Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế ở hải dương...

Tài liệu Môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế ở hải dương

.PDF
121
246
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ THÙY LINH MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ THÙY LINH MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HẢI DƯƠNG Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ HỒNG TIẾN HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 Chƣơng 1. MÔI TRƢỜNG SINH THÁI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG ........................ 6 1.1. Môi trường sinh thái ........................................................................................ 6 1.1.1. Khái niệm môi trường sinh thái ............................................................ 6 1.1.2. Phát triển bền vững và vai trò của môi trường sinh thái đối với phát triển bền vững............................................................................. 10 1.2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với môi trường sinh thái ......................... 14 1.2.1. Tác động của môi trường sinh thái đối với phát triển kinh tế .............. 14 1.2.2. Những tác động của phát triển kinh tế đến môi trường sinh thái ......... 27 1.2.3. Sự cần thiết khách quan phải bảo vệ môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế bền vững .................................................................... 31 1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với môi trường sinh thái .................................. 35 1.3.1. Phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề môi trường sinh thái ở một số địa phương ..................................................................................... 35 1.3.2. Những bài học kinh nghiệm đối với Hải Dương ................................. 41 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HẢI DƢƠNG................................................ 44 2.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội tác động đến môi trường sinh thái ở Hải Dương ........................................................................ 44 2.1.1. Một số tiềm năng thế mạnh của Hải Dương........................................ 44 2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương .............................. 46 2.2. Khái quát về hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái ở Hải Dương ................. 53 2.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................... 53 2.2.2. Một số hạn chế ................................................................................... 56 2.3. Hiện trạng môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế ở Hải Dương ............... 58 2.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ở Hải Dương ......... 58 2.3.2. Tác động tiêu cực của phát triển kinh tế tới môi trường sinh thái ở Hải Dương ......................................................................................... 67 2.3.3. Những nguyên nhân chính tác động xấu tới môi trường sinh thái do phát triển kinh tế ở Hải Dương ...................................................... 79 2.3.4. Những vấn đề môi trường bức xúc đặt ra ở Hải Dương ........................ 82 Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƢỜNG SINH THÁI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ở HẢI DƢƠNG .................................................................................... 84 3.1. Vấn đề kinh tế môi trường trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 ........................................................ 84 3.1.1. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Bộ Chính trị...................................................................... 84 3.1.2. Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ............................................................................. 89 3.1.3. Phương hướng bảo vệ môi trường giai đoạn 2011 - 2015 được nêu ra tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ 3 .................................... 90 3.2. Mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái ở Hải Dương................................................................................ 96 3.2.1. Mục tiêu tổng quát ............................................................................. 96 3.2.2. Mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái giai đoạn 2006 - 2020 .......................................................... 99 3.2.3. Định hướng chiến lược bảo vệ môi trường tỉnh Hải Dương từ năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 .............................................................. 100 3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa môi trường sinh thái với phát triển kinh tế bền vững ở Hải Dương .......... 101 3.3.1. Nâng cao nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và môi trường sinh thái, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động về bảo vệ môi trường ........................................................ 101 3.3.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ......... 104 3.3.3. Giải pháp về quy hoạch .................................................................... 105 3.3.4. Bố trí, sử dụng kinh phí và nguồn nhân lực hợp lý cho hoạt động bảo vệ môi trường................................................................................ 108 3.3.5. Giải pháp về khoa học và công nghệ, thông tin liên lạc ...................... 109 3.3.6. Thực hiện xã hội hoá và đầu tư bảo vệ môi trường ............................. 111 3.3.7. Giải pháp về chính sách phát triển ...................................................... 112 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 121 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 126 QUY ƢỚC VIẾT TẮT BVMTST Bảo vệ môi trường sinh thái BVMT Bảo vệ môi trường CCKT Cơ cấu kinh tế CCN Cụm công nghiệp CCVC Của cải vật chất CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CTR Chất thải rắn ĐDSH Đa dạng sinh học ĐTM Đánh giá tác động môi trường KCN Khu công nghiệp KT - XH Kinh tế - xã hội MTST Môi trường sinh thái ONMT Ô nhiễm môi trường PTBV Phát triển bền vững PTKT - XH Phát triển kinh tế - xã hội PTKT Phát triển kinh tế PTKTBV Phát triển kinh tế bền vững TCCP Tiêu chuẩn cho phép TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TNTN Tài nguyên thiên nhiên TN&MT Tài nguyên và môi trường TTKT Tăng trưởng kinh tế UBND Uỷ ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong vài chục năm trở lại đây, do sức ép về dân số và PTKT làm cho các nguồn TNTN ngày càng cạn kiệt, MTST mất cân bằng, suy thoái nghiêm trọng, thậm chí ở một số vùng bị phá hủy hoàn toàn. Những vấn đề MTST toàn cầu như: biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ôzôn, ĐDSH giảm sút, ô nhiễm không khí, nguồn nước... đang là thách thức đối với sự tồn tại của loài người. Việc duy trì chất lượng MTST nhằm hướng tới PTBV đang là yêu cầu đặt ra đối với toàn thế giới cũng như mỗi một quốc gia. Ở Việt Nam, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, đất nước đã thay da đổi thịt, hàng loạt các KCN, khu chế xuất, các khu đô thị mới lần lượt mọc lên cùng với sự PTKT - XH là ô nhiễm và suy thoái môi trường ngày càng gia tăng. TNTN bị khai thác cạn kiệt đã gây ra những trở ngại to lớn cho giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Hậu quả ô nhiễm nặng nề do bất chấp về môi trường trong quá trình PTKT - XH đang diễn ra ở hầu khắp các địa phương trong cả nước nhưng đáng tiếc là điều đó hình như chưa "thấm" vào ý thức của nhiều người. Kinh nghiệm cho thấy việc xử lý hậu quả ô nhiễm khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với việc đầu tư, xử lý, ngăn chặn ô nhiễm ngay từ đầu. Trong những năm qua, Hải Dương đã có bước tiến mới trong PTKT ở tất cả các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp; sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các làng nghề; các hoạt động du lịch, dịch vụ, giao thông vận tải, khai thác khoáng sản, y tế, giáo dục, đô thị hóa. Song, vấn đề MTST trong PTKT hiện chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, MTST ở Hải Dương đã có sự ô nhiễm, tuy chưa đến mức độ nghiêm trọng, song từng thành phần môi trường như đất, nước, không khí, bụi ở một số khu vực có xu hướng ô nhiễm gia tăng và biểu hiện sự suy thoái đặc biệt là tại các khu công nghiệp, CCN tập trung, môi trường làng nghề… PTKTBV không chỉ coi trọng TTKT mà phải đi đôi với bảo vệ MTST, điều đó đồng nghĩa với việc cần phải có những giải pháp tích cực và hữu hiệu để ưu tiên giải quyết vấn đề MTST trong PTKT ở Hải Dương. Vì vậy, đề tài nghiên cứu "Môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế ở Hải Dương" nhằm giải quyết các đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề MTST và PTKT đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đề cập đến nhiều trong các tác phẩm của mình. Đồng thời cũng được nghiên cứu trong nhiều tác phẩm của các nhà kinh tế học như: Kinh tế học của Paul Samuelson và Wiliam D. Nordhous, Kinh tế học của David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbusch... Vấn đề này cũng được đặt ra tại Hội nghị môi trường và PTBV có sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) 1992, và Hội nghị về PTBV có tại Johannesburg (Nam Phi) 2002. Ở nước ta, vấn đề BVMT được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và đẩy mạnh CNH, HĐH. Luật Bảo vệ môi trường ra đời năm 1993, sau đó là hàng loạt các văn bản dưới luật liên quan đến vấn đề này được ban hành và được tổ chức thực hiện trong phạm vi cả nước. Đặc biệt vào năm 1998, lần đầu tiên Hội nghị môi trường toàn quốc được tổ chức. Tiếp đó, ngày 22 tháng 4 năm 2005, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ hai đã được tổ chức tại Hà Nội. Qua hai kỳ Hội nghị môi trường toàn quốc, đã có gần 1000 báo cáo tham luận và hơn 2000 đại biểu tham dự. Những báo cáo tham luận này tập trung vào 10 vấn đề chính: Môi trường đô thị và công nghiệp; môi trường nông thôn, miền núi, biển và ven bờ; hiện trạng môi trường Việt Nam; công nghệ môi trường; quản lý môi trường; bảo tồn đa dạng sinh học; phương pháp luận nghiên cứu môi trường; kinh tế môi trường; giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức về môi trường. Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ 3 (diễn ra trong hai ngày 17 và 18/11/2010) có quy mô lớn nhất từ trước đến nay với thông điệp: Bảo vệ môi trƣờng - tƣơng lai cho phát triển bền vững. Hội nghị đưa ra mục tiêu tổng kết, đánh giá kết quả đạt được và những bài học kinh nghiệm sau gần sáu năm triển khai Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 11/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; năm năm thực hiện chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương về việc tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW. 2 Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ III có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác BVMT và PTBV của đất nước, thể hiện tiếng nói chung của tất cả các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và cộng đồng cùng cam kết và thống nhất hành động triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về BVMT trong thời gian tới, phấn đấu đạt được các chỉ tiêu về môi trường mà Quốc hội đã đặt ra trong 5 năm tới và trong năm 2011 nhằm bảo đảm các mục tiêu PTKT - XH đã đề ra, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng gia tăng ONMT, suy thoái tài nguyên, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngoài ra, vấn đề MTST trong PTKT cũng đã được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận cũng như thực tiễn trong các văn kiện của Đảng, tạp chí nghiên cứu lý luận, nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu chuyên ngành và những công trình khoa học được đăng tải dưới hình thức bài tạp chí, sách chuyên khảo, luận văn, luận án. Có thể kể đến một số công trình của một số tác giả sau có liên quan ít nhiều đến đề tài nghiên cứu: - GS.TS Trần Văn Chử, Tài nguyên môi trường và PTBV ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2004. - Phạm Thị Ngọc Trầm, Môi trường sinh thái, vấn đề và giải pháp, Nxb CTQG, HN, 1997. - Ủy ban khoa học công nghệ và môi trường (2005) "Xung đột giữa PTKT và ONMT", HN, 2005. - Lê Huy Bá, Vũ Chí Hiếu, Võ Đình Long, Tài nguyên môi trường và PTBV, Nxb Khoa học kỹ thuật, HN, 2002. - Hồ Văn Vĩnh, Bảo vệ tài nguyên môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2009. Các công trình trên đã đề cập đến thực trạng suy thoái MTST, làm rõ cơ sở lý luận cũng như các vấn đề thực tiễn đặt ra và đưa ra nhiều giải pháp để PTKT và BVMT. Phần lớn các công trình nói trên, vấn đề MTST và PTKT được nghiên cứu trong mối quan hệ độc lập tương đối, mối quan hệ giữa chúng chủ yếu ở tầm quốc gia. Vấn đề MTST trong PTKT gắn với bảo vệ MTST ở một địa phương (tỉnh) chưa có nhiều công trình nghiên cứu đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là đối với Hải Dương. Vì vậy, đề tài "Môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế ở Hải 3 Dương" được nghiên cứu nhằm góp phần luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn về mối liên hệ giữa PTKT và MTST, hướng tới đề xuất các giải pháp để cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ MTST đảm bảo PTKT nhanh, bền vững trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa MTST với PTKT bền vững ở tỉnh Hải Dương. * Nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa MTST với PTKT. - Đánh giá tác động của PTKT đến MTST và vai trò của MTST đối với PTKT ở Hải Dương. - Luận giải những phương hướng, giải pháp bảo vệ MTST phục vụ PTKT bền vững ở Hải Dương. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa MTST với PTKT bền vững ở Hải Dương, trong đó nhấn mạnh sự tác động của PTKT đến MTST và sự cần thiết phải bảo vệ MTST để PTKT bền vững ở Hải Dương. * Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian: từ năm 1997 - 2020 - Phạm vi lãnh thổ: trên địa bàn tỉnh Hải Dương 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Phương pháp tiếp cận nghiên cứu: Quán triệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa MTST và PTKT, đồng thời vận dụng phép duy vật biện chứng, phương pháp lôgic - lịch sử để nghiên cứu các nội dung của đề tài. * Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: hệ thống hóa và xử lý tài liệu, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh… - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, điều tra, khảo sát, thu thập số liệu… 6. Đóng góp của luận văn 4 - Khái quát những vấn đề lý luận về MTST và vai trò của nó đến PTKT. - Phân tích, đánh giá những tác động của PTKT đến MTST ở Hải Dương. - Đánh giá hậu quả của ô nhiễm MTST đối với PTKT, qua đó đề ra những giải pháp giải quyết vấn đề MTST nhằm PTKT bền vững ở Hải Dương. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, quản lý kinh tế, giảng viên các trường đại học, cao đẳng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn có 3 chương, 9 tiết. Chƣơng 1: Môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế - cơ sở lý luận và kinh nghiệm ở một số địa phương. Chƣơng 2: Thực trạng môi trường sinh thái trong quá trình phát triển kinh tế ở Hải Dương. Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu giải quyết mối quan hệ giữa môi trường sinh thái với phát triển kinh tế bền vững ở Hải Dương. 5 Chƣơng 1 MÔI TRƢỜNG SINH THÁI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG 1.1. Môi trƣờng sinh thái 1.1.1. Khái niệm môi trường sinh thái Trên thế giới hiện nay, dù là nước đang phát triển hay phát triển, nước giàu hay nước nghèo thì một vấn đề chung đặt ra là làm thế nào để có mối quan hệ hài hòa giữa TTKT và BVMT. Bởi vì, muốn tăng trưởng phải khai thác, sử dụng nhiều tài nguyên, và phát thải cũng nhiều hơn, tất nhiên là không tránh được những tác động tiêu cực đến môi trường. Tại các nước đang phát triển, mối quan hệ giữa nghèo khổ và suy thoái môi trường đã tạo nên một vòng luẩn quẩn là: sống dựa nhiều vào nguồn lợi thiên nhiên, thiếu tri thức, thiếu vốn, thiếu công nghệ nên năng suất lao động thấp, sử dụng năng lượng và nguyên liệu với hiệu suất và hiệu quả thấp lại tốn nhiều tài nguyên và môi trường không xử lý được… Đã có nhiều báo cáo khoa học của các nước khác nhau nêu lên những vấn đề mới trên phạm vi toàn cầu liên quan đến các cơ chế điều tiết của sinh quyển như: lỗ hỏng tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính, tính ĐDSH bị suy giảm. Nhiều tổ chức quốc tế, nhiều nguyên thủ quốc gia và các nhà khoa học trên thế giới đã lên tiếng cảnh báo về mức độ nghiêm trọng, những chiều hướng xấu của vấn đề MTST đặc biệt là những vấn đề về sự biến đổi của môi trường, nguồn sống của loài người đang bị cạn kiệt, MTST bị hủy hoại. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về khái niệm “Môi trường sinh thái”. Để hiểu rõ hơn khái niệm “Môi trường sinh thái” chúng ta cần tìm hiểu một số khái niệm liên quan như: “môi trường”, “sinh thái”, “hệ sinh thái”. * Khái niệm môi trường Theo định nghĩa của UNESCO (năm 1981), “Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình và vô hình (tập quán, niềm tin…), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác TNTN và nhân tạo nhằm thỏa mãn nhau cầu của mình” [32, tr.11]. Luật Môi trường sửa đổi năm 2005 quan niệm: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời 6 sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” [34, tr.11]. Theo Từ điển Tiếng Việt, môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy [44, tr.790]. Còn theo quan niệm của tác giả Lê Huy Bá trong cuốn “Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững” được nhiều người đồng tình thì: “Môi trường là các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo, lý học, hóa học, sinh học cùng tồn tại trong một không gian bao quanh con người. Các yếu tố đó có quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau và tác động lên các cá thể sinh vật hay con người để cùng tồn tại và phát triển. Tổng hòa của các chiều hướng phát triển của từng nhân tố này quyết định chiều hướng phát triển của cá thể sinh vật của hệ sinh thái và của xã hội con người” [4, tr.7]. * Khái niệm sinh thái, hệ sinh thái Theo Từ điển Tiếng Việt, “sinh thái” là quan hệ giữa sinh vật, kể cả con người và môi trường; “sinh thái” là nhà ở, nơi cư trú, nơi sinh sống. Sinh vật và môi trường xung quanh thường xuyên có tác động qua lại với nhau tạo thành một đơn vị hoạt động thống nhất. Các sinh vật trong một đơn vị bất kỳ như thế sẽ gồm rất nhiều các loài sinh vật sinh sống và đó chính là quần xã sinh vật, chúng tương tác với môi trường vật lý bằng các dòng năng lượng và vật chất tạo nên cấu trúc dinh dưỡng và chu trình tuần hoàn vật chất giữa thành phần hữu sinh và vô sinh thì được gọi là “hệ sinh thái” [44, tr.791]. * Khái niệm môi trường sinh thái Theo Từ điển Tiếng Việt, MTST là toàn bộ các điều kiện vô cơ và hữu cơ của các hệ sinh thái ảnh hưởng đến đời sống của xã hội loài người [44, tr.790]. Còn theo Phạm Thị Ngọc Trầm, MTST bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể - bảo vệ con người. MTST là tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội [43, tr.16]. Từ các ý kiến trên, chúng tôi cho rằng: MTST là toàn bộ môi trường tự nhiên liên quan đến sự sống của con người và xã hội loài người. Nó là sản phẩm và cũng là điều kiện của quá trình sinh tồn của con người và các loài sinh vật khác trong mối quan hệ cộng sinh và quy định, chế ước lẫn nhau. Như vậy, có thể hiểu MTST là một chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ và 7 tương tác với nhau giữa điều kiện tự nhiên và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự rối loạn, bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một khâu, một yếu tố trong hệ thống, thông qua quá trình lao động, con người khai thác, bảo vệ, bồi đắp cho thiên nhiên. Do sự PTKT, môi trường tự nhiên bị đe dọa nghiêm trọng, phá hủy sự cân bằng sinh thái và để lại những hậu quả không lường được. Sự thay đổi của các nhân tố MTST có thể chia thành các nhân tố điều khiển được và các nhân tố không điều khiển được. Các nhân tố điều khiển được là sự gây ô nhiễm bầu khí quyển, nguồn nước, sự xói mòn đất và sự hủy diệt giới động thực vật… Những nhân tố không điều khiển được là loại đất, địa hình vùng, chế độ gió, chế độ nhiệt, tình hình động đất trên lãnh thổ…Việc tính đến các nhân tố không điều khiển được của môi trường cho phép xây dựng sát thực tế hơn các phương án PTKT chấp nhận được trên vùng lãnh thổ đã cho. Đối với các nhân tố điều khiển được của môi trường tự nhiên cần có các thông số kỹ thuật, kinh tế và xã hội cần thiết mới có thể xác định được mục tiêu tối ưu của các phương án. Bảo vệ MTST đã, đang và sẽ là vấn đề mang tính toàn cầu. Nội dung cơ bản của BVMT là: bảo vệ rừng và đảm bảo độ che phủ trên lãnh thổ, chống ô nhiễm không khí, nước và đất, giải quyết và tận dụng các phế thải, chống xói mòn, hoang mạc hóa đất đai, quản lý nơi cư trú cho các loài sinh vật, bảo vệ và chống sự tiêu diệt các loài sinh vật quý hiếm, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm TNTN. Muốn giải quyết tốt vấn đề MTST cần nắm được các khái niệm liên quan: * Bảo vệ môi trường: Là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho con môi trường, khai thác và sử dụng hợp lý và tiết kiệm TNTN. BVMT còn là tập hợp các biện pháp giữ gìn, bảo vệ, phục hồi, sử dụng một cách hợp lý môi trường sinh học, MTST; nghiên cứu, thử nghiệm các thiết bị, áp dụng các khoa học công nghệ, ít hoặc không có phế thải nhằm tạo ra cuộc sống tối ưu cho con người. * Tiêu chuẩn môi trường: Theo Luật BVMT của Việt Nam "Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép được quy định dùng làm căn 8 cứ để quản lý môi trường" [15]. * Ô nhiễm môi trường: là sự thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Chất gây ô nhiễm là những nhân tố làm cho môi trường trở thành độc hại [31]. - Ô nhiễm môi trường nước: là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước chủ yếu do con người gây ra, ảnh hưởng đến đời sống con người và sinh vật, ảnh hưởng đến sự PTKT - XH. - Ô nhiễm không khí: là sự biến đổi trong thành phần không khí làm cho nó không sạch, bụi, có mùi khó chịu. - Ô nhiễm đất: ô nhiễm đất xảy ra khi có mặt một số chất lạ và hàm lượng của chúng vượt quá khả năng chịu tải của đất. - Ô nhiễm tiếng ồn: âm thanh gây nên do những rung động trong không khí gây kích thích cảm giác nghe. Ô nhiễm tiếng ồn thường do các phương tiện giao thông, các máy móc hoạt động trong sản xuất, sinh hoạt. * Chất gây ô nhiễm: là những chất làm cho môi trường trở thành độc hại. Khi đó môi trường không những mất hết những giá trị của mình mà còn trở thành độc hại đối với con người và sinh vật. * Chất thải rắn: là vật liệu ở dạng rắn (từ thực phẩm không còn sử dụng được, các loại thải rắn như bao bì, chai lọ, các loại vôi, gạch vụn từ công trình xây dựng…) bị loại bỏ thường có nguồn gốc từ các khu thương mại, dân cư, nhà máy, trong sản xuất nông nghiệp. * Chất thải nguy hại: là loại chất thải có nồng độ độc tố cao, có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. * Tai biến môi trường: Là quá trình gây hại vận hành trong hệ thống môi trường. Quá trình tai biến phản ánh tính nhiễu loạn, tính bất ổn của hệ thống. Tai biến môi trường thường có 2 loại: - Loại cấp diễn: xảy ra nhanh, mạnh, đột ngột và cũng nhanh chóng kết thúc, được xen kẽ một khoảng thời gian dài bình yên như: động đất, sóng thần, bão, lũ lụt… - Loại trường diễn: xảy ra chậm, trường kỳ như sa mạc hóa, nhiễm mặn đất ven biển… [31]. * Suy thoái môi trường: sự thay đổi chất lượng và số lượng của thành phần môi trường; gây ảnh hưởng xấu đến đời sống con người và thiên nhiên. * Sự cố môi trường: là những tai biến, rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt 9 động của con người hoặc những biến đổi bất thường của thiên nhiên gây ra suy thoái môi trường. * Công nghệ sạch: là quy trình công nghệ hoặc giải pháp kỹ thuật không gây ONMT, thải hoặc phát thải ra ở mức thấp nhất chất gây ra ONMT. * Kiểm soát ô nhiễm: là việc thực hiện tất cả các hoạt động nhằm làm cho môi trường nói chung, các thành phần môi trường nói riêng không bị ô nhiễm hoặc nếu có bị ô nhiễm thì có thể chủ động khắc phục được [34]. Qua các khái niệm trên có thể thấy quá trình PTKT gắn với BVMT là việc sử dụng hợp lý các nguồn lực (đặc biệt là TNTN) bằng các biện pháp, công cụ, phương tiện… làm cho nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài với CCKT hợp lý, phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm để bảo vệ MTST, hướng tới PTBV. 1.1.2. Phát triển bền vững và vai trò của môi trường sinh thái đối với phát triển bền vững 1.1.2.1. Khái niệm về phát triển, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế Thuật ngữ "phát triển" đã được sử dụng quen thuộc trên các phương tiện thông tin, trong các công trình nghiên cứu khoa học và trong cuộc sống hàng ngày. Phát triển là một xu hướng tự nhiên đồng thời cũng là quyền của mỗi cá nhân hay mỗi quốc gia. Con người vừa là đối tượng, vừa là động lực của phát triển. Mục tiêu của phát triển là không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần của con người. * Phát triển là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa. Phát triển là xu hướng tự nhiên của mỗi cá nhân hoặc cộng đồng của con người [11, tr.208]. * TTKT là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định [12, tr.38]. Theo lý thuyết TTKT hiện đại, các yếu tố tác động đến tăng trưởng bao gồm nguồn lao động, vốn sản xuất, TNTN và khoa học công nghệ. TTKT trước hết thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó TTKT là tiền đề vật chất để giải quyết tình trạng đói nghèo và hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội khác. Vì thế, TTKT nhanh là mục tiêu theo đuổi của các quốc gia. 10 * Phát triển kinh tế: là sự TTKT gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội [12, tr.44]. Như vậy, TTKT chưa phải là PTKT. Tăng trưởng mới chỉ là điều kiện cần để PTKT. Điều kiện đủ của PTKT là trong quá trình TTKT phải đảm bảo được tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu và đảm bảo TTKT trong tương lai. 1.1.2.2. Phát triển bền vững và vai trò của môi trường sinh thái đối với phát triển bền vững Có thể nói rằng, mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác đều không thể đình chỉ tiến hóa và ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. PTBV là một khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc khủng hoảng môi trường, do đó, cho đến nay chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và thống nhất. Dưới đây là một số định nghĩa về PTBV: - Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết PTBV, nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên, BVMT một cách khoa học đồng thời với sự PTKT. - PTBV là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai [6, tr.23]. Định nghĩa này bao gồm 2 nội dung then chốt: các nhu cầu của con người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường đáp ứng các nhu cầu hiện tại và tương lai của con người. - PTBV là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng dụng hợp lý và phát triển các nguồn TNTN để phục vụ cho nhu cầu của con người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau [30, tr.17]. Tuy nhiên, định nghĩa được sử dụng nhiều hơn cả trong các nghiên cứu về PTBV là định nghĩa của Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) đưa ra năm 1987: "PTBV là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Định nghĩa này được mở rộng ra với 3 cấu thành về sự PTBV: + Về kinh tế: một hệ thống bền vững về kinh tế phải thể hiện ở sự tăng 11 trưởng và phát triển lành mạnh của các ngành kinh tế đặc biệt là các ngành kinh tế liên quan đến sử dụng TNTN, có thể tạo ra hàng hóa và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ về nợ bên ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến mỗi ngành sản xuất. + Về xã hội: hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công bằng trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm: y tế, giáo dục…, công bằng giới tính, sự tham gia và trách nhiệm chính trị cho mọi người, đảm bảo sức khỏe, giảm đói nghèo, hạn chế các tệ nạn xã hội. + Về môi trường: hệ thống PTBV thể hiện ở sử dụng hợp lý TNTN, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những vận động tiềm ẩn của môi trường. Việc khai thác các nguồn lực không thể tái tạo không được vượt quá mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao gồm việc duy trì ĐDSH, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác mà thường không được coi như các nguồn lực kinh tế, hạn chế ONMT, có chính sách và kế hoạch hành động cải thiện môi trường. Như vậy, "PTBV là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thể hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa TTKT, đảm bảo tiến bộ xã hội và BVMT" [32, tr.7]. BVMT là một trong 3 thành tố hay trụ cột của PTBV ở bất kỳ quốc gia nào trong thế giới đương đại và tương lai. Trong thời đại ngày nay, BVMT và PTBV không còn là vấn đề riêng của một quốc gia, một khu vực mà đã thực sự trở thành mối quan tâm toàn cầu. Thực tế cho thấy tính nguy cấp, phức tạp và nan giải của các vấn đề môi trường đang đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá đúng đắn vai trò của môi trường trong quá trình thực hiện PTBV. Có thể nói môi trường và PTBV là một vấn đề có tính cấp thiết liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và xuyên suốt nhiều thời đại. Quản lý môi trường, bảo vệ, cải thiện môi trường, sử dụng hợp lý các yếu tố môi trường và các điều kiện thuận lợi của môi trường nhằm phục vụ sự tồn tại và PTKT - XH loài người là những nội dung quan trọng trong hoạt động hiện nay và mai sau của toàn nhân loại. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã đặt PTBV trên cơ sở nâng cao, cải thiện chất lượng sống của con người theo phạm vi, khả năng chịu được của các hệ sinh thái. Đó là mục tiêu về PTBV, chỉ tiêu đánh giá cho quá trình PTKT - 12 XH của mỗi quốc gia trên thế giới. PTKTBV là bộ phận cấu thành quan trọng của PTBV ở mỗi quốc gia hiện nay. Đó là sự biến đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng của nền kinh tế gắn với việc đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội và sử dụng hợp lý tài nguyên, BVMT. Như vậy, nội dung cơ bản của PTKTBV bao gồm: đạt mức tăng trưởng tương đối cao và ổn định, với cơ cấu kinh tế hợp lý và tiến bộ, sử dụng nguồn lực tiết kiệm và hiệu quả. Để đảm bảo PTKTBV cần chú ý những vấn đề sau: Thứ nhất, TTKT hợp lý, có chất lượng cao và duy trì trong khoảng thời gian dài. Thứ hai, TTKT gắn với việc hình thành CCKT và chuyển dịch CCKT theo xu hướng phát triển một cách hợp lý được thể hiện bằng tỷ lệ % đóng góp vào GDP của các ngành kinh tế đất nước. Thứ ba, PTKT với việc duy trì sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế đất nước. Đó là những cân đối cần quan tâm của đất nước như: đầu tư và tiêu dùng, đầu tư trong nước và ngoài nước. Thứ tư, sự lan tỏa của TTKT đến các vấn đề xã hội, dẫn đến xóa đói, giảm nghèo và công bằng xã hội. Việt Nam đang thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành CNH , HĐH trên quan điểm PTBV với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan điểm PTBV của Việt Nam đã được thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội Đảng IX, về chiến lược PTKT - XH giai đoạn 2001 - 2010, theo đó PTBV của Việt Nam là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường ", "Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" [26, tr.162-163]. Đến Đại hội Đảng XI, trong chiến lược PTKT - XH giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định: “phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược… Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu” [28, tr.98-99]. 1.2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với môi trƣờng sinh thái 1.2.1. Tác động của môi trường sinh thái đối với phát triển kinh tế 13 Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, đã có một thời PTKT được đặt lên hàng đầu, được ưu tiên số một trong các chính sách của chính phủ, thậm chí lấn át các yếu tố khác như xã hội, môi trường. Người ta cho rằng, khi kinh tế đã phát triển thì có thể dùng nguồn lực kinh tế để khắc phục những vấn đề tài nguyên, môi trường và xã hội. Đã có những giai đoạn, khuynh hướng “phát triển với bất cứ giá nào” đã gây ra những hậu quả nặng nề cho văn hóa, xã hội, môi trường mà nhiều quốc gia phát triển đến nay vẫn còn phải khắc phục. Trong thời điểm hiện nay, cuộc chạy đua PTKT giữa các quốc gia, các khu vực kinh tế trên thế giới đang diễn ra gay gắt thì khuynh hướng phát triển với bất cứ giá nào vẫn được tôn sùng đặc biệt trong các quốc gia đang phát triển. Người ta có thể hy sinh các yếu tố khác như chênh lệch giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong xã hội, suy thoái về đạo đức, lối sống hay thậm chí hy sinh cả môi trường để PTKT. Sự khát khao PTKT với bất cứ giá nào đã mang lại hậu quả là môi trường bị suy thoái, tài nguyên tái tạo và không tái tạo bị khai thác quá mức dẫn đến những nền tảng cho PTKT bị yếu kém, thu hẹp. Bên cạnh đó, dân số ngày càng tăng lên gây nên sự nghèo khổ cùng cực của con người. Với những nước nghèo như Việt Nam mà cuộc sống của người dân còn bị phụ thuộc chính vào khai thác các loại TNTN thì tính bền vững về sinh thái và kinh tế cũng quan trọng như tính bền vững về xã hội trong quá trình phát triển. Cũng vì vậy, nếu sự phá hủy môi trường, làm tổn hại đến các hệ sinh thái, cơ sở cho sự sinh trưởng của các sản lượng sinh học như đất, nước, các quần thể động thực vật, rừng, biển và bờ biển với nhịp điệu như hiện nay thì sự PTBV không thực hiện được. Ngược lại với khuynh hướng trên là khuynh hướng "tăng trưởng bằng không hoặc âm” để bảo vệ các nguồn tài nguyên hữu hạn hoặc chủ trương không sử dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo để bảo vệ chúng, nhưng quan điểm này là không tưởng nhất là đối với các nước đang phát triển, vì nguồn TNTN mãi mãi vẫn là nguồn vốn cơ bản để PTKT. Các nước phát triển ngày nay thường hạn chế khai thác tài nguyên trong nước, thay vào đó là tăng cường khai thác tài nguyên ở các nước đang phát triển thông qua các dự án đầu tư hoặc nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng hóa. Như vậy, PTKT và môi trường không phải là 2 vấn đề đối kháng nhau đối với một quốc gia phát triển. Tại Hội nghị Môi trường toàn quốc ngày 22/4/2005 tại Hà Nội, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhận định: "Đây là thời điểm mà BVMT đang trở thành vấn đề thời sự của toàn cầu. Kinh nghiệm cho thấy, những 14 quốc gia đi theo con đường hy sinh môi trường để PTKT đều phải trả giá đắt. Vì sự trường tồn của Trái đất - Ngôi nhà chung của chúng ta, vì lợi ích của mỗi quốc gia và lợi ích của mỗi người dân chúng ta, chúng ta phải không ngừng nâng cao tính bền vững của quá trình phát triển” [37]. Ở Việt Nam, trải qua hơn 20 năm đổi mới đã thể hiện được tính đúng đắn của đường lối phát triển. Kinh tế tăng trưởng liên tục, xã hội ổn định, chúng ta là một trong những quốc gia tích cực tham gia vào công tác BVMT, duy trì và bảo vệ các nguồn TNTN, tham gia nhiều công ước quốc tế trong lĩnh vực BVMT, ĐDSH và PTBV. Chúng ta đã xây dựng "Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam" với những mục tiêu chính là đáp ứng những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đảm bảo sự phát triển hài hòa cả 3 mặt: kinh tế, xã hội, môi trường. Mối quan hệ giữa PTKT và BVMT ở nước ta đã được khẳng định tổng quát trong Chỉ thị số 36 CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: "BVMT là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và các kế hoạch PTKT - XH của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng đảm bảo PTBV, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước" [9]. Để PTBV chúng ta vừa phải đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân đồng thời lại phải bảo toàn được hệ sinh thái và ĐDSH. Con người chính là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của thế giới chúng ta và sự bảo toàn các hệ sinh thái là một phần trong những cố gắng lớn lao để đảm bảo cuộc sống cả loài người. Bất cứ một kế hoạch BVMT thực sự nào cũng đều phải bao gồm những biện pháp kinh tế nhằm xóa đói, giảm nghèo vì nạn đói nghèo là một trong những nguyên nhân chính phá hoại môi trường. Có thể nói PTKT phải gắn với BVMT và BVMT để tạo nguồn lực cho PTKT là mục tiêu của mỗi quốc gia. 1.2.1.1. Tác động tích cực của môi trường sinh thái đối với phát triển kinh tế - Môi trường là sinh thái, sinh quyển cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người. Trong hoạt động sống của mình, con người cần phải có một không gian sống nhất định như: nhà để ở, nơi nghỉ ngơi, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm sản, thủy sản... Trung bình mỗi ngày, mỗi người đều cần khoảng 4m3 không khí sạch để hít thở, 2,5 lít nước để uống và với một lượng lương thực, thực phẩm tương ứng với 2000 - 2400 kcal. Như vậy, chức năng này đòi hỏi môi trường phải có một phạm vi không gian thích hợp cho mỗi người. Tuy nhiên, lịch sử loài 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất