Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa văn hóa chăm và văn hóa mã lai thông qua lễ raja praong và mak ...

Tài liệu Mối quan hệ giữa văn hóa chăm và văn hóa mã lai thông qua lễ raja praong và mak yong

.PDF
305
1
97

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯƠNG VĂN MÓN MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA CHĂM VÀ VĂN HOÁ MÃ LAI THÔNG QUA LỄ RAJA PRAONG VÀ MAK YONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯƠNG VĂN MÓN MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA CHĂM VÀ VĂN HÓA MÃ LAI THÔNG QUA LỄ RAJA PRAONG VÀ MAK YONG Chuyên ngành: DÂN TỘC HỌC Mã số: 62227001 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1.PGS. TS THÀNH PHẦN 2.TS. BÁ TRUNG PHỤ Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 DẪN LUẬN BẢN CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, toàn bộ những nội dung của luận án này do chính tác giả thực hiện. Nếu có ai thắc mắc, khiếu nại về bản quyền của luận án này tác giả xin chịu trách nhiệm trước hội đồng bảo vệ. Tp. Hồ Chí Minh ngày 01/04/2012 Người cam đoan NCS. TRƯƠNG VĂN MÓN BẢN ĐỒ CHAMPA VÀ THẾ GIỚI MÃ LAI (THẾ KỶ II- XIX) Nguồn: Tư liệu Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Kuala Lumpur, Malaysia,1999. MỤC LỤC DẪN LUẬN Trang 1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………01 2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………...01 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề…………………………………………………….02 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………….09 5. Câu hỏi nghiên cứu…………………………………………………………….10 6. Giả thuyết nghiên cứu…………………………………………………………10 7. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………....11 8.Nguồn tư liệu…………………………………………………………………....12 9. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn………………………………………………...16 10. Đóng góp của luận án………………………………………………………...17 11.Khung phân tích…………………………………………………………….....19 12. Bố cục luận án………………………………………………………………...19 13. Những thuận lợi và khó khăn………………………………………………..20 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỐNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA CHĂM VÀ VĂN HOÁ MÃ LAI 1.1. Cơ sở lý luận.....………...…………………………………………………….22 1.1.1.Những khái niệm...……………………………………………………......22 1.1.2. Lý thuyết nghiên cứu …………………………………………………….28 1.1.2.1.Thuyết loại hình kinh tế- văn hoá và khu vực văn hoá – lịch sử..........29 1.1.2.2. Thuyết chức năng và cấu trúc………………………………………..31 1. 2. Tổng quan về mối quan hệ giữa văn hóa Chăm và văn hoá Mã Lai.........40 1.2.1. Nguồn gốc chủng tộc…..………………………………….…………......40 1.2.2.Ngôn ngữ…………………………………………………………............42 1.2.3. Lịch sử….…………………………………………………………..........43 1.2.4. Văn hóa...……………………………………………………..................46 1.3. Tiểu kết...……………………………………………………………………...72 CHƯƠNG 2 LỄ RAJA PRAONG VÀ LỄ MAK YONG: MIÊU TẢ DÂN TỘC HỌC 2.1. Lễ Raja Praong của người Chăm …………………………………..............74 2.1.1.Nguồn gốc và bối cảnh ra đời ……..………..………………………….....75 2.1.2.Truyền thuyết …………………………………………………………......76 2.1.3. Khái niệm ………………………………………………………………...79 2.1.4. Tên gọi ………..…….………………………………………………........79 2.1.5. Mục đích……….……...……………………………………………….....80 2.1.6. Địa điểm tổ chức và bước chuẩn bị cho nghi lễ.....………………………81 2.1.7. Những điều kiêng cữ.……………..………………………………………82 2.1.8. Lễ vật dâng cúng …………………………………………………………82 2.1.9. Các vị thần cầu cúng..…………………………………………………….83 2.1.10. Diễn trình nghi lễ.………………………………………………….........83 2.2. Lễ Mak Yong của người Mã Lai....……………………………………….....96 2.2.1.Nguồn gốc hình thành và phát triển của lễ..……...…………………….....97 2.2.2.Truyền thuyết …………….………………………………………............99 2.2.3. Khái niệm….………….………………………………………………....100 2.2.4.Tên gọi …………..……………………………………………………....100 2.2.5.Mục đích ...………………………………………………………………101 2.1.6. Địa điểm tổ chức và bước chuẩn bị nghi lễ……...……………………...101 2.1.7. Những điều kiêng cữ…………………………………………………….102 2.1.8. Lễ vật dâng cúng ………………………………………………………..103 2.1.9. Các vị thần cầu cúng ……………………………………………………103 2.1.10. Diễn trình nghi lễ..…….………………………………………….........103 2. 3.Tiểu kết ….......................................................................................................113 CHƯƠNG 3 MỐI QUAN HỆ GIỮA LỄ RAJA PRAONG VÀ MAK YONG QUA CÁCH NHÌN SO SÁNH 3.1. Nguồn gốc và ngữ nghĩa của từ Raja Praong và Mak Yong……………..116 3.2. Thành phần tham gia nghi lễ.......…………………………………….…....117 3.3. Sự kiện mở đầu nghi lễ……………………………………………………..123 3.4. Cấu trúc nghi lễ...…………………………………………….......................124 3.4.1. Nghi lễ và huyền thoại (truyền thuyết) ………………………….……...124 3.4.2. Mục đích lễ Raja Praong và Mak Yong..…………………………….....126 3.4.3. Diễn trình lễ Raja Praong và Mak Yong……...…………………….…..127 3.4.4. Những người hành lễ trong lễ Raja Praong và Mak Yong.……………..129 3.4.5. Tín ngưỡng trong lễ Raja Praong và Mak Yong.……………………….132 3.4. 6. Ẩm thực trong nghi lễ..…………………………………………………149 3.4. 7. Trang phục trong nghi lễ..………………………………………………151 3.4. 8. Âm nhạc và múa trong nghi lễ.….……………………………………...153 3.4. 9. Kịch dân gian trong nghi lễ.…..………………………………………..158 3.4.10. Những biểu tượng trong lễ Raja Praong và Mak Yong.……….............160 3.5. Sự kiện kết thúc lễ.............................……………………………………...164 3.6. Tiểu kết..............................................……………………………………....165 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Những nhận định chung về giá trị văn hóa - lịch sử......................................168 2. Khuyến nghị và giải pháp……...……………..................................................175 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu tiếng Việt...............................................……………………………...183 2. Tài liệu tiếng nước ngoài........................................…………………………..190 3. Tài liệu tiếng Chăm..............................................………………………….....204 PHỤ LỤC Phụ lục 1. Văn bản Chăm về lễ Raja Praong…….............................................214 Phụ lục 2. Danh mục các điệu trống trong lễ Raja Praong và Mak Yong.......223 Phụ lục 3. Danh mục khảo sát lễ Raja Praong và cộng tác viên.......................226 Phụ lục 4. Biên bản phỏng vấn............................................................................237 Phụ lục 5. Bảng so sánh hệ thống nghi lễ của người Chăm và Mã Lai..........268 Phụ lục 6. Một vài hình ảnh lễ Raja Praong và Mak Yong.......................278-290 BẢNG 1: CHỮ VIẾT TẮT Số TT 1 Chữ viết tắt Từ nguyên Ar Ả Rập BEFEO Bulletin Ecole Francaise d’Extreme Orient (Thông báo của Viện Viễn Đông Pháp) 2 CAM Kí hiệu văn bản Chăm của Viện Viễn Đông Pháp. 3 EFEO Ecole Francaise d’Extreme Orient (Viện Viễn Đông Pháp) ĐNA Đông Nam Á 4 KL Kuala Lumpur 5 KHXH Khoa học xã hội 6 Mal Mã Lai 7 Nxb Nhà xuất bản 8 Skr Sanskrit (Phạn ngữ) 9 UNESCO United-Nations- Educational, Scientific, and –CulturalOrganization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc) 10 VHDT Văn hóa Dân tộc 11 Vol Volume (Tập). 12 VMST Văn bản Chăm do Văn Món sưu tầm BẢNG 2: QUY ƯỚC THỐNG NHẤT CÁCH VIẾT DANH TỪ -THUẬT NGỮ Bảng 2.1: Quy ước thống nhất cách viết các danh từ/thuật ngữ thông dụng trong văn hoá Champa Số TT Danh từ / thuật ngữ Champa Cách viết thống nhất trong luận án Giải thích 1 Cam/Chăm/ Chàm Chăm dân tộc Chăm 2 Champa/Campa/Chiêm Champa quốc gia Champa cổ. Chăm Ahier Nhóm Chăm ảnh hưởng Thành 3 Chăm Ahier/ Chăm Cuh/ Bàlamôn giáo ở Ninh – Chăm Bàlamôn/ Bình Thuận. 4 Chăm Awal/Bini/Bani Chăm Awal Nhóm Chăm ảnh hưởng Hồi giáo ở Ninh – Bình Thuận. 5 Chăm Islam/ Chăm Hồi/ Chăm Islam Chăm Hồi giáo ở Ninh Chăm Hồi giáo/ Chăm Thuận, Tây Ninh, ĐEồng Barau/Birow Nai, Tp Hồ Chí Minh, An Giang,. 6 Kadhar/ thầy Kanhi/thầy Kadhar Một chức sắc Chăm (đàn ông) thường biểu diễn đàn Cò ke... Rabap (kanyi) và hát các bài thánh ca trong nghi lễ. 7 Ka –ing/ Ka-in Ka-ing Một nghệ nhân (đàn ông) chuyên múa lễ trong các lễ Raja của người Chăm Ahier và Chăm Awal. 8 Maduen/Madôn/Mưduôn Maduen Một chức sắc Chăm (đàn ông) chuyên vỗ trống Baranang và hát bài thánh ca trong lễ Raja cho cả cộng động Chăm Ahier và Awal. 9 Muk Raja (bà Raja)/vũ Muk Raja Phụ nữ được tộc họ cử ra để giữ “Ciét Atau” – vật sư/ bà vũ nữ thiêng và cũng là biểu tượng cho hương hồn tổ tiên của tộc họ. Muk Raja thường cúng lễ và múa trong lễ Raja Praong. 10 Po Gru/ Cả sư Po Gru Thường gọi là Cả sư (đàn ông) – một chức sắc cao nhất trong hàng ngũ tu sĩ của người Chăm Awal chuyên điều hành các lễ nghi của người Chăm Awal. 11 Po Acar/ Achar/ thầy Chan Po Acar Chức sắc (đàn ông) thấp nhất trong hàng ngũ tu sĩ Chăm Awal, chuyên phục vụ lễ nghi cho cộng đồng Chăm Awal và Chăm Ahier theo sự phân công của Po Gru. 12 Po Adhia/ Po Dhia/Cả sư Po Adhia Chức sắc (đàn ông) có cấp bậc cao nhất trong hàng ngũ tu sĩ Chăm Ahier chuyên phục vụ các lễ đám tang, lễ nhập kut và lễ nghi ở đền tháp của người Chăm Ahier. 13 Po Basaih/Baséh/paséh Basaih Chức sắc (đàn ông) có cấp bậc thấp trong hàng ngũ tu sĩ Chăm Ahier, chuyên phục vụ lễ nghi cho cộng đồng Chăm Ahier theo sự phân công của Po Adhia. 