Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong lập luận (trên tư liệu báo chí)...

Tài liệu Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong lập luận (trên tư liệu báo chí)

.PDF
92
1753
73

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- NGUYỄN MINH MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN TRONG LẬP LUẬN (TRÊN TƢ LIỆU BÁO CHÍ) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- NGUYỄN MINH MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN TRONG LẬP LUẬN (TRÊN TƢ LIỆU BÁO CHÍ) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 02 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp Hà Nội – 2014 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 5 1) Lí do chọn đề tài................................................................................................................. 5 2) Lịch sử vấn đề .................................................................................................................... 6 3) Mục đích nghiên cứu......................................................................................................... 8 4) Đối tượng nghiên cứu....................................................................................................... 8 5) Phương pháp nghiên cứu................................................................................................. 8 6) Bố cục luận văn.................................................................................................................. 9 PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 11 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN........................................................................ 11 1.1 Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................11 1.1.1 Mạch lạc..........................................................................................................................11 1.1.1.1Giai đoạn 1...................................................................................................................11 1.1.1.2. Giai đoạn 2 .................................................................................................................15 1.1.2. Ngụy biện.......................................................................................................................21 1.1.2.1. Từ Aristote..................................................................................................................21 1.1.2.2. Khoa học logic cận đại .............................................................................................23 1.1.2.3. Tiêu chuẩn nhận diện (Standard Treatment) ........................................................24 1.1.2.4. Dụng hành – tương thoại (The Pragma-Dialectical Approach) – PDA ..........25 1.1.2.5. Douglas Walton và lí thuyết dụng hành về ngụy biện........................................26 1.2. Lí thuyết về lập luận ........................................................................................................33 1.3. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong một luận cứ ..................................34 1.4. Quan điểm của Walton về luận cứ trong truyền thông .............................................40 1 1.5. Tiểu kết chương 1............................................................................................................41 CHƢƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN TRONG MỘT SỐ LOẠI NGỤY BIỆN THUỘC NHÓM VIỆN DẪN (AD) ........................... 43 2.1. Ngụy biện “Tấn công cá nhân” (Ad Hominem ) .......................................................43 2.1.1. Về ngụy biện “Tấn công cá nhân”.............................................................................43 2.1.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ..............................................................................44 2.1.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L1) ...........46 2.1.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad Hominem 48 2.2. Ngụy biện viện dẫn thẩm quyền (Ad Verecundiam) ................................................49 2.2.1. Về ngụy biện viện dẫn thẩm quyền..........................................................49 2.2.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ...........................................................51 2.2.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L2) ...........51 2.2.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad Verecundiam ........................................................................................................54 2.3. Ngụy biện Viện dẫn điều bất khả tri (Ad Ignorantian)..............................................54 2.3.1. Về ngụy biện Viện dẫn điều bất khả tri – hay còn gọi là gánh bằng chứng (Burden of proof) .....................................................................................54 2.3.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ......................................................56 2.3.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L3) ...........57 2.3.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad Ignorantian 60 2.4. Ngụy biện viện dẫn lòng thương cảm (ad misericordiam).......................................61 2 2.4.1. Về ngụy biện viện dẫn lòng thương cảm ................................................61 2.4.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ...........................................................62 2.4.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L4) ...........63 2.4.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad misericordiam ......................................................................................................64 2.5. Tiểu kết chương 2............................................................................................................65 CHƢƠNG 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN TRONG MỘT SỐ NGỤY BIỆN PHI HÌNH THỨC (INFORMAL) KHÁC ............................................................................................................. 66 3.1. Ngụy biện hình nhân thế mạng (Straw man)..............................................................66 3.1.1 Về ngụy biện hình nhân thế mạng ............................................................66 3.1.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ...........................................................67 3.1.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L5) ...........67 3.1.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Straw man ...70 3.2. Ngụy biện “nước đôi” (equivocation)..........................................................................71 3.2.1. Về ngụy biện nước đôi ..............................................................................71 3.2.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ...........................................................72 3.2.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L6) ...........72 3.2.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Equivocation ........................................................................................................74 3.3. Ngụy biện loại suy sai (Faulty analogy) ......................................................................75 3.3.1. Về ngụy biện loại suy sai ....................................................................75 3.3.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ......................................................76 3.3.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L7)......76 3 3.3.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Analogy .78 3.4. Ngụy biện buộc lao dốc (Slippery Slope) ...................................................................79 3.4.1. Về ngụy biện buộc lao dốc ..................................................................79 3.4.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ ......................................................80 3.4.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L8)......81 3.4.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Slippery Slope 84 Qua việc phân tích (L8) ta thấy các luận cứ có dạng: ......................................84 3.5. Tiểu kết chương 3 ................................................................................85 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1) Lí do chọn đề tài “Mạch lạc văn bản là hiện tượng có vẻ như vừa có phần thực, vừa có phần hư” (K.Wales,1995) “Ta thấy càng bao quát (về mạch lạc văn bản) rộng bao nhiêu thì càng mơ hồ bấy nhiêu” (Diệp Quang Ban. 2009) “Mạch lạc” là một tính từ mà thường ngày chúng ta dùng để nhận xét về một văn bản: văn bản đó có mạch lạc hay không, mạch lạc ít hay nhiều. Khi một văn bản được nhận xét là (có) mạch lạc thì đó là một văn bản hay, các câu trong văn bản được tổ chức một cách hợp lí, tạo ấn tượng tốt với người đọc. Nhưng ít ai có thể chỉ ra được mạch lạc thực sự ở chỗ nào của văn bản, biểu hiện cụ thể như thế nào. Vậy trong ngôn ngữ học văn bản, chúng ta giải quyết vấn đề này như thế nào ? “Mạch lạc” là một trong những thuật ngữ quan trọng của ngành ngôn ngữ học văn bản. Nhưng suốt từ những năm 1970 cho đến nay, cho dù đã có rất nhiều công trình có uy tín bàn về mạch lạc trong văn bản, nhưng nhiều nhà nghiên cứu vẫn cho rằng mạch lạc vẫn là một hiện tượng còn mơ hồ và cần làm rõ hơn nữa. Vì sao lại xảy ra vấn đề này? Theo chúng tôi, có hai nguyên nhân chính. Một là, mạch lạc là một khái niệm quá rộng, bao trùm lên cũng như có liên quan đến hầu hết các vấn đề của văn bản. Hai là, không thể nhận biết mạch lạc chỉ thuần tuý bằng các phương tiện từ vựng – ngữ pháp của ngôn ngữ học. 5 Chính vì gặp phải một vấn đề rộng lớn và phức tạp như vậy, mà chúng tôi chọn giải pháp nghiên cứu “tiêu cực” (negative), tức là nghiên cứu những trường hợp “không mạch lạc”. Vì thế chúng tôi đi sâu và nghiên cứu ngụy biện, vì ngụy biện là một lập luận yếu, mà ở đó các yếu tố bên trong nó có “sự nối kết” không “hợp lí”. Việc kết hợp nghiên cứu ngụy biện và mạch lạc; một mặt giúp thu hẹp vào nghiên cứu mạch lạc logic; mặt khác, sử dụng các tri thức về ngụy biện để bổ trợ cho nghiên cứu mạch lạc. 2) Lịch sử vấn đề Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về “mạch lạc”, chúng tôi xin điểm qua vài công trình có liên quan đến luận văn này: - Haliday và Hasan (1976) có công trình đáng chú ý “Cohesion in English”. Trong nghiên này, hai tác giả dùng khái niệm “register” để xác định liên kết và mạch lạc. Nhưng theo Galperin, tuy hai tác giả này có ý đồ hình thức hóa các phương tiện mạch lạc, nhưng ”trong công trình này vẫn có nhiều điều được đề xuất ở bình diện ngữ pháp chứ không phải bình diện văn bản”. - Green (1980) đưa ra khái niệm mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác, tức là có một sự “hợp tác” giữa người nói và người nghe; nhằm cùng hướng về một ngữ cảnh nhất định. - Givón cho rằng mạch lạc nằm trong một “văn bản tinh thần” ở người tiếp nhận chứ không phải ở “nội văn bản”. - Brown & Yule nhấn mạnh việc nghiên cứu mạch lạc phải dựa trên việc coi như là các quyết định luận suy từ phía người nghe / đọc. - Trần Ngọc Thêm (1985) trong “Hệ thống liên kết tiếng Việt” không nhắc đến mạch lạc, nhưng lại đưa ra một khái niệm rất gần với “mạch lạc” là “liên kết nội dung”. Tuy nhiên, “liên kết nội dung” của ông vẫn chỉ là sự phát triển thêm của “liên kết” mà thôi. 6 - Có bốn luận án thạc sĩ, tiến sĩ về mạch lạc tiếng Việt tại Đại học Quốc Gia Hà Nội (theo thư viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội) đều khảo sát một biểu hiện mạch lạc nào đó dễ thấy trong một kiểu văn bản nhất định (báo chí, hợp đồng…), hoặc trong thế đối sánh với liên kết, nên họ không chú trọng đến việc đi sâu vào một loại mạch lạc nhất định nào đó. Các luận án, báo cáo khác thì tập trung vào mạch lạc trong một tác phẩm nhất định (Truyện Kiều), hoặc ứng dụng của mạch lạc vào dạy văn ở phổ thông; chính vì thế họ cũng không chú ý đến việc đi sâu vào các vấn đề lí thuyết của mạch lạc. Về lịch sử nghiên cứu ngụy biện, có một số mốc đáng chú ý sau: - Trước thế kỉ XX, ngụy biện là vấn đề thuần túy logic học, trong đó các tiền đề không bổ trợ cho kết luận. Vì thế, đó là một lỗi lập luận. - Trong thế kỉ XX, tiếp tục quan điểm trên, trường phái Amsterdam cho rằng ngụy biện là một lỗi lập luận trong hội thoại, và sử dụng nhiều phương pháp phân tích hơn so với trước đây. - Nghiên cứu của Hamblin (1970) mang tính bước ngoặt, chỉ ra được các hạn chế của cách tiếp cận trên. Hamblin cho rằng “Ngụy biện là một luận cứ có vẻ như có hiệu lực, nhưng thực ra là không”. - Sau Hamblin, các nhà nghiên cứu ngụy biện nhấn mạnh vào hướng nghiên cứu dụng hành – tương thoại, cho rằng ngụy biện là một vấn đề của giao tiếp chứ không phải của logic thuần thúy. Về việc nghiên cứu ngụy biện tại Việt Nam, trong các giáo trình chính thức về logic học (“Logic học đại cương” – Tô Duy Hợp; “Nhập môn về Logic hình thức & Logic phi hình thức” - Nguyễn Đức Dân,…) vẫn tiếp cận ngụy biện theo hướng “cổ điển” trước thế kỉ XX. Họ chỉ dừng lại ở việc nêu ra một vài loại ngụy biện thường có mà không đưa ra các cơ sở lí thuyết để biện giải chúng; cũng như chưa tiếp cận các lí thuyết đương đại về ngụy biện. 7 Nhìn chung, qua việc liệt kê về các hướng nghiên cứu gần đây, ta thấy rằng ngụy biện và mạch lạc có khá nhiều điểm tương đồng, đều nhấn mạnh vào khía cạnh phải phân tích dựa trên mối liên hệ giữa người nói và người nghe; kết hợp tri thức của nhiều ngành chứ không chỉ riêng ngôn ngữ học và logic học. 3) Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn này là kết hợp các thành tựu trong nghiên cứu mạch lạc và ngụy biện gần đây để đưa ra kiến giải sâu hơn về mạch lạc trong lập luận. Từ mục đích chính đó, chúng tôi có các mục đích cụ thể sau: a) Xác định tiêu chí nhận diện mạch lạc như là quá trình điền vào khoảng trống hay các điểm gián đoạn trong giải thuyết. b) Kết hợp các lí thuyết để thấy được mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc. c) Đi sâu vào từng loại ngụy biện để khẳng định lại mối quan hệ trên. d) Khảo sát trên các văn bản của báo chí để làm rõ và kiểm chứng lại hệ thống trên. 4) Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là mối liên hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một luận cứ. Ngoài việc chỉ rõ mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện về mặt lí thuyết; chúng tôi còn ứng dụng lí thuyết đó vào nghiên cứu cụ thể một số văn bản của báo chí. Lí do chúng tôi chọn các văn bản trên vì đây là nghiên cứu liên quan đến ngụy biện và mạch lạc logic nên phải phân tích trên các văn bản có các luận cứ cũng như có bối cảnh rõ ràng. 5) Phương pháp nghiên cứu 8 Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp phân tích nội dung để khảo sát các luận cứ. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp đặc trưng của phân tích diễn ngôn (sẽ được trình bày cụ thể ở chương 1, phần Nội dung của luận văn). Đối với việc khảo sát và phân tích các loại ngụy biện, chúng tôi sẽ trình bày phương pháp cụ thể hơn trong chương 1, phần Nội dung của luận văn. 6) Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận này được cấu trúc làm ba chương. Trong đó chương 1 nhằm giải quyết các vấn đề mang tính lí thuyết về khái niệm mạch lạc, ngụy biện, mối quan hệ giữa chúng. Sau đó, nhằm triển khai cụ thể, chương 2 sẽ đi sâu vào nghiên cứu về mạch lạc trong một số loại ngụy biện thuộc nhóm viện dẫn; chương 3 sẽ đi sâu vào nghiên cứu mạch lạc trong một số loại ngụy biện phi hình thức (informal) khác. Trong chương 2 và 3, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát trên từng loại ngụy biện. Với mỗi loại ngụy biện, sẽ bao gồm: phần giới thiệu về loại ngụy biện; ví dụ và ngữ cảnh của nó; và phân tích mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong luận cứ đó. Cụ thể hơn như sau: Chương 1: Cơ sở lí luận 1.1 Lịch sử vấn đề 1.1.1. Mạch lạc 1.1.2. Ngụy biện 1.2. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong một luận cứ 1.3. Quan điểm của Walton về luận cứ trong truyền thông 9 1.4. Tiểu kết chương 1 Chương 2: Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một số ngụy biện thuộc nhóm viện dẫn (Ad) 2.1. Ngụy biện tấn công cá nhân 2.2. Ngụy biện viện dẫn thẩm quyền 2.3. Ngụy biện viện dẫn điều bất khả tri 2.4. Ngụy biện viện dẫn lòng thương Chương 3: Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một số ngụy biện phi hình thức khác 3.1. Ngụy biện hình nhân thế mạng 3.2. Ngụy biện nước đôi 3.3. Ngụy biện loại suy sai 3.4. Ngụy biện dốc trơn 10 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Lịch sử vấn đề 1.1.1 Mạch lạc Dù chưa có một lịch sử nghiên cứu lâu đời (mạch lạc mới bắt đầu được chú trọng nghiên cứu từ nửa sau thế kỉ XX), nhưng việc nghiên cứu mạch lạc đã có nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Ở đây, chúng tôi tạm chia nghiên cứu mạch lạc là hai giai đoạn: giai đoạn 1 – giai đoạn “mạch lạc” trong mối quan hệ với “liên kết”, và giai đoạn 2 – “mạch lạc” trong phân tích diễn ngôn. 1.1.1.1 Giai đoạn 1 Trong giai đoạn này có những quan điểm đáng chú ý sau: - Haliday và Hasan Hai tác giả này có công trình “Cohesion in English” xuất bản lần đầu năm 1976. Dù trọng tâm của nghiên cứu này không phải là mạch lạc nhưng chúng ta có thể thấy phần nào quan điểm của hai tác giả về mạch lạc. Theo hai tác giả thì mạch lạc là “tập hợp những quan hệ có ý nghĩa dùng chung cho mọi văn bản, phân biệt văn bản với phi văn bản, và làm phương tiện phát hiện liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về nội dung giữa các mảnh đoạn cụ thể. Mạch lạc không nêu văn bản thông báo cái gì; mà nêu văn bản được tổ chức thành chỉnh thể ngữ nghĩa như thế nào”. Từ đó, hai tác giả triển khai khái niệm mạch lạc cụ thể hơn (trong mối quan hệ của mạch lạc với liên kết và ngữ vực): “Khái niệm liên kết, do đó có thể được bổ sung hữu ích bằng 11 ngữ vực (register), vì hai khái niệm này phải cùng nhau thì việc xác định một văn bản mới hữu hiệu. Một văn bản là một khúc đoạn của diễn ngôn có nối kết trong cả hai cách nhìn đó; nó là mạch lạc, đối với ngữ cảnh tình huống; và do đó nó nhất quán trong ngữ vực; và nó có mạch lạc đối với chính nó, và do đó nó có liên kết”. Từ quan điểm trên, chúng tôi thấy rằng, với hai tác giả này, thì mạch lạc vừa có phân biệt với liên kết, lại vừa như thuộc về liên kết. Mạch lạc cùng với liên kết giúp cho một khúc đoạn lời nói trở thành một văn bản. Hay nói một cách đơn giản, mạch lạc và liên kết là hai điều kiện tạo thành chất văn bản (texture); cái gì tạo thành chất văn bản mà không phải liên kết (bằng các phương tiện ngôn ngữ giữa các câu) thì là mạch lạc. Nhưng theo Galperin, tuy hai tác giả này có ý đồ hình thức hóa các phương tiện mạch lạc, nhưng ”trong công trình này vẫn có nhiều điều được đề xuất ở bình diện ngữ pháp chứ không phải bình diện văn bản”. Nhận xét này có hơi nặng nề, nhưng có phần đúng vì hai tác giả thường quá chú trọng vào việc phân tích đại từ, mối quan hệ giữa các vế câu trong khi đưa ra ví dụ về mạch lạc. - Galperin Galperin (1978) trong công trình “Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học” có một chương bàn riêng về “Mạch lạc”. Tác giả định nghĩa mạch lạc là ““Mạch lạc là những hình thức liên kết riêng biệt, đảm bảo thể liên tục, nghĩa là sự liên tục logic (về mặt thời gian và không gian), sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các thông báo cụ thể, sự kiện, hành động cụ thể,…” Tác giả đi sâu vào việc phân tích (một cách triệt để) mạch lạc trong các ví dụ cụ thể (gồm một văn kiện ngoại giao, một bài báo, một vài tác phẩm văn 12 học). Sau đó, bằng cách tổng kết từ việc phân tích, tác giả đưa ra một loại mạch lạc nào đó. Nhìn chung tác giả lần lượt đưa ra một số loại mạch lạc sau: mạch lạc bằng phương tiện ngữ pháp hình thức, mạch lạc theo phạm vi quan hệ thời gian, mạch lạc giãn cách, mạch lạc liên tưởng, mạch lạc phương tiện logic, mạch lạc liên tưởng, mạch lạc bố cục – kết cấu, mạch lạc tu từ, mạch lạc tạo tiết điệu. Chúng tôi thấy rằng, trong một loạt khái niệm tác giả đưa ra, không có một sự thống nhất chung, hay là một tiêu chí chung nào đó để đánh giá mạch lạc. Chính vì thế mà tác giả cũng tự thấy rằng “Chương “Mạch lạc” đã thực hiện ý đồ cụ thể hoá “ở chừng mực nào có thể được” - Trần Ngọc Thêm / Đỗ Hữu Châu Trần Ngọc Thêm trong “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” (1985) có đưa ra một khái niệm “liên kết nội dung” nhưng không có một định nghĩa rõ ràng. Ông chỉ ra rằng “liên kết nội dung” rộng hơn “liên kết ngữ nghĩa” vì nó nhấn mạnh nhiều hơn đến các nhân tố ngoài ngôn ngữ. Đỗ Hữu Châu cũng đề cập đến “liên kết nội dung” và cũng chia thành “liên kết chủ đề” và “liên kết logic”. Trong đó ông định nghĩa liên kết chủ đề xảy ra khi “các câu cùng ứng với một vật quy chiếu”, còn liên kết logic là “sự tổ chức sắp xếp ngữ nghĩa sao cho phù hợp với thực tế khách quan, với nhận thức của con người” (nhưng thế nào là phù hợp với thực tế khách quan, thế nào là phù hợp với nhận thức con người thì không thấy tác giả làm rõ). Nhìn chung, thuật ngữ “liên kết nội dung” của hai tác giả này rất gần với “mạch lạc”. Nhưng khi triển khai sâu hơn khái niệm này, cả hai tác giả đều dựa hoàn toàn vào cái nền là “liên kết”. Theo chúng tôi, mạch lạc là một khái niệm rộng hơn liên kết rất nhiều, vì thế nghiên cứu của hai tác giả này về “liên kết nội dung” còn nhiều hạn hẹp, nếu so với “mạch lạc”. - Diệp Quang Ban 13 Diệp Quang Ban trong “Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản” (2009) định nghĩa về mạch lạc như sau “Mạch lạc là sự nối kết có tính chất hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức năng, được trình bày trong quá trình triển khai một văn bản, nhằm tạo ra những sự kiện nối kết với nhau hơn là sự liên kết giữa câu với câu”. Trong tác phẩm này, tác giả đã tương đối thành công trong việc chỉ ra các biểu hiện cụ thể của mạch lạc cũng như phạm vi tác động của các biểu hiện đó với văn bản. Tám biểu hiện mà tác giả nêu ra là (xin trình bày lại dưới dạng tóm tắt) (1) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ giữa các từ ngữ trong câu (2) Mạch lạc trong quan hệ giữa các đề tài - chủ đề của các câu (3) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ giữa các phần nêu đặc trưng ở những câu có quan hệ nghĩa với nhau (4) Mạch lạc biểu hiện trong trật tự hợp lí giữa các câu (hay các mệnh đề) (5) Mạch lạc theo kiểu quan hệ suy kết (6) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ ngoại chiếu (7) Mạch lạc trong quan hệ thích hợp giữa các hành động nói (8) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ lập luận Trong tám biểu hiện trên, dễ thấy biểu hiện (1) không thuộc về các biểu hiện của mạch văn bản (mà chỉ là mạch lạc của câu), biểu hiện (8) là một phần của biểu hiện (4) (do Diệp Quang Ban có sự phân chia mạng mạch và mạch lạc, nên phải tách ra làm hai biểu hiện như vậy). Các biểu hiện mạch lạc văn bản của Diệp Quang dù tương đối hoàn thiện, nhưng vẫn có thể bổ sung thêm, cũng như hệ thống hoá các biểu hiện này lại. 14 1.1.1.2. Giai đoạn 2 Các nhà khoa học ngày càng nhận thấy mạch lạc là một vấn đề rất khác so với liên kết, và nó còn liên quan đến nhiều vấn đề ngôn ngữ học và ngoài ngôn ngữ học khác. Vì thế, cùng với sự phát triển của phân tích diễn ngôn, ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học nhân học, việc nghiên cứu mạch lạc có nhiều hướng mới. Đáng chú ý là ba hướng tiếp cận sau - Giải thuật chức năng giao tiếp Các nhà ngôn ngữ thấy rằng việc trả lời câu hỏi “Tại sao các phát ngôn này gắn kết với nhau?” nếu chỉ dựa vào các dấu hiệu hình thức của ngôn ngữ thì sẽ gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như: A: Mấy giờ rồi? B: Vâng, người đưa thư vừa đến rồi. (1) Rõ ràng là không có dấu hiệu liên kết hình thức giữa 2 câu trên, nhưng có thể hiểu được hai câu đó có mối liên hệ với nhau. Đặc biệt từ sau khi lí thuyết hành động ngôn từ ra đời, các nhà ngôn ngữ học hướng việc giải thích mạch lạc vào “các hành động được thực hiện bởi các phát ngôn đấy” (Labov) thay vì bản thân các phát ngôn. Các nhà khoa học theo hướng này thường phân tích các đoạn hội thoại như trên, nhằm chỉ rằng các cấu trúc tương tác xã hội phi ngôn ngữ đã làm nên sự mạch lạc trong diễn ngôn. Điển hình của hướng tiếp cận này là quan điểm của Green (1980) với lí thuyết cộng tác. Ông cho rằng “Một văn bản mạch lạc là một cái gì mà tại đó người giải quyết có thể tái tạo không mấy khó khăn cái dàn ý của người nói một cách chắc chắn là hợp lí, [tái tạo] bằng cách suy đoán những mối quan hệ giữa các câu và những mối quan hệ cá thể của chúng với các mục đích khác nhau trong dàn ý đã được suy đoán ra đó so với toàn bộ những điều đã nhận thức được có trong tay” 15 Cụ thể hơn, ông chỉ ra rằng “… đối với vấn đề cái gì nối kết các câu riêng lẻ với nhau trong một văn bản đích thực, chứ không văn bản giả mạo, là cách tiếp cận căn cứ vào việc nhận thức được rằng chuỗi câu đang bàn được sản xuất ra bởi một cá nhân phù hợp với nguyên tắc cộng tác, và như hệ quả, mỗi câu đều có dụng ý nói ra một cái gì cần thiết, đúng và thích đáng với việc thực hiện một mục tiêu nào đó, mà đối với nó (cái được cùng tin) người tạo ra văn bản và người tiếp nhận đã được định trước cùng đều quan tâm.” (dẫn theo Diệp Quang Ban) Green bằng nhiều ví dụ, chỉ ra rằng, mạch lạc văn bản không phải vấn đề đặc trưng của văn bản, chỉ nằm gọn trong văn bản, mà còn ở người tiếp nhận văn bản, những người mà sẽ bằng mọi cách suy đoán để tạo ra một dàn ý có thể chấp nhận được cho văn bản. Như thế, giữa người tiếp nhận và người tạo lập có một “sự cộng tác” để lập “dàn ý” cho văn bản, đảm bảo mục đích giao tiếp. Hướng tiếp cận này đi sâu vào các hội thoại, lập ra các mô hình hội thoại trên cơ sở xem xét con người tương tác với nhau như thế nào. Thế nhưng càng lập ra các mô hình phức tạp, các nhà nghiên cứu càng khó khăn trong việc ứng dụng các mô hình lí thuyết đó vào thực tiễn phân tích diễn ngôn. Đúng như Levison nhận xét: “Nếu khảo sát qua loa bản ghi âm hội thoại, thì rõ ràng là chúng ta không biết làm thế nào để ấn định hành vi lời nói một cách phi võ đoán.” - Kiến thức nền Một hướng giải thích khác cho việc các phát ngôn “chẳng có gì liên quan đến nhau” lại mạch lạc trong một diễn ngôn là việc người nói/viết đã giả định rằng người nghe/đọc có cùng chung một lượng “kiến thức nền” nào đó với mình, vì thế không cần thiết phải trình bày những kiến thức nền đó lên 16 trên bề mặt ngôn ngữ. (Ví dụ ở (1); cả hai đều có chung một kiến thức về việc A quan tâm đến người đưa thư đến vào thời điểm nào, vì thế câu hỏi và trả lời mạch lạc với nhau). Vì vậy việc nghiên cứu mạch lạc đồng nghĩa với việc nghiên cứu người tạo ra phát ngôn đã xây dựng kiến thức nền thế nào, và người tiếp nhận phát ngôn đã “truy cập” vào bộ kiến thức đó thế nào để rút ra những kiến thức cần thiết cho việc giải thuyết diễn ngôn đó như thế nào. Từ đó, các nhà khoa học đi sâu vào ngành ngôn ngữ học thần kinh và trí tuệ nhân tạo để giải thích tính mạch lạc trong diễn ngôn. Các khái niệm thường được sử dụng để nghiên cứu kiến thức nền là “khung”, “kịch bản”, “kịch văn”, “đồ hình”. Đây cũng chính là những khái niệm quan trọng trong ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics) hiện nay. - Mạch lạc như là “luận suy” Nếu như quan điểm giải thuật chức năng giao tiếp chú trọng đến sự tương tác giữa những người tham gia hội thoại; quan điểm về kiến thức nền chú trọng đến vai trò của người tạo lập văn bản cũng như quá trình anh ta tạo lập văn bản; thì ở quan điểm này sẽ chú trọng đến vai trò của người tiếp nhận văn bản. Chúng ta cùng xem xét ví dụ: “Xe đang đi trên đường. Lốp đột nhiên bị thủng.” (2) “Cô ấy bán căn nhà. Số tiền đó đủ tiêu vài năm mới hết.” (3) Để hai câu trên mạch lạc với nhau, chúng ta phải có thêm một mối liên kết vắng mặt. Với (2) thì đó là “mọi cái xe đều có lốp” và với (3) là “việc bán liên quan đến tiền bạc”. Việc “điền thêm” mối liên kết ở đây có vẻ hiển nhiên và rất đơn giản, nó có thể dễ dàng được giải thích từ quan điểm “kiến thức nền”, vì đó là những điều mà tất cả mọi người đều cùng biết với nhau. Nhưng chúng ta thử đến với ví dụ tiếp đây: “A: Lạnh quá! 17 B: Để tôi đóng cửa sổ cho” (4) “Tôi chuẩn bị bữa trưa. Món canh rất nóng” (5) Ở (4) (5) mối liên kết vắng mặt phức tạp hơn ở (2) và (3). Với (4), mối liên kết vắng mặt phải được diễn giải như sau “A cho rằng trời lạnh là do cửa sổ chưa đóng và B, sau khi nghe A nói, liền nghĩ đó là lời gợi ý cho B nên đi đóng cửa sổ lại”. Với (5) người đọc/nghe phải giả định là “trong bữa trưa có món canh”. Trong hai ví dụ này, người nghe/đọc phải mất một khoảng thời gian để tạo ra/xử lí mối liên kết này. Như vậy chúng ta có hai kiểu “mối liên kết vắng mặt”. Một là “mối liên kết tự động”, trong đó, người nghe/đọc có thể “điền thêm” mối liên kết đó một cách dễ dàng và không mất thời gian. Người nghe/đọc có thể làm việc đó là do nó thuộc về “kiến thức nền” về thế giới. Hai là, “mối liên kết không tự động”, trong đó, người đọc/nghe phải mất thời gian để đưa ra một giả định bắc cầu nhằm nối kết các câu lại với nhau. Việc “điền thêm” những mối liên kết vắng mặt không tự động này là một hành động “luận suy” (inference) – quá trình người đọc/nghe đi qua để có được từ nghĩa đen của người nói/viết đến đến điều người nói/viết định chuyền tải. Vì vậy, việc các câu có mạch lạc với nhau hay không là nằm ở khả năng “luận suy” của người đọc/nghe. Việc “luận suy” này không xuất phát từ mối liên kết từ vựng, không xuất phát từ “kiến thức nền” chung giữa người nói/viết và người nghe/đọc, mà xuất phát từ ngữ cảnh và nằm ở từng cá nhân người nghe/đọc. (Ngữ cảnh là một khái niệm rất rộng trong phân tích diễn ngôn. Ngữ cảnh, nói một cách khác, là môi trường hoạt động của hệ thống kí hiệu ngôn ngữ. Theo Nguyễn Hoà, ngữ cảnh có thế là kiến thức nền (văn hoá, xã hội) là tình huống, hay chính là văn bản. Ngữ cảnh có liên quan đến ba mô hình giao 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan