các tiêu HACCP . Vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường, bảo vệ sinh thái... là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để hạn chế nhập khẩu thuỷ sản. Mặc dù cơ quan FDA của Mỹ đã công nhận hệ thống HACCP của Việt Nam nhưng chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế do trình độ công nghệ trong chế biến và bảo quản còn thấp chủ yếu là công nghệ đông lạnh. (5). Một khó khăn trong lĩnh vực tiếp thị là mặc dù đã có trên 50 doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng hầu như chưa có DN nào mở được Văn phòng đại diện tại nước Mỹ. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam ít có cơ hội giao thương với các nhà phân phối Mỹ, nhất là để tìm hiểu các luật chơi của thị trường này. Hệ thống của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các DN xuất khẩu Việt Nam. Vì vậy nếu không nghiên cứu hiểu rõ thì DN sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử 1 số luật sau: - Luật chống độc quyền đưa ra các chế tài tình hình sự khá nặng đối với những hành vi độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh, cụ thể là phạt tiền đến 1 triệu USD đối với Công ty, 100 nghìn USD hoặc tù 3 năm đối với cá nhân. - Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại quy định lớn gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. - Luật Liên Bang và các Tiểu Bang của Mỹ được áp dụng cùng 1 lúc trong lĩnh vực thuế kinh doanh đòi hỏi ngoài việc nắm luật Liên Bang DN còn phải nắm vững luật của Tiểu Bang mà DN có quan hệ kinh doanh. (6). Về lâu dài các DN Việt Nam phải chuẩn bị cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn trong thu mua nguyên liệu chế biến cũng như xuấtt thuỷ sản với các Công ty Mỹ vào Việt Nam. Sản xuất kinh doanh thủy hải sản. Vì theo quy định trong thời gian 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của công dân hoặc Công ty Mỹ vào các lĩnh vực sản xuất và chế tạo được phép kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản với điều kiện đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, hoặc các công dân và Công ty Mỹ được phép liên doanh với Việt Nam để kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản vơí phần góp vốn không quá 49%. 3 năm tiếp sau đó hạn chế đối với sở hữu của chủ đầu tư Mỹ là 51%. 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực thì Mỹ có thể thành lập Công ty 100% vốn để kinh doanh xuất nhập khẩu mọi mặt hàng. 1.1.3. Nhận xét: Thị trường Mỹ đang mở ra nhiều triển vọng đối với sản phẩm thủy sản của Việt Nam đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết. Tuy vậy để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam, tạo ra vị thế ngày càng vững chắc của hàng thủy sản Việt Nam cần nỗ lực nghiên cứu thị trường của Mỹ, tiếp cận thông tin thị trường một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác; đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thủy sản xuất khẩu, tăng cường giới thiệu, quảng cáo các sản phẩm và tiếp thị bằng nhiều hình thức... chỉ có như vậy những cơ hội kinh doanh mà Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ mở ra cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam mới được nắm bắt kịp thời, tạo được đà phát triển mạnh cho các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. 1.2. Sức mua của thị trường Hoa Kỳ: Với dân số trên 280 triệu người, chiếm 4,6% dân số thế giới, Hoa Kỳ tạo ra tới 20,8% GDP toàn thế giới, chiếm 17,8% tổng xuất nhập hàng hoá và dịch vụ thế giới. Thị trường quốc nội của Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất thế giới với mức GNP đạt xấp xỉ 10.000 tỷ USD vào 2000; mỗi năm Hoa Kỳ tiêu thụ một lượng hàng hoá và dịch vụ trị giá 5.500 tỷ USD trong đó giá trị hàng nhập khẩu là 1.100 tỷ USD. Xã hội Hoa Kỳ là xã hội tiêu thụ bởi vì phần thu nhập dành cho tiêu dùng rất lớn. Thu nhập bình quân tính theo đầu người ở Hoa Kỳ là khoảng 36.200 USD năm 2000. Tuy là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới nhưng Hoa Kỳ cũng phải nhập nhiều nguyên liệu từ các nước khác. Trong số 170 nước xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ, Việt Nam đứng thứ 72. Thủy sản là một trong số những mặt hàng Việt Nam đã xuất sang Hoa Kỳ và có tiềm năng khai thác thế mạnh của mình. Theo dự báo của tổ chức FAO thì với sự gia tăng của dân số và thu nhập bình quân đầu người cùng với xu hướng thay thế thực phẩm có nguồn gốc thủy sản cho thực phẩm có nguồn gốc từ động vật khác từ mức tiêu dùng của thị trường Mỹ sẽ còn cao hơn nữa. 1.2.1. Tình hình sản xuất kinh doanh thuỷ sản tại Hoa Kỳ Hoa Kỳ là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ 2 trên thế giới sau Nhật Bản với trị giá nhập khẩu trên 8 tỷ USD/năm. Năm 2000, Hoa Kỳ nhập khẩu thủy sản từ 130 nước trên thế giới với khối lượng 1,6 triệu tấn, giá trị đạt khoảng 10 tỷ USD. Người tiêu dùng Hoa Kỳ sử dụng xấp xỉ 80% tổng sản lượng thủy sản của thế giới, trong đó hơn một nửa từ nhập khẩu. Hoa Kỳ có khoảng 1300 nhà máy chế biến thủy sản với trang bị hiện đại, đóng góp khoảng 25 tỷ USD vào tổng thu nhập quốc dân. Có thể khẳng định Hoa Kỳ là thị trường có tiềm năng rất lớn đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam. 1.2.2. Những mặt hàng thuỷ sản nhập vào Hoa Kỳ: Cơ cấu mặt hàng thủy sản nhập vào Hoa Kỳ rất đa dạng bao gồm những mặt hàng chủ yếu sau: - Tôm: mặt hàng được dân chúng Hoa Kỳ ưa thích nhất và tiêu thụ với khối lượng rất lớn, từ năm 1998 đến năm 2000, nước này nhập khẩu khoảng 3,1 tỷ USD mỗi năm, 50% (khoảng 166.000 tấn) khối lượng tôm được nhập từ Châu Á. Lượng tôm nhập qua các năm là 263.000 tấn (1997); 288.928 tấn (1998); 300.000 tấn (1999), nhập khẩu tôm vào thị trường Hoa Kỳ thường tăng mạnh trong 6 tháng cuối năm. - Cá nước ngọt, phi lê tươi và đông lạnh: Hoa Kỳ có nhu cầu lớn về cá da trơn nước ngọt thịt trắng như cá basa (Pangasus hypopth thal mus), cá tra Pangasius bocourti) tương tự với loài cá nheo Hoa Kỳ (Ictalurus punctatus) thường được gọi là catfish. Cá basa và cá tra xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu từ các nước Huyana, Braxin, Thái Lan, Canađa và Việt Nam, trong đó nhập từ Việt Nam chiếm 80%. - Tôm hùm sống, tươi và ướp lạnh Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ tôm hùm lớn nhất thế giới. Người dân Hoa Kỳ hiện thường chuộng tôm hùm sống hoặc ướp đá; nhu cầu về mặt hàng này luôn ở mức cao. - Cá Ngừ nguyên con ướp đông lạnh: từ năm 1990 Hoa Kỳ phải nhập khẩu cá ngự. Năm 1995, Hoa Kỳ nhập khẩu 130.000 tấn cá Ngừ nguyên liệu trị giá 460 triệu USD để cứu hàng loạt nhà máy đóng hộp cá Ngừ khỏi nguy cơ phá sản. - Cá Ngừ đóng hộp Mặc dù là nước công nghệ đóng hộp cá Ngừ mạnh nhất thế giới, nhưng năm 1996 Hoa Kỳ phải nhập khẩu 110.000tấn cá Ngừ đóng hộp trị giá hơn 230 triệu USD. - Cá Hồi nguyên con ướp lạnh: Hoa Kỳ đứng thứ 2 thế giới về khai thác cá Hồi với sản lượng 550 tấn năm 1995, nhưng người tiêu dùng trong nước rất ưa chuộng cá hồi Đại Tây Dương nuôi nhân tạo ở Nauy, Canađa và Chi Lê nên nước này mỗi năm nhập khẩu tới gần 60.000 tấn cá Hồi trị giá 280 triệu USD. - Điệp tươi và ướp lạnh: Hoa Kỳ là nước tiêu thụ điệp lớn thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 1995 sản lượng nhập khẩu là 26.000 tấn, trị giá 216 triệu USD. Nhìn chung do thói quen tiêu dùng nên cơ cấu mặt hàng thủy sản nhập khẩu là vào Hoa Kỳ rất đa dạng, phong phú bao gồm nhiều loại thủy sản nước mặn hoặc nước ngọt, nguyên liệu hoặc đã qua chế biến. Do có sức mua lớn nên khối lượng thủy sản nhập khẩu vào thị trường này hiện rất lớn và mức tăng trưởng vẫn duy trì ở mức độ cao. Các doanh nghiệp đánh bắt và sản xuất thủy sản Việt Nam có thể tăng cường đầu tư để nâng cao sản lượng phục vụ cho xuất khẩu. 1.3. Các tiêu chuẩn đa dạng về hàng thủy sản nhập khẩu: Hoa Kỳ nhập nhiều hàng hoá, đa dạng cả về chủng loại và cấp bậc chất lượng. Điều đó cũng có nghĩa là mọi loại hàng hoá với mọi cấp độ về chất lượng đều được thị trường Hoa Kỳ chấp nhận - hàng hoá cao cấp cho những người có thu nhập trung bình và thu nhập thấp. Tuy nhiên hàng hoá nhập vào thị trường này phải đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, nhãn mác hàng hoá, các tiêu chuẩn về lao động, các qui định về môi trường, vệ sinh dịch tễ, các hạn chế về hạn ngạch... Tùy theo từng ngành hàng mà hàng nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia (do Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ - ANSI đặt ra) hoặc tiêu chuẩn ngành chẳng hạn như các qui định về kỹ thuật và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) thuộc Bộ Y tế và Dịch tễ nhân đạo Hoa Kỳ. Những khác biệt về tiêu chuẩn sản phẩm và hệ thống chứng nhận sản phẩm có thể cản trở việc nhập khẩu hàng hoá vào thị trường Hoa Kỳ và có thể được sử dụng để phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu. Cơ quan Hải quan và các cơ quan có liên quan đến từng nhóm hàng có trách nhiệm thi hành các tiêu chuẩn này tại cửa khẩu. 1.3.1. Quy định của Hoa Kỳ về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mặt hàng thủy sản: - Không phải mọi doanh nghiệp có hàng thủy sản đều có thể đưa hàng vào Hoa Kỳ. Bộ Luật Liên bang hk21 CFR quy định từ ngày 18/12/1997 chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài nào đã thực hiện chương trình HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Points - Phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát tới hạn), có hiệu quả mới được đưa hàng thủy sản vào Hoa Kỳ. - HACCP là một hệ thống quản lý chất lượng mang tính phòng ngừa (preventive) nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm (food safety) và chất lượng thực phẩm (food quality) thông qua việc phân tích mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. - Hệ thống HACCP nhấn mạnh vai trò của nhà sản xuất. - Thường xuyên ngăn ngưa và xử lý kịp thời những mối nguy đáng kể xâm nhập vào sản phẩm từ khâu nguyên liệu tới sản phẩm cuối cùng. - Phải kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất để đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ sinh thay vì kiểm soát sản phẩm cuối cùng. 1.3.2. Các cơ quan của nước xuất khẩu có thẩm quyền kiểm tra chương trình HACCP: Cơ quan này có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra điều kiện vệ sinh của nhà máy, xí nghiệp, soát vé các chương trình HACCP, lấy mẫu và phân tích các sản phẩm cuối cùng, các cơ quan giám định có quyền lực của quốc gia xuất khẩu sẽ ký và cấp giấy chứng nhận vệ sinh. Giấy này được gửi kèm mỗi chuyến giao hàng. Ngoài ra, thỉnh thoảng Hoa Kỳ cử các giám định viên đến nước xuất khẩu để chính thức giám định sản phẩm trước khi xuất khẩu. Các giám định viên này đưcợ đào tạo về công nghệ vệ sinh. Kiểm tra và giám định chất lượng thủy hải sản. Họ được huấn luyện về sự phát triển và ứng dụng các khái niệm HACCP đối với thực phẩm tươi sống như cá, tôm, mực... và có kinh nghiệm thực tế đối với việc giám định các tàu cá, bến cá và dây chuyền chế biến thủy hải sản. Theo thống kê của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tính đến 5/2001, Việt Nam có khoảng 120 doanh nghiệp có hàng xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường Hoa Kỳ, trong đó có 75 doanh nghiệp đã đạt được tiêu chuẩn HACCP. Chi phí để thực hiện HACCP chủ yếu phụ thuộc vào khoảng cách giữa cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp với các yêu cầu để đảm bảo thực hiện chương trình HACCP. Khoảng cách này càng xa thì chi phí càng lớn - Chi phí đầu tư để thực hiện HACCP ở một đơn vị là từ 5000 USD đến 50.000 USD trong thời gian 1 năm.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan