nghiªn cøu - trao ®æi
Hoµng ThÞ Thuý H»ng *
M
ặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời trong
thời kì cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng giải phóng dân tộc
như một phương thức tổ chức tập hợp lực
lượng cách mạng. Trải qua gần 80 năm hình
thành và tồn tại, Mặt trận Tổ quốc ngày càng
khẳng định vị trí thiết yếu của mình trong hệ
thống chính trị Việt Nam. Nếu ở thời kì mới
thành lập và bước vào hoạt động, Mặt trận
Tổ quốc chỉ có mối quan hệ với Đảng thì
đến nay, Mặt trận Tổ quốc ngày càng được
quan tâm trong mối quan hệ với thành viên
khác của hệ thống chính trị, đó là Nhà nước.
Thậm chí, Mặt trận Tổ quốc còn được coi
như là phương thức để thực hiện dân chủ xã
hội, cũng như khắc phục những nhược điểm
trong tổ chức quyền lực của bộ máy nhà
nước… Trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
chúng ta đã và nên tác động gì đến mối quan
hệ giữa Mặt trận Tổ quốc với Nhà nước.
Trong mỗi thời kì lịch sử nhất định, phụ
thuộc vào tình hình trong nước, thế giới và
nguyện vọng của nhân dân, Mặt trận dân tộc
được thành lập với hình thức và tên gọi phù
hợp nhằm đoàn kết, tập hợp các lực lượng để
thực hiện nhiệm vụ chính trị của dân tộc.
Chính vì vậy, với quan điểm về đại đoàn kết
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra
đời là tất yếu của lịch sử, để xây dựng “trận
tuyến” vững chắc về lòng yêu nước, của sức
mạnh nội lực dân tộc nhằm thực hiện thành
18
công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, khi nói đến mặt trận thì ở
nhiều nước, ở từng thời kì nhất định cũng
từng xuất hiện hình thức mặt trận như Mặt
trận bình dân ở Pháp, Mặt trận dân chủ chống
phát xít ở nhiều nước trong Chiến tranh thế
giới lần thứ 2, Chính hiệp ở Trung Quốc hay
Mặt trận xây dựng đất nước Lào… Song bản
chất của việc ra đời những mặt trận này là
phục vụ cho mục tiêu chính trị nào đó nhằm
tạo ra một “tuyến” các lực lượng chính trị và
sẽ giải tán sau khi mục tiêu chính trị đó đã đạt
được hoặc thất bại. Những mặt trận ở hình
thức này không phải là đảng phái chính trị,
cũng không phải là tổ chức xã hội mà là một
phương thức thực thi những nhiệm vụ chính
trị của lực lượng lãnh đạo cách mạng. Song
ở Việt Nam, Mặt trận lại có những đặc thù
và mang bản chất khác. Đó là Mặt trận gắn
liền với truyền thống lịch sử của dân tộc đại
đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc ở Việt
Nam không phải chỉ là sách lược của lực
lượng lãnh đạo cách mạng mà còn là sự hiện
thực hoá, đúc rút kinh nghiệm từ nhu cầu
khách quan của lịch sử dân tộc vì quyền lợi
của nhân dân (từ việc hợp sức đồng lòng trị
thuỷ, chống giặc ngoại xâm) và lịch sử dân
tộc Việt Nam đã chứng minh ý nghĩa đúng
đắn của sự ra đời Mặt trận Tổ quốc bằng
* Quận uỷ Hoàng Mai Hà Nội
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008
nghiªn cøu - trao ®æi
việc góp phần quan trọng trong sự thành
công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và giải phóng thống nhất đất nước.
Từ việc nhìn nhận vấn đề đại đoàn kết
dân tộc mang đặc trưng của đất nước và có ý
nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành
công các nhiệm vụ của dân tộc nên trong bối
cảnh hiện nay, khi nói đến việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do
dân và vì dân, Đảng, Nhà nước ta lại gắn với
vấn đề đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận. Đây là
luận điểm đặc trưng của Việt Nam trong tổ
chức và thực hiện quyền lực nhân dân. Nếu
như trước kia, nỗi nhục mất nước đã thôi
thúc, tập hợp người dân yêu nước Việt Nam
vào Mặt trận thì nay, trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, những bức xúc về mâu thuẫn lợi ích
kinh tế trong nước và quốc tế, của nghèo
nàn, lạc hậu đang thôi thúc và quy tụ người
dân yêu nước Việt Nam vì sự nghiệp đổi mới
đất nước. Đồng thời nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân là nhà nước mà ở
đó quyền lực nhà nước phải được dựa trên
nền dân chủ thực sự, người dân làm chủ và
giám sát nhà nước, thông qua hai phương
thức trực tiếp và gián tiếp (thông qua đại
diện). Với tổ chức hệ thống chính trị hiện
nay của Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là thiết chế được coi là nơi hội tụ, phản
ánh đầy đủ nhất tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân thuộc mọi giai tầng xã hội. Do vậy,
Mặt trận có điều kiện để thu thập những ý
kiến tâm huyết đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, trong đó có
những ý kiến đóng góp cho Đảng, Nhà nước
nhìn thấy những “hạn chế” của mình để tự
đổi mới, cải cách theo hướng nhà nước pháp
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008
quyền. Chính vì vậy, vai trò thiết yếu của
Mặt trận trong mối quan hệ với Nhà nước
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế,
chính trị, xã hội của thế giới đã được kinh
nghiệm thực tiễn cũng như lí luận chứng
minh là vấn đề mang tính thời sự hiện nay.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật, mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc và
Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bên. Quan
hệ phối hợp này được thực hiện theo quy chế
phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và cơ quan nhà nước hữu
quan ở từng cấp ban hành. Theo đó, trách
nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc
được hiểu trên những nội dung sau:
- Phát huy khối đại đoàn kết toàn dân để
vận động toàn dân thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng
và đối ngoại của Nhà nước.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện quyền làm chủ, thi hành chính sách,
pháp luật..
- Tham gia xây dựng chính quyền nhân
dân thông qua các hoạt động như bầu cử,
xây dựng pháp luật, tham gia trực tiếp vào
một số hoạt động tố tụng (đối với các vụ án
có tính nhạy cảm về chính trị có tác động lớn
đến dư luận liên quan đến đối tượng là chức
sắc tôn giáo, người dân tộc ít người…. hay
đề xuất những kiến nghị với cơ quan tố tụng
có thẩm quyền trên cơ sở xem xét từ đơn thư
khiếu tố) hoặc tham gia gián tiếp vào các
hoạt động tố tụng như tham gia vào hội đồng
tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội thẩm
nhân dân; giám sát đại biểu dân cử, cán bộ,
19
nghiªn cøu - trao ®æi
công chức nhà nước, cơ quan nhà nước.
- Được mời tham dự các phiên họp của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, uỷ
ban nhân dân, kì họp của hội đồng nhân dân
khi bàn về các vấn đề có liên quan để có ý
kiến đề xuất, kiến nghị về những vấn đề cần
thiết; cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem
xét, trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc
theo quy định của pháp luật.
Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện
để Mặt trận Tổ quốc hoạt động có hiệu quả.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Quốc
hội đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam năm 1999 và Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật quy định về mối
quan hệ giữa Mặt trận với các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhân
dân. Trên thực tế, trong thời gian qua, Mặt
trận đã thực hiện có hiệu quả trong nhiều nội
dung như: tổ chức nhiều cuộc tiếp xúc cử tri,
phối hợp tham gia chuẩn bị và tổ chức thành
công cuộc bầu cử Quốc hội khoá XII với
99,64% cử tri tham gia; tham gia và có ý
kiến đã được đưa vào luật như Luật quốc
tịch (1998), Bộ luật hình sự sửa đổi, Nghị
định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định của Chính phủ số 143/2003/NĐCP ngày 28/11/2003 quy định chi tiết thi
hành một số điều của pháp lệnh khai thác và
bảo vệ công trình thủy lợi, Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ số 24/2007/CT-TTg ngày
01/11/2007 về việc tăng cường chấn chỉnh
việc thực hiện các quy định của pháp luật về
phí, lệ phí, chính sách huy động và sử dụng
các khoản đóng góp của nhân dân…, tham
gia hội đồng tuyển chọn thẩm phán, việc
20
triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn… Tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập biểu hiện của sự thiếu bình
đẳng, chưa đồng bộ trong phối hợp như: hiệu
quả việc thực hiện cơ chế giám sát của Mặt
trận Tổ quốc đối với cán bộ, công chức cơ
quan nhà nước còn thấp, khó thực hiện;
những ý kiến, kiến nghị của của cử tri, khiếu
tố của công dân do Mặt trận Tổ quốc phản
ánh sau khi xem xét các đơn thư thường
không được các cơ quan nhà nước hữu quan
giải quyết triệt để; hay trong quy trình xây
dựng chính sách, pháp luật, các cơ quan
chức năng của Chính phủ được giao chủ trì
chuẩn bị dự thảo tuy có lấy ý kiến của Ban
thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam và các
tổ chức thành viên nhưng thường gửi văn
bản quá muộn, không đủ thời gian và cơ sở
để góp ý và hầu như không có sự phản hồi
về sự tiếp thu hoặc hầu như chưa tham gia
vào quá trình tố tụng một cách trực tiếp… Vì
vậy, Mặt trận tựa hồ như tổ chức đoàn thể
hoạt động phụ thuộc vào Nhà nước… Vì
vậy, mặc dù lịch sử cũng như cơ sở pháp lí
đã đặt ra cho Mặt trận vị trí độc lập và bình
đẳng đối với Nhà nước, cũng như kì vọng
vào mối quan hệ này giúp cho việc thực hiện
nền dân chủ XHCN, thúc đẩy nhanh việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế song
Mặt trận thực hiện nhiệm vụ đó của mình
chưa tương xứng đồng thời Nhà nước cũng
chưa tạo được cơ chế cần thiết để mối quan
hệ phối hợp đạt hiệu quả.
Chính vì vậy, việc đổi mới phương thức
tổ chức thực hiện mối quan hệ này là vấn đề
mấu chốt tháo gỡ cho những tồn tại trên. Nói
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008
nghiªn cøu - trao ®æi
cách khác, cần thiết phải tạo cho mối quan
hệ phối hợp trên cơ chế phù hợp để việc thực
thi mối quan hệ mang lại hiệu quả cao.
Trước hết, chỉ có Nhà nước, bằng chính
sách, pháp luật mới tạo cho Mặt trận cơ chế
hoạt động có hiệu quả. Cụ thể là phải quy
định rõ những việc mà Mặt trận Tổ quốc
được làm, được phép hoạt động trong các
hoạt động giám sát, xây dựng chính quyền
nhân dân… (hiện nay mới hầu hết chỉ là
những quy định mang tính nguyên tắc); đồng
thời quy định rõ trách nhiệm của cơ quan
nhà nước khi nhận được những yêu cầu, kiến
nghị, đề xuất của Mặt trận Tổ quốc; có chế
tài cụ thể trong trường hợp một trong hai bên
trong mối quan hệ không thực hiện đầy đủ
trách nhiệm của mình. Muốn làm tốt được
điều này, các cơ quan chuyên môn của Nhà
nước cần chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc rà soát những văn bản quy định về
quyền và trách nhiệm của Mặt trận trong mối
quan hệ với các cơ quan nhà nước hữu quan
để từng bước bổ sung, hoàn chỉnh các quy
định này.
Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc cần chủ động
xây dựng các quy trình cụ thể cho từng nội
dung hoạt động của mình như quy trình về
xem xét, thẩm tra, giải quyết đơn thư và đôn
đốc thực hiện sau khi có kết luận của cơ
quan nhà nước, quy trình về lấy ý kiến của
nhân dân về những vấn đề cần phản biện đối
với Đảng và cơ quan nhà nước; quy trình
giám sát đối với cán bộ, công chức và cơ
quan nhà nước… Các quy trình này đảm bảo
phải chặt chẽ, có tính khả thi, tránh việc tổ
chức thực hiện mang tính hình thức và được
các cơ quan nhà nước hữu quan trong mối
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008
quan hệ phối hợp cam kết tôn trọng. Đồng
thời, Mặt trận cần khắc phục tình trạng
“hành chính hoá”, cải thiện lề lối làm việc
của bộ máy chuyên trách theo hướng gần
dân, sát dân, có vậy mới thực sự đủ uy tín,
tín nhiệm để người dân phản ánh ý kiến của
mình trong việc giám sát, xây dựng chính
quyền nhân dân; cần xây dựng chế độ thông
tin kịp thời, thông suốt giữa cơ quan Mặt
trận Tổ quốc ở trung ương với cơ quan Mặt
trận Tổ quốc ở các địa phương, giữa uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc với các tổ chức thành viên
để tăng cường sự chỉ đạo tập trung thống
nhất của các cấp lãnh đạo Mặt trận.
Ba là, Nhà nước cần thực hiện chế độ
mở rộng thông tin theo hướng dân chủ, công
khai (trừ những thông tin thuộc bí mật quốc
gia) và việc làm này phải được đảm bảo
bằng pháp luật và đảm bảo tính chủ động từ
phía cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho
người dân điều kiện để thực hiện nguyên tắc
dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà xu thế
hội nhập quốc tế và yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN đã trở thành nhiệm
vụ thiết yếu thì hơn lúc nào hết trong mối
quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận, mỗi
bên phải nhận thấy rằng bên kia là điều kiện
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
mình, do vậy cần phải có sự chủ động tích
cực đổi mới về phương thức hoạt động.
Thực hiện tốt được điều này, Mặt trận mới
giữ vững vị trí, vai trò mà lịch sử giao phó
cho mình là một thiết chế giám sát, phản
biện xã hội đối với Nhà nước, giúp Nhà
nước thực hiện đúng đắn và đầy đủ quyền
lực của nhân dân./.
21
- Xem thêm -