14 Po Yang /Yang Yang 15 Yang Aklak/ Yang Klak/ Yang Aklak Yang Bimong Thần Thần cũ, vị thần Chăm ảnh hưởng Bàlamôn được thờ cúng ở đền tháp. 16 Yang Barau/Yang Biraw/ Yang Barau Vị thần của Hồi giáo hoặc Yang/Barou những vị thần Chăm nhưng ảnh hưởng Hồi giáo được cúng tế trong lễ Raja và trong thánh đường. Bảng 2.2: Quy ước thống nhất cách viết các danh từ- thuật ngữ thông dụng trong văn hoá Mã Lai Số TT 1 Danh từ- thuật ngữ Mã Từ sử dụng thống Lai nhất trong luận án Allah/Alla Alla Giải thích Thượng đế tối cao của Hồi giáo. 2 Awluah/Âuluah/Aulaoh Awluah Danh từ Chăm chỉ thượng đế Alla của Hồi giáo. 3 Islam/ Hồi /Hồi giáo Hồi giáo Hồi giáo. 4 Kalantan/Kelantan Kelantan Tiểu bang Kelantan của Mã Lai. 5 Qur’an/ Kuran/ Koran Koran Kinh Koran của Hồi giáo. 6 Mak Yong/Muk Mak Yong Phụ nữ múa bóng, lên đồng trong lễ Mak Yong. Yong/Ma’Yong/Mok Yang/Bomoh 7 Mindok/Minduk Mindok Ông nghệ nhân kéo đàn Rebab. 8 Rebab/ Rabap Rebab Loại đàn 3 dây có cần kéo giống như đàn nhị. 9 Serunai/Surunai Serunai Kèn thổi bằng hơi làm bằng gỗ dài khoảng 30 cm có 7 lỗ dùng để điều khiển âm thanh. 10 Pa’Yong/Pak Yong Pak Yong Nhân vật (nam/nữ) đóng vai hoàng tử trong lễ Mak Yong. 11 Putera/Putra Putra Hoàng tử 12 Puteri/Putri/Main Puteri Putri Công chúa, nhân vật múa bóng, lên đồng trong lễ Putri và Mak Yong. 1 DẪN LUẬN 1. Lý do chọn đề tài Người Chăm và người Mã Lai là hai tộc người cùng ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo (Malayo – Polynesia) có mối quan hệ gần gũi lâu đời về lịch sử và văn hóa. Trong những năm gần đây, nhiều công trình sách báo viết về người Chăm đã xuất bản nhưng chủ yếu chỉ bàn về văn hóa Chăm ảnh hưởng Ấn Độ, còn mối quan hệ giữa văn hóa Chăm và văn hoá Mã Lai chưa được đề cập một cách toàn diện. Hiện nay, bên cạnh sự ảnh hưởng Ấn Độ, văn hóa Chăm ở Ninh – Bình Thuận (Panduranga) còn lưu giữ nhiều nghi lễ, hội hè, trong đó có lễ Raja Praong chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa Mã Lai khác hẳn với các lễ nghi ở đền tháp Chăm ảnh hưởng Ấn Độ. Tuy nhiên, khi bàn về nguồn gốc và nội dung của nghi lễ này các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều nhận định khác nhau chưa thống nhất. Có tác giả cho rằng, lễ Raja Praong là nghi lễ bản địa hoặc lễ nghi có nguồn gốc Ấn Độ. Ngược lại, cũng có tác giả cho rằng, lễ Raja Praong có nguồn gốc từ lễ Mak Yong của người Mã Lai. Đó là những vấn đề đang còn nhiều tranh luận giữa các nhà nghiên cứu. Hơn nữa, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hoá Chăm và văn hoá Mã Lai, các nhà khoa học thường chỉ bàn về nguồn gốc tộc người, ngôn ngữ và một vài sự kiện lịch sử, còn về mảng văn hóa, nhất là về lễ nghi, hội hè chưa được nghiên cứu sâu sắc. Trong khi đó, lễ Raja Praong của người Chăm và lễ Mak Yong của người Mã Lai phải chăng có mối quan hệ với nhau nhưng đang có xu hướng biến mất, chưa ai nghiên cứu cũng như có kế hoạch để bảo tồn hai nghi lễ này. Chính vì những lý do trên chúng tôi chọn đề tài này làm luận án tiến sĩ. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu luận án này nhằm làm rõ những vấn đề sau đây: Làm rõ lý thuyết loại hình kinh tế -văn hoá và khu vực văn hoá – lịch sử của MG. Lêvin và NN. Trêbốcxarốp trong việc xem xét mối tương đồng và khác biệt trong nền văn hoá Chăm và văn hoá Mã Lai. Làm rõ lý thuyết chức năng của Bronislaw Malinowski và thuyết cấu trúc của Claude Lévi Strauss trong trường hợp 2 nghiên cứu so sánh về hai nghi lễ Raja Praong và lễ Mak Yong trong Dân tộc học/Nhân học. Làm rõ nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa cũng như mối quan hệ giữa lễ Raja Praong với lễ Mak Yong, từ đó góp thêm tư liệu làm rõ mối quan hệ giữa văn hoá Chăm và văn hoá Mã Lai. Làm rõ văn hóa Chăm chỉ ảnh hưởng Ấn Độ từ thế kỷ II – XV, còn sau thế kỷ XV –XIX, bên cạnh văn hóa bản địa, tàn dư Ấn giáo, văn hoá Chăm còn ảnh hưởng văn hóa Mã Lai. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu người Pháp đã bắt tay nghiên cứu lịch sử, tôn giáo, kiến trúc Chăm như E. Aymonier (1890), A. Cabaton (1901), L. Pinot (1901), M. Durand (1903), G. Maspero (1928)... Trong đó, đáng chú ý nhất là cuốn Le Royaume de Champa [Vương quốc Champa] của G. Maspero. Dựa vào những nguồn tư liệu Trung Quốc và bia ký Phạn ngữ Chăm, G. Maspero đã nghiên cứu lịch sử Champa từ thế kỷ II sau công nguyên đến năm 1471 và cho rằng sau năm 1471 khi Vijaya – kinh đô Champa ở Bình Định bị thất bại trước sự tấn công của Đại Việt thì Champa không còn tồn tại như một quốc gia nữa. Về phía Đại Việt cũng quan niệm tương tự như vậy, do đó từ khi kinh đô Vijaya – Champa sụp đổ trở về sau tư liệu Đại Việt không đề cập đến Champa. Mãi đến thế kỷ XVI (1558-1786), sách Đại Nam thực lục tiền biên mới đề cập lại đến Champa. Tiếp tục những công trình nghiên cứu trên, những nhà nghiên cứu người Pháp sau này đã cố gắng nghiên cứu lại lịch sử Champa và gắn mối quan hệ giữa Champa với thế giới Mã Lai - Đa Đảo. Người đầu tiên đi tiên phong trong lĩnh vực này phải kể đến D. Lombard. Vào năm 1987, tác giả bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa Champa ở phía Nam với thế giới Mã Lai – Đa Đảo, đặc biệt là Jawa từ thế kỷ VII – XVII [170]. Cũng giống như L.Y. Manguin, tác giả D. Lombard đã nhấn mạnh sau năm 1471 Champa vẫn còn tiếp tục tồn tại như một quốc gia bị lệ thuộc vào nhà Nguyễn. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu ấy chỉ nhấn mạnh đến sự ly tán của người Chăm đến các quốc gia thuộc thế giới Mã Lai – Đa Đảo và nhấn 3 mạnh đến mối quan hệ về nguồn gốc dân tộc hơn là mối quan hệ giữa văn hoá Chăm và văn hoá Mã Lai. Tiếp tục lý thuyết của L.Y. Manguin và D. Lombard, tác giả Po Dharma đã xuất bản một công trình nghiên cứu mang tên Le Panduranga (Campa):1802-1835, vào năm 1987 ở Pháp. Công trình này đã đưa ra nhiều vấn đề mới của lịch sử Champa kể từ sau 1471. Bằng nguồn văn bản chữ Chăm đang lưu trữ tại Thư viện EFEO, biên niên sử Đại Việt và tư liệu châu Âu, tác giả Po Dharma đã chứng minh rằng sau 1471, khi thành Vijaya - kinh đô Champa bị thất thủ thì Champa vẫn còn tồn tại ở Việt Nam như là một quốc gia độc lập nhưng lệ thuộc vào triều đình nhà Nguyễn cho đến năm 1832. Từ kết quả nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu EFEO tại Kuala – Lumpur bắt đầu mở rộng nghiên cứu lịch sử và văn hóa Chăm từ sau thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho đến nay nhóm này vẫn chưa nghiên cứu toàn diện về mối quan hệ giữa văn hóa Chăm và văn hoá Mã Lai mà chỉ mới bắt đầu nghiên cứu về lịch sử và văn chương của người Chăm và người Mã Lai với những tác phẩm tiêu biểu như Akayét Dewa Mano, Akayét Inra Patra [209, 210], còn vấn đề phong tục tập quán, nghi lễ, hội hè... vẫn là lĩnh vực còn đang bỏ ngỏ. Sau năm 1975, các học giả Việt Nam khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á cũng đề cập đến văn hóa Chăm như Cao Xuân Phổ (1993), Phạm Đức Dương (1996), Nguyễn Duy Thiệu (1997), Mai Ngọc Chừ (1999), Nguyễn Quốc Lộc (2007), Nguyễn Tấn Đắc (2010)... Cụ thể như sau: Cao Xuân Phổ (1993) và Phạm Đức Dương (1996) là hai tác giả có nhiều bài viết về Việt Nam và Đông Nam Á, trong đó có đề cập sơ lược đến mối quan hệ giữa văn hoá Chăm và văn hoá Mã Lai bên cạnh văn hoá người Việt (Kinh) với văn hóa các nước Đông Nam Á [22, tr. 191-205], [57, tr. 49]. Nguyễn Duy Thiệu (1997), trong cuốn Các dân tộc ở Đông Nam Á cũng có đề cập đến văn hoá Chăm gần 1 trang (tr. 287) trong phần bàn về ngôn ngữ và không gian cư trú của tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam. 4 Mai Ngọc Chừ (1999), với Văn hóa Đông Nam Á có nêu một vài ví dụ về văn hóa Chăm để so sánh với lịch sử và văn hóa các nước Đông Nam Á, trong đó có đề cập sơ lược về lễ Raja của người Chăm [7, tr.161, 171, 178 và 211]. Nguyễn Quốc Lộc (2007), Góp phần nghiên cứu dân tộc Đông Nam Á có đề cập sơ lược về các dân tộc ở phía Nam Việt Nam, trong đó có viết về Chăm Hroi (tr. 138-142) và Chăm ở Tp. Hồ Chí Minh (tr. 216-226) nhưng thiếu vắng văn hoá Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận, một bộ phận rất quan trọng để góp phần nghiên cứu Đông Nam Á. Nguyễn Tấn Đắc (2010), Văn hóa Đông Nam Á đã đề cập đến một bức tranh rộng lớn về văn hóa Đông Nam Á.Trong sách này tác giả không đề cập đến văn hoá Chăm nhưng chỉ có đăng bảng mẫu tự tiếng Chăm khoảng 5 trang (tr. 82-87) để làm so sánh với một vài mẫu tự chữ viết của các dân tộc khác ở Đông Nam Á. Đó là những công trình nghiên cứu điển hình về mối quan hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á. Mặc dù tất cả những công trình nêu trên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa văn hoá Chăm với văn hoá Đông Nam Á nhưng đó chính là nguồn tư liệu ban đầu quý giá, mở đường cho chúng tôi tiếp cận về mối quan hệ giữa văn hoá Chăm và văn hoá Mã Lai. Bên cạnh những công trình nghiên cứu chung chung như trên, một số tác giả còn quan tâm nghiên cứu đến một số trường hợp riêng biệt về lễ Raja Praong của người Chăm và gắn nó trong mối quan hệ với văn hoá Mã Lai. Cũng như những mảng khác trong nền văn hóa Chăm, lễ Raja Praong được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu sớm ngay từ đầu thế kỷ XIX. Đến hôm nay, có thể nói, chưa có công trình khoa học nào trình bày được rõ nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa của lễ Raja Praong cũng như mối quan hệ của nó với thế giới bên ngoài. Vì thế, lễ Raja Praong vẫn còn nhiều câu hỏi đặt ra và là đề tài tranh luận của nhiều nhà nghiên cứu về Champa học ở trong và ngoài nước. Cụ thể, cuối thế kỷ XIX (năm 1891), tác giả E. Aymonier, một sĩ quan người Pháp có bài mô tả về “Các lễ RADJAI (Raja) của người Hồi giáo”ở Bình Thuận đã nhận xét như sau: “Vài cái trong số các nghi lễ này hình như đưa chúng ta đến Jawa 5 và có lẽ phải chăng ở đấy mà ta phải tìm nguồn gốc của các lễ Radja (Raja) này?”. Tuy vậy, bài này cũng chưa phải là bài nghiên cứu lễ Raja Praong một cách cụ thể mà chỉ đưa ý kiến mang tính cách gợi mở [113, tr.85]. Đến đầu thế kỷ XX, E. Aymonier đã phát hiện mới thêm về lễ Raja của người Chăm, trong Từ điển Chăm – Pháp xuất bản năm 1906 ông chỉ ra rằng: “Raja là một lễ múa lớn có nguồn gốc từ lễ Mak Yong trong gia đình hoàng gia Mã Lai” [115, tr. 225]. Tuy nhiên, ở đây E. Aymonier chưa chỉ rõ loại lễ Raja nào ảnh hưởng Mak Yong của người Mã Lai, vì ở ở người Chăm có đến 4 lễ Raja khác nhau. Năm 1990, Po Dharma tiếp tục công bố một bài về “Hai hoàng tử Mã Lai trong lễ Raja Praong”. Tác giả cho rằng lễ Raja Praong bắt nguồn từ tục thờ hai hoàng tử Mã Lai và công chúa Chăm. Thế nhưng, bài viết này của Po Dharma chỉ mang tính cách giới thiệu và gợi mở. Hai hoàng tử Mã Lai trong lễ Raja Praong có phải là nhân vật thật trong lịch sử của người Mã Lai hay không? Hay đó là những câu truyện huyền thoại? Nếu hai hoàng tử là nhân vật thật thì vai trò của họ như thế nào trong lễ Raja Praong và trong nền văn hóa Chăm và Mã Lai. Vấn đề này, Po Dharma chưa trả lời, vẫn còn đang bỏ ngỏ [204, tr.19-27]. Sau năm 1990 có một số tác giả Việt Nam như Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1989, 1991), Ngô Văn Doanh (1999), Hải Liên (1999), Sakaya (2003a)... bắt đầu nghiên cứu văn hoá Chăm, trong đó có đề cập đến lễ Raja Praong. Những tác giả này có hướng nghiên cứu, tiếp cận khác nhau về lễ Raja Praong. Nhóm tác giả Ngô Văn Doanh [11, tr. 309-328] và Hải Liên [39, tr.110-144] đặt nghi lễ Raja Praong trong mối quan hệ với văn hoá Ấn Độ; còn nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp [5, tr.273] và Sakaya [65, tr.100-117] thì đặt nghi lễ này trong mối quan hệ với văn hoá Mã Lai. Dẫu có những quan điểm, các tiếp cận vấn đề khác nhau nhưng đó là những công trình nghiên công phu, có ích đã để lại nhiều nguồn tư liệu quí giá cho chúng tôi kế tục, mở đường cho nghiên cứu mới trong luận án này. Cùng với lễ Raja Praong là lễ Mak Yong của người Mã Lai. Đây là nghi lễ mà E. Aymonier cho rằng có quan hệ với lễ Raja Praong. Nghi lễ này được các học giả
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất