Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế và khung khổ chính sách thươn...

Tài liệu Mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế và khung khổ chính sách thương mại việt nam (tt)

.PDF
28
248
98

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM SỸ AN MỐI QUAN HỆ GIỮA THƢƠNG MẠI VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ KHUNG KHỔ CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Mã số: Kinh tế phát triển 62.31.01.05 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI1 – 2016 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Tập thể hướng dẫn khoa học: 1. TS. Bùi Trƣờng Giang 2. TS. Võ Trí Thành Phản biện 1: PGS.TS. Lê Quốc Hội Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Nam Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Bá Ngọc Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2016 Có thể tìm hiểu Luận án tại - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện Khoa học Xã hội. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Từ năm 2001 đến nay, Việt Nam đã thực hiện nhiều cam kết đa phương, song phương và khu vực. Năm 2016 sẽ đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hội nhập của Việt Nam khi nước ta tham gia khá nhiều hiệp định thương mại như TPP, RCEP, AEC, EVFTA. 15 năm qua, nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày một sâu và với tốc độ ngày càng nhanh vào nền kinh tế quốc tế thông qua các kênh hội nhập rất đa dạng và với các cấp độ, tầng nấc khác nhau. Độ mở cửa lớn sẽ làm cho tăng trưởng của nước ta phụ thuộc nhiều hơn vào hoạt động thương mại. Do đó, nếu không tìm hiểu kỹ tác động của thương mại quốc tế đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, thiết kế chính sách thương mại trong tương lai có thể trở nên kém hiệu quả, không những không thúc đẩy tăng trưởng bền vững, dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại mà còn làm cản trở tăng trưởng của nền kinh tế. Thương mại quốc tế hay ngoại thương có thể tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như mở rộng hoạt động sản xuất trong nước, tăng hiệu ứng kinh tế theo quy mô, tăng chuyển giao công nghệ, tăng lượng vốn. Nhưng đồng thời ngoại thương cũng có thể truyền tải những rủi ro và cú sốc từ bên ngoài vào nền kinh tế trong nước nhanh hơn và với mức độ nghiêm trọng hơn. Nhìn từ hai khía cạnh này, việc xem xét tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế để từ đó nắm được các kênh truyền dẫn những tác động tích cực và các kênh truyền dẫn những tác động tiêu cực sẽ góp phần thiết kế chính sách thương mại trong thời gian tới khi mà Việt Nam tham gia ở các cấp độ sâu hơn, rộng hơn và đa dạng hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đồng thời luận án sẽ phân tích các kênh 1 tác động từ thương mại đến tăng trưởng của nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2014 để từ đó đề xuất chính sách thương mại. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế, và khung khổ chính sách thương mại của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: * Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung xem xét tác động của thương mại hàng hóa quốc tế và các kênh tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. * Phạm vi thời gian: khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2014 và những hàm ý hoàn thiện chính sách thương mại đến năm 2025. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng kết hợp cả phương pháp phân tích định tính và phương pháp phân tích định lượng. + Phương pháp phân tích định tính, gồm có: phương pháp thống kê, mô tả, phương pháp so sánh, phân tích diễn dịch, phân tích quy nạp. + Phương pháp định lượng chủ yếu sử dụng phương pháp hạch toán khung khổ tăng trưởng. 5. Những đóng góp của luận án Có bốn vấn đề chính mà luận án đóng góp: + Luận án tổng thuật lý thuyết về mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng. + Luận án phân tích thực trạng tăng trưởng, chính sách thương mại và diễn biến thương mại của Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2014. + Luận án phân tích kênh truyền dẫn tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2014. + Sau khi phân tích tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế, nắm rõ được vấn đề của chính sách thương mại và cấu trúc thương mại trong nước, cuối cùng, luận án sẽ đưa ra những đề xuất cho chính sách thương mại và các chính sách kinh tế có liên quan. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 2 Đề tài hệ thống hóa cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế, cụ thể, đề tài hệ thống hóa các kênh truyền dẫn tác động từ thương mại đến tăng trưởng; khảo sát các kênh truyền dẫn cho trường hợp của Việt Nam giai đoạn 2001-2014 để từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nhằm tăng cường tác động tích cực của thương mại đến tăng trưởng trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế thời gian sắp tới. 7. Kết cấu luận án Chương 1 sẽ tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài, chỉ ra khoảng trống trong nghiên cứu. Chương 2 sẽ tổng hợp cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa thương mại với tăng trưởng để làm cơ sở cho việc mô tả và phân tích tác động của thương mại đến tăng trưởng ở chương tiếp theo. Chương 3 mô tả tăng trưởng và thương mại của Việt Nam giai đoạn 2001-2014. Đồng thời, chương này cũng phân tích tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế và những kênh tác động. Chương 4 sẽ nêu ra hệ quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại giai đoạn đến năm 2025 từ các phân tích ở trên. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1. Các nghiên cứu quốc tế Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế nói chung và tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế nói riêng hiện có rất nhiều. Các nghiên cứu của Thirlwall (1994, 2000, 2002) cho rằng xuất khẩu tác động mạnh đến tăng trưởng vì xuất khẩu không chỉ tác động trực tiếp đến tổng cầu mà nó còn tác động gián tiếp thông qua những thành phần khác của tổng cầu. Nhập khẩu phần lớn được tài trợ bởi xuất khẩu, và tiêu dùng, đầu tư cũng được hỗ trợ phần nào bởi xuất khẩu. Bên cạnh đó, những loại công nghệ (máy móc, trang thiết bị) không thể sản xuất trong nước nhưng lại đóng vai trò lớn trong hoạt động sản xuất chỉ có thể có được thông qua nhập khẩu. Hay nguyên vật liệu nhập khẩu cũng là một đầu vào rất quan trọng cho hoạt động sản xuất. Các nghiên cứu cho một nhóm nước: Dollar (2002) phân tích tác động của thể thế và thương mại đến tăng trưởng. Tác giả kết luận rằng những quốc gia có thể chế tốt hơn và thương mại nhiều hơn có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn. Dollar và Kraay (2004) đã kết luận rằng những quốc gia đi sau nhưng mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế sẽ hội tụ tới nhóm các nước giàu nhanh hơn so với những quốc gia đi sau nhưng không mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các nghiên cứu cho riêng từng quốc gia: Herath (2009) xem xét tác động của tự do hoá thương mại đến tăng trưởng kinh tế tại Sri Lanka cho giai đoạn 1960-2007. Kết luận tác giả đưa ra là tự do hoá thương mại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Sri Lanka. Sun và Heshmati (2010) phân tích hoạt động thương mại của Trung Quốc và tác động của nó tới tăng trưởng kinh tế của nước này. Nghiên cứu đưa đến kết luận rằng tham gia thương mại quốc tế ngày 4 một sâu rộng của Trung Quốc đã làm cho nền kinh tế của nước này thu được cả lợi ích tĩnh và động. Marelli và Signorelli (2011) phân tích tác động của thương mại và độ mở nền kinh tế đến tăng trưởng kinh tế của cả Ấn Độ và Trung Quốc. Kết quả cho thấy độ mở của nền kinh tế và thương mại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của hai nước này. Nghiên cứu về các kênh tác động cũng tương đối nhiều như các nghiên cứu của Coe và cộng sự (1997), Edwards (1998), Bhagwati (1988), Waczirg (1997), Bigsten và cộng sự (2000), Kraay (1999), Hallward-Driemeier và cộng sự (2000), Frankel và Romer (1999). 1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc Cho đến nay, mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tăng trưởng kinh tế chưa được khám phá đầy đủ và hệ thống ở Việt Nam. Những bài nghiên cứu thường tìm nguồn gốc tăng trưởng kinh tế dưới dạng hàm sản xuất (mặt cung) như Trần Võ Hùng Sơn và Châu Văn Thành (1998), Lê Đăng Doanh và cộng sự (2002), Chu Quang Khởi (2003), Trần Thọ Đạt và cộng sự (2004). Phạm Sỹ An (2005) xem xét tính ràng buộc của thương mại (tăng trưởng xuất khẩu và độ co giãn của nhập khẩu đối với thu nhập) đến tăng trưởng của một nền kinh tế. Phạm Sỹ An (2006) phân tích mô hình mở rộng hơn về tác động của thương mại đến tăng trưởng, đồng thời cũng nghiên cứu trường hợp cụ thể Việt Nam trong giai đoạn 19912004. Các nghiên cứu riêng về thương mại thì có khá nhiều như Oostendorp và Quang (2010) phân tích tác động của tự do hoá thương mại đến lợi tức giáo dục của Việt Nam, hay Trang, Tâm và Nam (2011) xem xét những nhân tố quyết định đến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nói tóm lại, kết quả phân tích từ các công trình nghiên cứu ngoài nước là nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho luận án. Còn các công trình nghiên cứu trong nước ở các khía cạnh riêng rẽ như tăng trưởng hay thương mại có tương đối nhiều, nhưng phân tích một cách hệ thống tác động từ thương mại đến tăng trưởng cũng như các kênh truyền tải tác 5 động thì còn thiếu sót. Vì vậy, luận án được hy vọng sẽ là công trình nghiên cứu bổ sung cho các công trình nghiên cứu hiện nay và làm sáng tỏ hơn nhiều câu hỏi nghiên cứu, nhiều vấn đề được đặt ra trong giai đoạn sắp tới. Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƢỞNG, THƢƠNG MẠI VÀ QUAN HỆ GIỮA THƢƠNG MẠI VỚI TĂNG TRƢỞNG 2.1. Khái niệm về tăng trƣởng, thƣơng mại và chính sách thƣơng mại Khái niệm về tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản lượng giữa hai thời điểm t và t – 1. Khái niệm về thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế là trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Để đánh giá mức độ mở cửa thương mại của một nước có thể sử dụng nhiều cách đo khác nhau như tỷ lệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu với GDP hay qua nhiều cách thức đo lường khác. Khái niệm về chính sách thương mại và một số công cụ của chính sách thương mại: chính sách thương mại là các biện pháp nhằm hạn chế hay thúc đẩy thương mại. Chính sách thương mại có rất nhiều mục đích như tăng doanh thu cho ngân sách, bảo hộ ngành công nghiệp trong nước, thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách thương mại có những công cụ chủ yếu sau: Thuế quan; trợ cấp xuất khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER); yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa; và những công cụ thương mại khác như tín dụng trợ cấp xuất khẩu, mua sắm chính phủ, các rào cản hành chính. 2.2. Mối quan hệ giữa thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế Mối quan hệ định tính giữa thương mại và tăng trưởng được mô tả khá rõ qua công trình nghiên cứu kinh điển của Adam Smith (1776). Adam Smith đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thương mại như một kênh cho dòng hàng hóa từ sản xuất đến tiêu dùng. Tự do hóa thương mại sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động sản 6 xuất và cải thiện quá trình phân chia lao động (chuyên môn hóa) và năng suất của nền kinh tế. Như vậy, thương mại tác động đến tăng trưởng thông qua phân chia lao động, chuyên môn hóa và do đó là năng suất. Tiếp đến, David Ricardo (1772-1823) phát triển lý thuyết về lợi thế so sánh dựa trên các giả sử về cạnh tranh hoàn hảo và toàn dụng nguồn lực. Lý thuyết này cho rằng các quốc gia có thể thu được lợi ích thông qua chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa với chi phí cơ hội thấp nhất và trao đổi hàng hóa thặng dư. Đây thực chất là lợi ích tĩnh từ quá trình phân phối lại nguồn lực từ ngành này đến ngành khác khi chuyên môn hóa gia tăng dựa trên lợi thế so sánh. Ngược lại với lợi ích tĩnh, lợi ích động liên tục làm dịch chuyển toàn bộ đường biên khả năng sản xuất của các quốc gia nếu thương mại dẫn đến đầu tư nhiều hơn và năng suất tăng nhanh hơn dựa trên tính kinh tế theo quy mô, học qua làm và thu nhận kiến thức mới từ nước ngoài mà cụ thể là thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài. Lợi ích động từ thương mại được lý thuyết thương mại hiện đại và lý thuyết tăng trưởng “mới” chú trọng phân tích và đưa vào mô hình. Lợi ích động thiết lập một mối liên kết quan trọng trong chuỗi nhân quả giữa xuất khẩu và tăng trưởng. Ranis (2007) thể hiện một số kênh thương mại có thể tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế thông qua lợi ích tĩnh và lợi ích động. Lợi ích của thương mại là tìm đường đi cho các nguồn lực thặng dư hay nhàn dỗi và tạo ra sự thay đổi công nghệ kiểu của Adam Smith hoặc Schumpeter (1934) (thông qua chuyên môn hóa lao động, cạnh tranh, và học hỏi). Berg và Krueger (2003) liệt kê một danh sách các kênh cùng với các nghiên cứu thực nghiệm kèm theo mà thương mại có thể tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế. Cơ chế thông qua đó phân phối nguồn lực tĩnh tác động đến tăng trưởng ít rõ ràng hơn mặc dù một số các kênh đã được chỉ ra, gồm có: a) hiệu quả đầu tư tăng, cụ thể đó là tầm quan trọng của hàng hóa vốn nhập khẩu tại các nước đang phát triển; b) khả 7 năng mở rộng tại lợi tức không đổi theo quy mô cho một thời kỳ dài hơn thông qua việc tiếp cận đến thị trường rộng lớn hơn (Ventura, 1997); c) lợi tức thực của vốn cao hơn trong những quốc gia khai thác lợi thế so sánh là thặng dư lao động không kỹ năng; d) tỷ lệ tiết kiệm và dòng vào của vốn nước ngoài cao hơn có lẽ được thu hút bởi (a) và/hoặc (b); e) hiệu ứng tăng trưởng nội sinh có khả năng bắt nguồn từ tăng trưởng ngắn hạn nhanh hơn nhằm phản ứng trước việc mở cửa thương mại; f) nguyên tắc áp đặt vào chính phủ để thực hiện các cải cách chính sách hỗ trợ tăng trưởng khác nếu có cơ chế thương mại mở; g) giảm hoạt động tìm kiếm lợi tức (rent-seeking) tạo ra bởi những hạn chế thương mại; h) thúc đẩy đổi mới và tinh thần nghiệp chủ bắt nguồn từ cạnh tranh và tiếp cận đến thị trường rộng lớn hơn; và i) mở cửa đối với những ý tưởng và đổi mới tạo ra từ mở cửa thương mại. Một chủ đề trung tâm của lý thuyết tăng trưởng nội sinh là mở cửa thúc đẩy tăng trưởng dài hạn theo một số cách thức (Berg và Krueger, 2003). Các mô hình nhấn mạnh đến sự khuếch tán công nghệ như động lực cho tăng trưởng dài hạn có thể được xây dựng để dự báo rằng những quốc gia mở cửa lớn hơn sẽ có tốc độ tăng trưởng ở trạng thái dừng cao hơn (Grossman và Helpman, 1991). Học thông qua làm được nhấn mạnh trong Lucas (1988) và Young (1991). Các lập luận trước đây cho rằng mở cửa thương mại cho phép chuyên môn hóa trong những ngành công nghiệp với tính kinh tế theo quy mô và nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng dài hạn là tiền thân của loại lập luận này. Nói tóm lại, qua nhiều cách thức khác nhau, thương mại có tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế từ mặt cung cũng như mặt cầu, từ hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Các kênh tác động rất phong phú và tầm quan trọng các kênh tác động sẽ khác nhau qua các quốc gia khác nhau và có thể cũng khác nhau qua từng giai đoạn tại một nước. 2.3 Mô hình về mối quan hệ giữa thƣơng mại và tăng trƣởng Mô hình về mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng được lấy từ nghiên cứu của Edwards (1998). Mối quan hệ này thể hiện dưới 2 phương trình sau: 8 (1) (2) Trong đó, là GDP, là kho tri thức hay TFP, là vốn và là lao động. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tăng trưởng của vốn, lao động và TFP. ̇ ⁄ là tốc độ tăng trưởng của TFP, là tốc độ đổi mới trong nước, là tốc độ một quốc gia có khả năng thu hẹp khoảng cách tri thức với thế giới và chịu tác động của các chính sách thương mại, là kho kiến thức của thế giới, kho này được giả sử tăng trưởng tại tỷ lệ cao hơn so với tốc độ đổi mới trong nước ( ). Theo Edwards (1998), có 2 nguồn dẫn đến tăng trưởng TFP, đó là nguồn xuất phát từ bên trong nền kinh tế được thúc đẩy bởi đổi mới (innovation) và vốn con người (giáo dục) và nguồn xuất phát từ quốc tế được thúc đẩy bởi khả năng bắt chước hay hấp thụ công nghệ từ các quốc gia đi đầu. Bắt chước phụ thuộc vào khả năng “đuổi bắt” („catchup‟) của nền kinh tế. Những quốc gia đang phát triển càng cách xa trình độ công nghệ của các nước dẫn đầu bao nhiêu thì khả năng và tốc độ đuổi bắt càng lớn bấy nhiêu. Và một quốc gia có độ mở cửa lớn hơn với bên ngoài cũng sẽ có tốc độ đón nhận và hấp thụ công nghệ lớn hơn, vì thế góp phần tăng năng suất nền kinh tế cao hơn so với các quốc gia có độ mở cửa thấp hơn. Như vậy, lý thuyết về mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế cho thấy thương mại tác động đến tăng trưởng, mà cụ thể là TFP thông qua quá trình “học từ làm” (learning-by-doing), bắt chước, lan tỏa tri thức và truyền tải công nghệ. Các kênh truyền dẫn này cuối cùng sẽ làm thu hẹp khoảng cách tri thức của một quốc gia đang phát triển với thế giới. 2.4. Kinh nghiệm quốc tế và những bằng chứng về mối quan hệ và kênh tác động giữa thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế 2.4.1. Kinh nghiệm Hàn Quốc: Quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc bắt đầu bằng cuộc đảo chính quân sự của tướng Park Chung Hee năm 1961. Park cầm quyền ̇⁄ 9 trong 18 năm và đã triển khai nhiều chính sách công nghiệp và thương mại để biến Hàn Quốc trở thành con Rồng của châu Á. Chính sách thương mại của Hàn Quốc: Một trong những cải cách quan trọng của Tổng thống Park là chính sách thương mại. Park sẵn sàng bảo trợ cho các doanh nghiệp nhưng với điều kiện các doanh nghiệp phải đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là một tiêu chí rất minh bạch, rõ ràng. Hong (1979) liệt kê 38 cải cách cụ thể trong chính sách thương mại để thúc đẩy xuất khẩu vào đầu những năm 1960. Hàn Quốc loại bỏ thuế nhập khẩu đầu vào và thuế đánh vào hàng hóa vốn (capital goods) nhưng với điều kiện các hàng hóa nhập khẩu này được sử dụng để sản xuất hàng hóa cho xuất khẩu. Hay nói cách khác, nhập khẩu không thể được sử dụng để sản xuất các hàng hóa bán trong nước.Theo đánh giá của Westphal và Kim (1977), đây là chính sách định hướng xuất khẩu quan trọng, ít ra là cho đến tận năm 1975. Ngoài việc loại bỏ thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa đầu vào cho hoạt động sản xuất xuất khẩu, đầu những năm 1970 và liên tiếp trong 2 thế kỷ sau đó, Hàn Quốc tiến hành giảm dần thuế nhập khẩu và ở phạm vi lớn hơn, giảm từ 40% xuống còn 13%, đã gây sức ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp trong nước nhưng vẫn tạo cho họ khoảng thời gian để điều chỉnh kế hoạch và chiến lược sản xuất – kinh doanh. 2.4.2. Kinh nghiệm Đài Loan (Trung Quốc): Chính sách thương mại định hướng xuất khẩu: Trước hết, Đài Loan thực hiện chính sách công nghiệp hóa hướng xuất khẩu thông qua thực hiện đồng bộ các giải pháp như (i) Điều hành tỷ giá hối đoái ổn định; (ii) Để thúc đẩy xuất khẩu, Đài Loan giảm hàng rào thuế quan hoặc các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu khác thông qua hoàn thuế; (iii) Thiết lập các khu chế biến xuất khẩu đầu tiên trên thế giới tại Kaohsiung; (iv) Các doanh nghiệp được tự do xuất – nhập khẩu, khai thác lợi thế so sánh quốc tế và tiếp cận đến thị trường thế giới rộng lớn hơn nhiều. Tất nhiên, tại Đài Loan cũng tồn tại sự bảo hộ nhưng mức độ bảo hộ được điều chỉnh giảm dần. 10 2.4.3. Kinh nghiệm Trung Quốc: Chính sách thương mại hay chính sách mở cửa của Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ đầu đổi mới cũng như trong giai đoạn tăng tốc thần kỳ của Trung Quốc trong mấy thập kỷ vừa qua. Kể từ khi bắt đầu cởi trói nền kinh tế, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã mở cửa và đưa Trung Quốc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Từ năm 1978 Trung Quốc khuyến khích thương mại tự do và từng bước bãi bỏ các hạn chế thương mại. Chính phủ đã thay đổi chính sách thương mại bằng việc giao cho chính quyền địa phương nhiều quyền hơn trong thương mại quốc tế và cho phép các doanh nghiệp tư nhân thực hiện thương mại quốc tế. Vào năm 2001, Trung Quốc gia nhập WTO và nước này đã tận dụng rất tốt cơ hội trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, chuyển dịch cấu trúc và đẩy mạnh tăng trưởng nền kinh tế. 2.4.4. Bài học cho Việt Nam: Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, bài học rút ra như sau: Thứ nhất, chính phủ có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước tuy nhiên với điều kiện các doanh nghiệp phải đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ hai, các chính sách thương mại thúc đẩy tăng trưởng đáng lưu ý của Hàn Quốc gồm có: Bỏ thuế nhập khẩu đầu vào sử dụng để sản xuất các hàng hóa cho xuất khẩu; sau khi sức cạnh tranh được cải thiện, chính phủ bắt đầu giảm dần thuế nhập khẩu ở phạm vi lớn hơn. Giảm thuế nhập khẩu để buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm dần thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp có thời gian thay đổi chiến lược và phương thức sản xuất – kinh doanh; Chính phủ thực hiện rất nhiều các hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước nhưng đặt điều kiện phải thúc đẩy xuất khẩu, lấy thị trường bên ngoài làm tiêu chuẩn để đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và đồng thời để đánh giá hiệu quả của sự hỗ trợ. Nói cách khác, Hàn Quốc hỗ trợ các tập đoàn kinh tế cho định hướng xuất khẩu thay vì thay thế nhập khẩu. 11 Từ kinh nghiệm của Đài Loan (Trung Quốc), bài học rút ra cho Việt Nam như sau: Thứ nhất, chính quyền Đài Loan lựa chọn khu vực doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chủ đạo cho quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế; thực hiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, sáng tạo và phát triển. Song song với đó là mở cửa thị trường, coi hoạt động xuất khẩu như đường ra cho các sản phẩm sản xuất trong nước và coi thị trường bên ngoài là nơi tạo sức ép nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Hay nói cách khác, Đài Loan đã lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu thay vì thay thế nhập khẩu. Thứ hai, một loạt các giải pháp quan trọng khác hỗ trợ cho hoạt động sản xuất trong nước và cho xuất khẩu được Đài Loan thực hiện như: Điều hành tỷ giá hối đoái ổn định; Giảm hàng rào thuế quan xuất khẩu hoặc hỗ trợ xuất khẩu thông qua hoàn thuế; Xây dựng khu chế biến xuất khẩu; Khuyến khích các doanh nghiệp tự do xuất khẩu và nhập khẩu để khai thác lợi thế so sánh và thúc đẩy tiếp cận đến thị trường thế giới; Giảm dần mức độ bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, bài học rút ra cho Việt Nam như sau: Thứ nhất, bên cạnh lực lượng lao động thiếu kỹ năng dồi dào thì Trung Quốc có một lực lượng lớn lao động có kỹ năng và làm việc thực sự chăm chỉ. Thứ hai, hàm lượng công nghệ trong các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng tăng từ việc khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đặt các dây chuyền sản xuất linh kiện tại Trung Quốc cho đến việc nâng cấp các doanh nghiệp công nghiệp của Trung Quốc. Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực để giảm thiểu chi phí sản xuất cũng như tạo cơ hội nâng cấp các sản phẩm công nghiệp của Trung Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ tư, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi. Tỷ lệ lạm phát thấp và đồng NDT của Trung Quốc được định giá thấp so với đồng USD cũng đã khuyến khích hoạt động sản xuất cho xuất khẩu thay vì nhập khẩu. 12 Chƣơng 3 TĂNG TRƢỞNG VÀ THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM 3.1. Tăng trƣởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2014 Kể từ năm 2001 cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra và tác động đến nền kinh tế trong nước, tăng trưởng của nền kinh tế ở mức cao, trung bình vào khoảng 7,74%/năm. Nhưng sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra và biến thành cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, cộng với những vấn đề nội tại của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng sụt giảm trung bình từ 7,74% giai đoạn 2001-2007 xuống còn 5,85%/năm giai đoạn 2008-2014. Trong giai đoạn 2001-2014, cơ cấu kinh tế nước ta dịch chuyển theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp, và thủy sản (gọi tắt là “nông nghiệp”) có xu hướng giảm, hiện chiếm khoảng 18% trong tổng giá trị GDP. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng không có sự thay đổi rõ rệt trong hơn 10 năm qua, hiện chiếm 38,5%. Tỷ trọng dịch vụ có xu hướng tăng từ 38,6% năm 2001 lên đến 43,4% năm 2014. Mặc dù về tổng thể cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng nếu xét ở khía cạnh giá trị gia tăng của sự chuyển dịch thì không có nhiều thay đổi. Hoạt động sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp giá trị gia tăng thấp; còn trong lĩnh vực nông nghiệp là các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và xuất khẩu những sản phẩm nông nghiệp thô có giá trị gia tăng thấp như cao su, gạo, tiêu, điều, cà phê, thủy sản. Các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng hoặc sẽ đóng vai trò quan trọng cho kênh truyền dẫn tác động từ thương mại đến tăng trưởng như cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực công nghệ, và thể chế kinh tế còn chậm cải thiện. 3.2. Chính sách thƣơng mại và thƣơng mại quốc tế giai đoạn 20012014 a. Chính sách thương mại: Trong giai đoạn 2001-2014, nước ta tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực. Tham gia các Hiệp 13 định thương mại đòi hỏi có những thay đổi về biểu thuế, các hàng rào định lượng, các hàng rào kỹ thuật, phạm vi và cách thức trợ cấp của chính phủ,… . Vì vậy, mỗi mốc hội nhập kinh tế quốc tế phản ánh sự thay đổi trong chính sách thương mại của nước ta. Tỷ lệ thuế giảm dần qua những lần mở cửa thương mại, hạn ngạch cũng đã hạn chế sử dụng, tín dụng trợ cấp xuất khẩu đóng vai trò nhất định trong thúc đẩy xuất khẩu, yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa đã và đang được sử dụng nhưng đem lại kết quả nhỏ bé trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, mua sắm chính phủ được sử dụng nhưng mục tiêu hướng tới chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế không rõ ràng, các rào cản hành chính thì chưa được sử dụng cho thúc đẩy cơ cấu kinh tế. b. Thực trạng thương mại và cấu trúc thương mại của Việt Nam: Trong giai đoạn 2001-2014, tỷ trọng thương mại so với quy mô nền kinh tế có xu hướng tăng, điều này phần nào phản ánh nền kinh tế nước ta đang ngày một mở cửa lớn hơn với bên ngoài. Tỷ trọng thương mại/GDP năm 2001 là 103% thì đến năm 2014 tăng lên 169%, độ mở của nền kinh tế nước ta cao hơn rất nhiều so với nhiều nước đang phát triển và phát triển trên thế giới. Cấu trúc thương mại nước ta phản ánh chính xác trình độ phát triển của nền kinh tế và phản ánh đúng đặc điểm thường thấy của một nền kinh tế đang phát triển, đó là chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng gia công, lắp ráp, may mặc, đây là những mặt hàng nghiêng về sử dụng công nghệ sản xuất thâm dụng lao động. Bên cạnh đó là xuất khẩu khoáng sản và sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Đây đều là những mặt hàng không đem lại tác động lan tỏa tích cực lớn về mặt công nghệ cho nền kinh tế. Hơn nữa, các mặt hàng này có đặc điểm lợi tức giảm dần theo quy mô. Đất đai có hạn và trữ lượng khoáng sản cũng có hạn, vì vậy khai thác để gia tăng xuất khẩu đến một ngưỡng nào đó sẽ dừng lại. Còn đối với các mặt hàng chế tác (gia công, lắp ráp) thì nước ta đang tận dụng giá nhân công rẻ, tuy nhiên cùng với thời gian, giá nhân công sẽ tăng dần và nếu năng lực của nền kinh tế không giúp chuyển dịch hoạt động sản xuất từ trình độ thấp sang trình độ cao, nền 14 kinh tế sẽ đi đến điểm dừng của tăng trưởng mà theo ngôn từ của Giáo sư Ohno là gặp phải bức tường thủy tinh hoặc rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Theo đánh giá của Perkins (2002), “khi bắt đầu chuyển đổi sang hệ thống dựa vào thị trường, một số phần trong đường lối phát triển kinh tế của Đông Á đã không gây tranh cãi trong giới lãnh đạo của Trung Quốc và Việt Nam, và những phần này được đưa vào ngay từ lúc đầu của thời kỳ cải cách ở cả hai nước. Đứng đầu trong những thành phần này là quan điểm hướng ngoại với sự chú trọng đặc biệt mạnh mẽ đến tăng trưởng xuất khẩu. Xuất khẩu trong trường hợp của Trung Quốc, cũng như của bốn con hổ Đông Á khác (Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan), cộng với Nhật Bản, chủ yếu là xuất khẩu hàng chế tác chứ không phải khoáng sản hay nông sản. Còn trong trường hợp của Việt Nam, mục tiêu là mở rộng xuất khẩu hàng chế tác, nhưng thực tiễn trước mắt lại là mở rộng xuất khẩu phụ thuộc vào tăng trưởng xuất khẩu nông sản và dầu mỏ. Tuy nhiên, trong dài hạn, Việt Nam sẽ phải dựa nhiều hơn vào xuất khẩu hàng chế tác, với những lý do tương tự như của Trung Quốc. Cả hai nước này đều có diện tích đất canh tác trên đầu người 0,1 ha, và những nước có quỹ đất thuộc loại eo hẹp này thường trở thành những nước nhập khẩu thuần lương thực và các nông sản khác, chứ không phải là nước xuất khẩu thuần” (trang 312-313). Ohno và Lê Hà Thanh (2015) nhận xét rằng “xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam chủ yếu do các tên tuổi lớn như Samsung, Canon, Intel, Fujitsu và những thương hiệu lớn của nước ngoài khác cũng như các nhà sản xuất hàng may mặc và da giầy trong và ngoài nước. Các ngành này đều là các ngành thâm dụng lao động trong khi Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh kiện công nghiệp và sản phẩm tiêu dùng nhập khẩu. Việc xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng lao động và nhập khẩu các nguyên liệu và sản phẩm công nghiệp gần như không thay đổi nhiều trong hai thập kỷ qua”. 15 Về đối tượng tham gia xuất khẩu, hầu hết mọi loại hình doanh nghiệp đều tham gia xuất khẩu hàng hóa, tuy nhiên, chủ thể nổi bật nhất trong xuất khẩu hàng hóa là các doanh nghiệp FDI. Hàm lượng FDI trong các mặt hàng xuất khẩu như điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện; phương tiện vận tải và phụ tùng đều chiếm trên 80%. Giày dép các loại xuất khẩu có hàm lượng FDI chiếm đến gần 80% (Trần Đình Thiên, 2015b). 3.3. Quan hệ giữa thƣơng mại và tăng trƣởng Mối quan hệ giữa tăng trưởng vốn và độ mở của nền kinh tế giai đoạn 1987-2014 có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau. Điều này phản ánh rằng quá trình mở cửa nền kinh tế đem lại cơ hội cho nền kinh tế, tuy nhiên nước ta mới chỉ khai thác lợi thế so sánh tĩnh để tận dụng cơ hội này. Thương mại sẽ tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế thông qua các kênh này nhưng nếu cơ cấu nền kinh tế và cấu trúc thương mại không có sự thay đổi, thương mại sẽ không có tác động dài hạn đến nền kinh tế, nhất là thông qua năng suất. Mối quan hệ giữa độ mở của nền kinh tế và tăng trưởng TFP giai đoạn 1987-2014 ngược chiều nhau. Lưu ý rằng, TFP không chỉ bao gồm công nghệ theo nghĩa thuần túy kỹ thuật mà còn gồm cả môi trường đầu tư – kinh doanh, thể chế, chất lượng giáo dục và chất lượng của máy móc công nghệ. Thương mại có thể làm tăng nhập khẩu công nghệ mới, tăng mức độ lan tỏa công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài đến các doanh nghiệp trong nước; tuy nhiên, quan trọng nhất kể từ khi hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2001-2014 là Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do và các hiệp định thương mại vùng. Các hiệp định sẽ buộc Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường, cải cách thể chế bên trong (để đáp ứng các yêu cầu trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới). Các kênh thƣơng mại tác động đến tăng trƣởng: 16 Hiệu quả đầu tư tăng và mở rộng lợi tức không đổi cho thời kỳ dài hơn qua tiếp cận thị trường lớn. Diễn biến TFP và ICOR giai đoạn 2001-2014 cho thấy tại những thời điểm trước hoặc sau khi Việt Nam tham gia một dấu mốc hội nhập quan trọng nào đấy, tăng trưởng TFP thường ở mức cao hoặc ICOR ở mức thấp. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư và năng suất các nhân tố tổng hợp của nền kinh tế tăng khi nền kinh tế mở cửa rộng hơn. Như vậy, hiệu quả đầu tư tăng và mở rộng lợi tức không đổi cho thời kỳ dài hơn qua việc tiếp cận thị trường lớn hơn (tiếp cận thị trường Mỹ khi ký kết Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2001, tiếp cận thị trường khổng lồ của thế giới qua sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, và tiếp cận dễ dàng hơn đến các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, ASEAN qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như TPP, FTA giữa Việt Nam và EU, AEC, RCEP) sẽ làm gia tăng đầu tư và vốn của nền kinh tế, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước và/hoặc dòng vốn nước ngoài vào cao hơn khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại song phương hay đa phương trong giai đoạn 2001-2014. Lợi tức thực của vốn cao hơn khi khai thác lợi thế so sánh là lao động thặng dư: Với việc mở cửa thị trường thông qua các mốc hội nhập quan trọng như BTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2001, WTO năm 2007, nền kinh tế nước ta thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng lao động (như dệt may, giày dép) cho thấy lợi tức thực của vốn tại các ngành có lợi thế so sánh là lao động đã cao hơn khi thị trường được mở rộng. Hiệu ứng tăng trưởng nội sinh vì tăng trưởng nhanh do mở cửa thương mại: Mở cửa thương mại làm tăng kỳ vọng của các nhà đầu tư vào triển vọng của nền kinh tế, tăng kỳ vọng vào thu nhập tương lai và do đó tăng đầu tư, sản xuất và tiêu dùng; từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tăng lại làm kỳ vọng vào thu nhập dài hạn tăng, kỳ vọng vào doanh thu tăng và sản xuất sẽ tăng. Hơn nữa, sản xuất 17 tăng kéo theo sự mở rộng của nền kinh tế, làm gia tăng đặc tính kinh tế theo quy mô, và năng suất của nền kinh tế.Tuy nhiên, cũng như các kênh truyền dẫn vừa nêu trên, ngay trước hoặc sau khi mở cửa (qua các hiệp định thương mại song phương, đa phương, và khu vực), nền kinh tế có thể tăng trưởng ở mức cao do kỳ vọng vào lợi nhuận và thu nhập tương lai của doanh nghiệp cũng như của người dân; thế nhưng nếu không có những cải cách thực sự trong môi trường kinh doanh và đầu tư của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng sẽ suy giảm vì lợi nhuận và thu nhập tương lai kỳ vọng sẽ giảm. Do đó, kênh truyền dẫn này chỉ đem lại lợi ích ngắn hạn cho tăng trưởng của nền kinh tế. Số liệu cho thấy trước và ngay thời điểm mở cửa nền kinh tế qua một số mốc hội nhập quan trọng như Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2001, gia nhập WTO năm 2007 và tham gia TPP, AEC năm 2015, tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn so với khi chưa gia nhập. Điều này có nghĩa, mở cửa nền kinh tế làm cho tăng trưởng cao hơn, điều này lại càng làm cho đầu tư và tiêu dùng gia tăng, và tiếp tục làm cho tăng trưởng cao hơn. Các chính sách hỗ trợ tăng trưởng từ thực hiện cam kết thương mại: Với thay đổi thể chế để thực hiện các cam kết của hội nhập và để quá trình hội nhập tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế có lẽ còn rất hạn chế. Chẳng hạn, khi bắt đầu tham gia WTO, Việt Nam đã phải thực hiện thay đổi rất mạnh mẽ hệ thống luật, bổ sung, hoàn thiện và bãi bỏ các luật hay quy định không phù hợp với các cam kết WTO. Thế nhưng, còn một khoảng cách rất lớn giữa xây dựng luật, thực hiện luật, giám sát thực hiện luật và chế tài xử lý. Giảm hoạt động tìm kiếm trục lợi (rent-seeking): Mở cửa nền kinh tế sẽ làm giảm hoạt động tìm kiếm trục lợi, để nguồn lực trong nền kinh tế phân bổ vào các hoạt động sản xuất thay vì vào các hoạt động tìm kiếm trục lợi và do đó cũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh và tiếp cận thị trường lớn hơn sẽ thúc đẩy sáng tạo và tinh thần doanh nghiệp; đồng thời thương mại còn làm tăng ý tưởng đổi mới sáng tạo do sự cọ sát với các đối thủ cạnh tranh và các đối tác 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng