Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa cung tiền, lãi suất, thanh khoản và giá chứng khoán ở việt nam ...

Tài liệu Mối quan hệ giữa cung tiền, lãi suất, thanh khoản và giá chứng khoán ở việt nam và khu vực asean

.PDF
94
131
134

Mô tả:

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH Ở bài nghiên cứu này tác giả cho rằng CBFS thường bị bỏ qua trong quá khứ mà đặc biệt là trong giai đoạn ổn định về tài chính. Tuy nhiên, các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm gần đây tranh luận rằng các NHTW cần duy trì một mức độ vừa đủ về sức mạnh tài chính để thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả và để đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ cho nên trong bài nghiên cứu này, tác giả tập trung kiểm định mối quan hệ thực nghiệm giữa CBFS và lạm phát ở các quốc gia mới nổi và các quốc gia phát triển bằng cách sử dụng dữ liệu bảng không cân đối cho chọn mẫu thử. Và từ đó, họ thấy rằng có một mối quan hệ nghịch biến và có ý nghĩa thống kê giữa CBFS và lạm phát. Ngoài ra, tác giả nhấn mạnh rằng kết quả mà họ đề suất rằng việc tránh tổn thất kéo dài và việc duy trì sự lành mạnh trong bảng cân đối kế toán của NHTW sẽ trở thành một điều kiện quan trọng trước tiên cho các kết quả mong muốn từ chính sách của NHTW. Mục lục Tóm tắt .............................................................................................................. 1 Giới thiệu .................................................................................................................. 2 1.Tổng quan nghiên cứu trước đây. .......................................................................... 5 1.1. Lý thuyết về CBFS. .................................................................................... 5 1.2 Mối quan hệ lạm phát và CBFS. ................................................................ 7 1.3 Tổng quan các nghiên cứu ........................................................................ 11 1.4 Lựa chọn mẫu. .......................................................................................... 17 1.5 Các biến và mô hình. ................................................................................ 21 1.6 Phương pháp ước lượng ........................................................................... 27 2.Các kết quả thực nghiệm và nghiên cứu .............................................................. 36 2.1. Thống kê mô tả và bằng chứng sơ bộ....................................................... 36 2.2. Mô hình ước lượng ................................................................................... 37 3.1. Lựa chọn mẫu ........................................................................................... 48 3.2. Các biến quan sát ...................................................................................... 50 3.3. Mô hình .................................................................................................... 53 3.4. Các kết quả thực nghiệm và thảo luận: .................................................... 57 3.4.1. Thống kê mô tả và bằng chứng sơ bộ: ............................................... 57 3.4.2. Mô hình ước lượng ............................................................................. 59 3.5. Kết luận .................................................................................................... 73 3.6. Ưu điểm và Hạn chế ................................. Error! Bookmark not defined. 1 Tóm tắt Ở bài nghiên cứu này tác giả cho rằng CBFS thường bị bỏ qua trong quá khứ mà đặc biệt là trong giai đoạn ổn định về tài chính. Tuy nhiên, các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm gần đây tranh luận rằng các NHTW cần duy trì một mức độ vừa đủ về sức mạnh tài chính để thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả và để đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ cho nên trong bài nghiên cứu này, tác giả tập trung kiểm định mối quan hệ thực nghiệm giữa CBFS và lạm phát ở các quốc gia mới nổi và các quốc gia phát triển bằng cách sử dụng dữ liệu bảng không cân đối cho chọn mẫu thử. Và từ đó, họ thấy rằng có một mối quan hệ nghịch biến và có ý nghĩa thống kê giữa CBFS và lạm phát. Ngoài ra, tác giả nhấn mạnh rằng kết quả mà họ đề suất rằng việc tránh tổn thất kéo dài và việc duy trì sự lành mạnh trong bảng cân đối kế toán của NHTW sẽ trở thành một điều kiện quan trọng trước tiên cho các kết quả mong muốn từ chính sách của NHTW. 2 Giới thiệu Trong một khoảng thời gian dài trước đây, tài chính NHTW đã không được coi trọng1 vì một số nguyên nhân sau đây: o Một mặt, mọi người từng nghĩ rằng NHTW về cơ bản khác với doanh nghiệp tư nhân và do đó họ không cần yêu cầu bất cứ sức mạnh tài chính nào o Mặt khác, một số quan điểm cho rằng NHTW không bị giới hạn và có khả năng không tốn chi phí trong việc phát hành nội tệ, cục ngân khố luôn đứng sau NHTW với quyền lực của mình theo luật định thuế  NHTW bị hiểu lầm là 1 định chế tài chính vững mạnh, không thể sụp đổ o NHTW không quan trọng với nền kinh tế vĩ mô, nó có yếu kém hay không cũng không ảnh hưởng đến việc đạt được các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trong vòng vài thập niên vừa qua, hệ thống NHTW đã trải qua nhiều thay đổi quan trọng (Sweidan, 2011). Một mặt, do ngày càng độc lập, NHTW đã có nhiều quyền lực hơn trong việc ban hành các chính sách. Hơn thế nữa, vai trò của NHTW ngày nay tập trung nhiều vào các chính sách ổn định vĩ mô, đặc biệt là các mục tiêu ổn định tài chính (Goodhart,2011). Mặt khác, cũng trong vài thập niên ấy, rất nhiều NHTW đã phải trải qua những khó khăn tài chính do thất bại nặng nề trong việc điều hành hoạt động và định giá. Cụ thể, NHTW của các nước mới nổi đã thể hiện sự suy giảm trầm trọng này lên các bảng cân đối kế toán của họ2. Những khó khăn tài chính này đã làm gia tăng các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến việc tiến hành chính sách tiền tệ của NHTW và hiệu quả của các chính sách này. Đặc biệt, các nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù những thay đổi nhỏ hay những chuyển biến nhất thời ở trong các điều kiện tài chính của NHTW là không đáng kể, tuy nhiên những vấn đề tài chính quan trọng khi bị thay đổi sẽ làm suy giảm khả năng thực hiện chính sách cũng như hạn chế sự chọn lựa các chính sách sẵn có của một NHTW. 2 Ở châu Mỹ Latinh, châu Á, châu Phi, Đông Âu và Trung Âu, NHTW đã phải đối mặt với sự khủng hoảng tài chính nghiêm trọng (Stella và Lonnberg, 2008). Ngoài ra, nhìn chung thì các nước mới nổi phải đối mặt với những thiệt hại lớn(Sweidan và Maghyereh, 2006). 3 Quan trọng hơn là điều kiện tài chính yếu kém sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của các chính sách mà NHTW đưa ra3. (Cukierman, 2008; Stella, 1997,2008) Chính vì sự bỏ qua CBFS này đã dẫn đến một vài hậu quả xấu cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến tính hiệu quả của hệ thống NHTW cũng như là các chính sách tiền tệ.(Sweidan, 2011). Do đó, các điều kiện tài chính của NHTW đã được quan tâm nhiều hơn trong những tài liệu gần đây. Với sự phát triển trong hệ thống NHTW như hiện nay, để giảm thiểu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thì một bảng báo cáo tài chính rõ ràng và lành mạnh được xem là khá quan trọng và cần thiết (Dalla Pellegrina và cộng sự 2013). Tuy nhiên, mặc dù CBFS và việc thực thi các chính sách của nó gần đây đã được đánh giá là một vấn đề quan trọng nhưng lĩnh vực này phần lớn vẫn chưa được nghiên cứu sâu rộng. Một mặt, như Jeanne and Svensson(2007) đã nói, trong khi những người đứng đầu NHTW dường như không quan tâm đến vấn đề này thì nó cũng không được nghiên cứu nhiều trong các tài liệu học thuật. Mặt khác, mặc dù có một vài bài nghiên cứu về vấn đề này, ví dụ như là Ize(2007) và Stella(2005,2008) cho thấy rằng tài chính NHTW yếu kém sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tính hiệu quả của việc thi hành những chính sách, tuy nhiên thì mối quan hệ giữa CBFS và hiệu quả các chính sách vẫn chưa được rõ ràng và đang còn nhiều tranh cãi . Điều này một phần là do số lượng bằng chứng kinh tế về mối quan hệ này vẫn còn khá ít ỏi (Kluh và Stella, 2008). Trong bối cảnh đó, sự thiếu sót tồn tại trong các nghiên cứu về CBFS và kết quả các chính sách là động lực chủ yếu thúc đẩy tác giả nghiên cứu sâu về vấn đề này. Thực tế các bài nghiên cứu trước đây như (Sweidan và Maghyereh, 2006) đã cho thấy rằng NHTW của các nước mới nổi còn khá nhiều lỗ hổng và yếu kém. Sự yếu kém này là do điều kiện tài chính của các NHTW và sự độc lập của chính ngân hàng đó phần lớn là có liên quan với nhau (Cukierman, 2008). Hơn nữa rõ ràng là CBFS của một quốc 3 Sức mạnh tài chính cũng rất quan trọng để duy trì sự độc lập và uy tín của NHTW (Cargill, 2006; Sweidan và Maghyereh, 2006) và để tránh vỡ nợ kỹ thuật tiềm ẩn (Stella và Lonnberg, 2008 ). 4 gia phần lớn đã bị ảnh hưởng bởi chính chế độ tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ áp dụng tại chính quốc gia đó4. Chính vì vậy mà bài nghiên cứu này sẽ tập trung giải quyết 4 câu hỏi sau: - Có mối quan hệ nào giữa CBFS và việc kiểm soát lạm phát hay không? -Liệu CBFS có tác động đến toàn bộ việc kiểm soát lạm phát hay không? -Có gì khác nhau giữa các nước phát triển và các nước mới nổi về mức độ độc lập của NHTW hay không? -Chế độ tỷ giá và chính sách tiền tệ khác nhau giữa các quốc gia có ảnh hưởng gì đến mối quan hệ này hay không? Nói tóm lại, thông qua 4 câu hỏi này, tác giả sẽ trình bày kết quả thực nghiệm và cho thấy rằng có một mối quan hệ nghịch biến mạnh mẽ giữa CBFS và lạm phát. Mối liên hệ giữa CBFS và lạm phát không phải do phát sinh từ nội lực hay từ những đặc điểm không ai chú ý của một quốc gia. Điều này đã được thể hiện rõ khi tác giả tiến hành sử dụng nhiều phương pháp ước lượng khác nhau. Kết quả và kết luận về việc nghiên cứu này của tác giả sẽ giúp ích cho các cơ quan có liên quan và đặc biệt là cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế ở các nước mới nổi trong quá trình hoạch định tốt hơn chính sách tiền tệ để tiến hành theo đuổi một nhiệm vụ quan trong đó là ổn định giá cả. Đặc biệt, nghiên cứu của tác giả cho rằng các nhà hoạch định chính sách nên sớm nhận thức sự cần thiết để duy trì sức khỏe tài chính của bảng cân đối kế toán NHTW cho việc ổn định giá cả lâu dài. Cuối cùng, tác giả ngụ ý rằng các biện pháp nhằm giảm tổn thất cũng như gia tăng sức mạnh tài chính của NHTW sẽ giúp giảm lạm phát. 4 Có ý kiến cho rằng các nước mới nổi yêu cầu mô hình riêng biệt vì những vấn đề cơ bản và đặc biệt của chính mình như là các tổ chức tài chính và các chính sách tài chính yếu kém, sự tín nhiệm thấp đối với các tổ chức tiền tệ, hồ sơ xấu liên quan đến việc tiến hành các chính sách tiền tệ, dễ bị tổn thương đối với những thay đổi lớn trong luân chuyển vốn… (Frankel, 2010; Sweidan,2010). Cũng có ý kiến cho rằng các lý thuyết áp dụng cho các quốc gia tiên tiến, phát triển và có kinh nghiệm sẽ không áp dụng được ở các quốc gia mới nổi vì những vấn đề riêng biệt chỉ có ở các quốc gia này. (Sweidan and Widner, 2008). Những lập luận này cho thấy sự cần thiết để ước lượng một mô hình riêng biệt cho các nước mới nổi. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn các đề nghị của trọng tài kinh tế về các điều kiện để áp dụng chính sách tiền tệ và sắp xếp tỷ giá hối đoái cũng như xem xét mức độ độc lập của NHTW trong việc phân tích mẫu con 5 1.Tổng quan nghiên cứu trước đây. 1.1. Lý thuyết về CBFS. Các định chế tài chính phải duy trì một trình độ sức mạnh tài chính thích hợp, nói cách khác một mức độ vốn phù hợp để có thể đương đầu với bất kỳ thiệt hại nào khi đối mặt với các nghĩa vụ (nợ) tài chính. Tuy nhiên, tầm quan trọng sức mạnh tài chính của NHTW là không rõ ràng và cũng không được định nghĩa đầy đủ (Cargill, 2005). Thật vậy, như đã đề cập ở trên, tài chính NHTW đã bị lãng quên trong một thời gian dài do nhiều lý do. Một mặt, mọi người từng nghĩ rằng NHTW về cơ bản khác với doanh nghiệp tư nhân và do đó họ không cần yêu cầu bất cứ sức mạnh tài chính nào (Stella, 1997). Mặt khác, một số quan điểm cho rằng NHTW không bị giới hạn và có khả năng không tốn chi phí trong việc phát hành nội tệ (Goodhart,1999: Greenspan , 1997), cục ngân khố luôn đứng sau NHTW với quyền lực của mình theo luật định thuế (Stella and Lonnberg, 2008), NHTW không có rủi ro của trường hợp không thể trả nợ… đã dẫn đến việc coi nhẹ các điều kiện tài chính của NHTW. Thật vậy, NHTW đã thu được các khoản lợi nhuận truyền thống và chỉ có một trường hợp NHTW bị phá sản5. Mọi người cũng từng cho rằng tài chính NHTW là không quan trọng trong nền kinh tế vĩ mô và vì vậy, dẫu cho, NHTW yếu kém về mặt tài chính, nó cũng không ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu đặt ra. Ví dụ, bất chấp những tổn thất trong thời gian dài, ngân hàng nhà nước Séc đã cáo buộc rằng lạm phát mục tiêu vẫn thành công. Tuy nhiên, NHTW cần phải có sức mạnh tài chính đủ mạnh vì một số lý do như sau . Thứ nhất, giống như các định chế tài chính khác, NHTW có thể chịu các tổn thất do thua lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh và tổn thất thuần do đánh giá gây mất cân bằng bảng cân đối kế toán6. Thứ hai, mặc dù NHTW được đặc quyền tạo ra nợ tiền tệ để đáp ứng các 5 Một số trường hợp, NHTW không thể đáp ứng các chức năng cơ bản của chính mình do khủng hoảng tài chính yêu cầu họ phải thay đổi chính sách để giảm thiểu tổn thất (Stella and Lonnberg, 2008). Trường hợp xấu nhất, NHTW Philippines bị lâm vào tình thế bắt buộc giải thể và sau đó, năm 1993, một tổ chức mới, tức Bangko Sentral ng Philippas (BSP) được thành lập theo “đạo luật NHTW đổi mới 1993”. 6 Khó khăn tài chính có thể phát sinh do một số nguyên nhân như : giảm thuế lạm phát ( thu nhập từ thuế đúc tiền), tiến hành các hoạt động tiền tệ trong các điều kiện khó khăn, can thiệp vào các hoạt động ngoại hối để quản lý tỷ giá hối đoái và gia tăng dự trữ ngoại hối, thực hiện các hoạt động tiền tệ dựa vào chứng khoán NHTW, mua một số 6 nghĩa vụ tài chính, từ góc độ kinh tế vĩ mô, có thể không đáng tin cậy khi phát hành tiền không giới hạn giống như thanh khoản quá mức gây ra các căn bệnh kinh tế vĩ mô bao gồm tăng trưởng nóng và áp lực lạm phát ... Vì vậy, tiền in ấn đem tài trợ cho những tổn thất của NHTW là mâu thuẫn với các mục tiêu của chính sách tiền tệ (Sweidan, 2011). Thứ ba, cục ngân khố hậu thuẫn có thể không phù hợp hoặc không phải một giải pháp đáng tin cậy. Một mặt, cục ngân khố không can thiệp thường xuyên , hay nói cách khác là không đúng thời điểm (Stella and Lonnberg, 2008)7. Mặt khác, sự giúp đỡ của chính phủ (trong các hình thức tái cấp vốn) có thể không phù hợp khi nó liên quan đến việc chuyển giao nguồn lực tài chính cho NHTW (Stella, 1997). Cuối cùng, mặc dù NHTW không phải là một tổ chức hoạt động vì lợi nhuận, nhưng nó không thể thua lỗ liên tục vì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả và sự liên tục các chính sách của NHTW (Sweidan, 2011). Nói cách khác NHTW đòi hỏi phải có một mức độ tài chính nhất định để cam kết các chính sách mục tiêu được đưa ra là đáng tin cậy (Stella, 2005). Sức mạnh tài chính của một NHTW rất khó để đo lường, đặc biệt là khi sử dụng một số chỉ báo tiêu chuẩn riêng lẻ do nó phụ thuộc vào cấu trúc tài sản, chi phí cung cấp dịch vụ tiền tệ, và các sự kiện kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTW (Cargill, 2006). Tuy nhiên, theo truyền thống, tài chính NHTW đã được bàn luận dựa trên mức độ và cấu trúc vốn của NHTW (Stella, 1997). Vì vậy, CBFS chủ yếu được gọi là vốn NHTW. Tuy nhiên, cách đo lường vốn thông thường (đo lường theo kế toán) không cung cấp một thước đo đủ ý nghĩa hay bao quát hơn thước đo CBFS. Điều này là do thuật ngữ sức mạnh tài chính liên quan đến năng lực tài chính tổng thể của NHTW để đạt được các chính sách mục tiêu và do đó, không chỉ đơn giản là một khoản mục trên bảng cân đối kế toán. Hơn nữa, theo Cargill (2005), cấu trúc vốn không xác định tình trạng sở hữu và cũng không hàm ý sự độc lập của NHTW và do đó, là một thước đo CBFS không hiệu quả chủ lượng lớn tài sản có lợi nhuận thấp trong giai đoạn sụt giảm giá trị tài sản và giảm phát kéo dài, thực hiện các hoạt động bán tài chính khổng lồ, quá nhiều lợi nhuận chuyển cho chính phủ... (Ize, 2007; Klüh and Stella, 2008; Stella and Lonnberg, 2008; Sweidan, 2011; Sweidan and Maghyereh, 2006). 7 Trong lịch sử, chính phủ đã không hỗ trợ tài chính kịp thời cho NHTW. Lý do là khó khăn của NHTW có quan hệ mật thiết với khó khăn tài chính và dường như nguyên nhân gốc rễ bắt nguồn từ các hoạt động bán tài chính bị áp đặt bởi cục ngân khố (Stella, 2008). 7 yếu là do sự tồn tại các khoản nợ tiềm tàng. Do đó, vốn thông thường là một số liệu thống kê tóm tắt thiếu sót và gây hiểu nhầm cho CBFS (Stella, 2008). Ngược lại, vốn ròng được coi là chỉ số hiệu quả hơn cho CBFS bởi nó tính vào khoản mục giá trị nhượng quyền của NHTW (giá trị pháp lý đặc biệt của NHTW cho phép in tiền và áp dụng dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại), và xem xét đến quyền và nghĩa vụ ngoài bảng cân đối kế toán của NHTW (Bindseil và cộng sự 2004). Do đó, mặc dù lợi nhuận không phải là mục tiêu chính của NHTW, thì lợi nhuận và các khoản lỗ vẫn là các yếu tố quan trọng quyết định giá trị ròng của NHTW8. Hơn nữa, để xác định chính xác CBFS cần chú ý đến hoạt động của NHTW đặc biệt là khi tài khoản không minh bạch. Cho mục đích này, ‘các khoản mục ròng khác’ (OIN) trên bảng cân đối kế toán của NHTW cho thấy bức tranh phù hợp hơn (Stella, 2008). OIN là mục còn lại sau khi tính đến các mục tài sản ( tài sản nước ngoài , các khoản quyết toán của NHTW, các khoản quyết toán của chính phủ, quyết toán của tổ chức tài chính , và các khoản quyết toán của khu vực tư nhân , vv), và các mục tránh nhiệm pháp lý ( tiền dự trữ , nợ nước ngoài , tiền gửi chính phủ, chứng khoán của nhà chức trách tiền tệ , vv.). Do đó, OIN bao gồm tài khoản đánh giá lại , giá trị ròng , vốn đầu tư ban đầu , dự trữ và tài sản hữu hình , và do đó, gồm các tài khoản phản ánh các khoản lỗ lũy kế hoặc dự trữ 'ẩn' . Mặc dù có những tranh luận rằng OIN gồm những đặc điểm riêng nên không thể so sánh giữa các quốc gia, nhưng chúng ta vẫn mong muốn sử dụng nó vì nó bao gồm những thay đổi định giá và dự trữ, được sử dụng như một chứng khoán đệm để bảo vệ nguồn vốn NHTW(Adler và cộng sự 2012). Trong phần tiếp theo, tác giả sẽ tiếp tục thảo luận về OIN dựa trên những đo lường CBFS với lợi nhuận. 1.2. Mối quan hệ lạm phát và CBFS. Việc đạt được mức lạm phát thấp (liên tục ở mức thấp nhưng là mức lạm phát tích cực), nghĩa là ổn định giá cả, được xem như mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ và do 8 Ví dụ, Cargill( 2006) lập luận rằng có thể coi là định chế tài chính vững mạnh nếu nó kiểm soát các hoạt động hiện tại và tương lai không bị thua lỗ. Ngoài ra, Ize (2007) phân loại NHTW yếu hay mạnh tùy thuộc vào cấu trúc lợi nhuận (lợi nhuận, định giá tạm thời thu nhập ròng và lỗ ròng) 8 đó lạm phát cao sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho sự thất bại của chính sách này. Dù vậy, lạm phát cao lại là một nhân tố làm gia tăng doanh thu của NHTW thông qua thu nhập từ thuế đúc/in tiền hàm ý rằng có một đường truyền tiềm ẩn giữa mục tiêu vượt qua khủng hoảng tài chính của NHTW và kết quả của chính sách. Nói cách khác, một NHTW có thể thiên về việc cho phép mức lạm phát cao hơn để khôi phục những khoản lỗ. Ví dụ, Vaez-Zadeh (1991) đã cho thấy rằng các tài sản không mang lại thu nhập xuất hiện càng nhiều trong bảng cân đối kế toán của NHTW thì động lực thúc đẩy NHTW tạo ra các “vụ nổ lạm phát bất ngờ” nhằm bù đắp cho các khoản lỗ của nó càng mạnh. Điều này ngụ ý rằng tài chính của NHTW yếu ớt thì trực tiếp ảnh hưởng lên kết quả lạm phát. Tuy nhiên, như đã trình bày trong Klüh and Stella (2008), mối quan hệ lý thuyết giữa sức mạnh tài chính NHTW (CBFS) và kết quả kinh tế vĩ mô (lạm phát) vẫn còn là một đề tài đang được tranh luận. Theo Klüh and Stella, ta có thể tranh luận rằng hầu như không xuất hiện mối liên kết giữa các điều kiện tài chính của NHTW, chính sách tiền tệ và kết quả kinh tế vĩ mô; do đó, người ta có thể xem chúng như là những phán đoán không thích hợp. Nhằm xác định những góc nhìn về tính độc lập của CBFS, Klüh and Stella (2008) đã áp dụng hai cách tiếp cận: (i) cách tiếp cận thực tiễn và (ii) xem xét về mặt lý thuyết mối liên kết giữa CBFS và hiệu quả chính sách. Cách tiếp cận thực tiễn nhấn mạnh rằng với sự quan tâm của người đứng đầu NHTW về sức khỏe tài chính các định chế của họ, hạn chế tài chính có tiềm năng làm giảm đi sự gay gắt của chính sách chống lạm phát. Bên cạnh đó, nó có thể dẫn đến các nỗ lực nhằm chuyển chi phí thu hồi lượng thanh khoản vượt trội trong hệ thống tài chính, do đó gây ra một ảnh hưởng đối nghịch lên sự phát triển tài chính. Cùng với đó, một vài động lực chẳng hạn như hành động vụ lợi của các nhân viên NHTW (ví dụ: vì danh tiếng, uy tín và những cơ hội nghề nghiệp trong tương lai của họ) cùng với ý định tạo nên một dòng doanh thu ổn định từ thuế đúc/in tiền, có thể dẫn đến nhân tố CBFS, đặc biệt là trong các quyết định về chính sách tiền tệ. Hơn thế, một bảng cân đối kế toán yếu có khả năng làm suy yếu mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và quyền lực khác, đặc biệt là ảnh hưởng đến độc lập tài chính của NHTW. Dù sao điều này cũng dẫn đến giả định rằng độ mạnh tài 9 chính của NHTW là một sản phẩm phụ của vị thế tài khoá thống trị. Với ý nghĩa đó, một bảng cân đối kế toán yếu của NHTW có thể được xem như là hậu quả hoặc chỉ báo cho một vấn đề cơ bản hơn, nghĩa là sự bất lực của chính phủ trong việc tự tài trợ một cách bền vững. Trong bối cảnh này, Klüh and Stella (2008) tranh luận rằng mối quan hệ thực nghiệm giữa CBFS và hiệu quả chính sách có thể chỉ là giả mạo vì chúng sẽ chỉ đơn thuần phản ánh sự tương quan giữa nguyên nhân thực tế gây ra lạm phát và CBFS. Tuy nhiên, một thử nghiệm gần hơn cho thấy có một mối liên kết mạnh mẽ giữa CBFS và kết quả kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát. Về mặt lý thuyết, đang cố gắng liên kết CBFS với hiệu quả chính sách, thì hữu ích trong việc xác định quan hệ này. Với kết quả đó, qua việc thảo luận các kênh lý thuyết, Klüh and Stella (2008) lần đầu tiên tóm tắt những cách thức mà một NHTW thua lỗ đang có thể sử dụng khi cục ngân khố không bơm vốn vào. Lựa chọn đầu tiên, một NHTW có thể dựa vào những phương pháp có khuynh hướng hạ chi phí của hoạt động tiền tệ. Ví dụ, các NHTW có thể dựa vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu hơn là các công cụ và hoạt động tiền tệ và nó sẽ tương đồng với việc thích ứng các chính sách áp chế tài chính. Một lựa chọn thứ hai là sử dụng khả năng tạo ra tiền của NHTW nhằm chi trả cho các nghĩa vụ. Dù vậy, nếu việc tạo ra thanh khoản dư thừa thông qua in tiền như vậy không được khử sạch , lãi suất trên thị trường tiền tệ sẽ giảm và kích thích áp lực lạm phát tăng thêm. Hơn thế, xét ngược lại, nếu NHTW hút vào thanh khoản thừa tổng thể bằng cách phát hành các chứng chỉ nợ, nó sẽ phải gánh chi phí lãi suất tăng thêm và tiềm tàng sự thua lỗ nhiều hơn. Cho nên các cản trở về mặt tài chính của NHTW có tiềm năng làm giảm sự gay gắt của các chính sách chống lạm phát và cũng làm giảm độc lập tài chính của NHTW, gây nên rủi ro lớn hơn khi can thiệp vào chính sách tiền tệ. Tổng hợp lại, những tranh luận của Klüh and Stella (2008) đã ủng hộ cho quan điểm một NHTW có tình hình tài chính yếu sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc đạt được cân bằng lạm phát thấp thông qua thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Tương tự, Sweidan and Kalaji (2005) tranh luận cách thức chính sách tiền tệ trở nên không hiệu quả khi NHTW thua lỗ hoạt động lớn trong quá trình hoạt động và giới hạn khả năng bù đắp 10 một cú sốc tổng cầu. Sims (2005) cũng tranh luận rằng mối quan tâm về mức độ nguồn vốn của NHTW có thể dẫn đến cân bằng siêu lạm phát tự thực hiện. Điều này xảy ra khi NHTW quan tâm đến thuế in tiền và do đó không dám nâng lãi suất đủ cao để giảm đi số dư tiền danh nghĩa giữa những con đường giá bùng nổ. Mặc dù ảnh hưởng trực tiếp lên lạm phát không được thử nghiệm, Adler và cộng sự (2012) vẫn cho thấy rằng việc xem xét bảng cân đối kế toán tác động đến điều hành chính sách tiền tệ. Đặc biệt, họ tranh luận rằng CBFS có thể là một nhân tố đáng kể giải thích cho độ lệch lãi suất âm lớn so với mức tối ưu. Hơn thế, Jeanne and Svensson (2007) đã kiểm tra cách mà bảng cân đối kế toán liên quan đến NHTW có thể góp phần tạo ra lạm phát kỳ vọng. Theo đó, các mệnh đề cung cấp một nền tảng cho giả định CBFS và lạm phát có quan hệ nghịch biến. Một vài nghiên cứu trước đây cố gắng thử nghiệm mối quan hệ giữa lạm phát và CBFS. Ví dụ, bằng cách cung cấp một vài chứng cứ của nhiều quốc gia, Stella (2005), bài nghiên cứu theo sau bài Stella (2003), cho thấy rằng lạm phát trung bình thì cao hơn ở những quốc gia có NHTW yếu về tài chính. Đặc biệt, lạm phát trung bình ở các quốc gia có NHTW yếu về mặt tài chính thì cao gấp hai lần (23.8%) so với lạm phát trung bình ở những quốc gia có NHTW mạnh về tài chính (11.2%)9. Tương tự, sử dụng một ví dụ và số liệu khác về các khoản thua lỗ của NHTW. Ize (2007) định nghĩa sức mạnh tài chính dựa trên lợi nhuận cấu trúc và cho thấy rằng các quốc gia có NHTW thua lỗ báo cáo mức độ lạm phát cao hơn gần 3 lần so với quốc gia có NHTW có lãi (9.2% so với 3.4% trong năm 2003). Tuy nhiên, bằng chứng kinh tế lượng liên quan đến mối quan hệ giữa lạm phát và CBFS lại cực kỳ giới hạn. Nghiên cứu của Klüh and Stella (2008) xuất hiện như là nỗ lực đầu tiên nhằm mô hình hóa mối quan hệ giữa lạm phát và CBFS trong bối cảnh thực tế. Chẳng hạn sử dụng một mẫu thử ở các nước Mỹ Latin, quanh vùng Caribe và cũng như những vùng lãnh thổ giữa các quốc gia này, họ phát hiện rằng có một mối quan hệ nghịch 9 Các quốc gia có tổng vốn đầu tư và các khoản tiền ròng trong bảng cân đối kế toán của NHTW bị âm vào năm 1992, 1997 và 2004 bị xem như là các NHTW “yếu” và ngược lại tổng các khoản trên dương thì được gọi là NHTW mạnh về tài chính. 11 biến giữa CBFS và hậu quả lạm phát. Tuy nhiên, nghiên cứu của họ còn vài hạn chế, đặc biệt là hạn chế về mặt kiểm tra và số liệu cho một mẫu thử lớn của các quốc gia, buộc họ phải phục thuộc vào dữ liệu ở các vùng ven. Cũng còn các vấn đề tồn đọng về tính hợp lý trong phương pháp ước lượng của họ. Tổng hợp lại, nhằm kiểm định thực nghiệm mối quan hệ nghịch biến giữa CBFS và lạm phát, nghiên cứu của các tác giả đã tập trung vào ba khía cạnh đặc biệt. Đầu tiên, tác giả kiểm chứng mối quan hệ giữa CBFS và kết quả lạm phát bằng cách sử dụng một bộ dữ liệu mảng cho mẫu thử của các quốc gia được lựa chọn. Họ cũng tiến hành ước lượng các mẫu thử phân tán dựa trên các phân loại khác nhau, xem xét mức độ phát triển, mức độ độc lập của NHTW, chế độ chính sách tiền tệ được áp dụng cũng như sự điều hành tỷ giá hối đoái. Thứ hai, nghiên cứu này sẽ tìm kiếm các định thức quan trọng và sâu hơn về lạm phát. Thứ ba, các tác giả đã vận dụng hầu hết các phương pháp xác định phù hợp nhằm thiết lập mối liên kết mạnh mẽ giữa CBFS và lạm phát. 1.3. Tổng quan các nghiên cứu Nhóm chúng tôi đã tìm ra được khoảng 20 Papers (bài đầy đủ) của nhiều tác giả khác nhau nói về những nội dung liên quan đến bài nghiên cứu về sức mạnh tài chính của NHTW. Sau đây chúng tôi xin tóm tắt lại 1 số paper điển hình được sắp xếp theo năm như sau: Năm 1997, Peter Stella trong bài nghiên cứu “Do Central Banks Need Capital” –“Tại sao Ngân hàng Trung ương lại cần vốn” đã đề cập rằng Ngân hàng trung ương các nước thường xuyên phải đối mặt với sự thất thoát điều này gây cản trở cho sự kiểm soát hiệu quả của chính sách tiền tệ. Tài liệu này đề cập đến khái niêm “Nguồn vốn ngân hàng trung ương” và những điều kiện cần thiết mà ngân hàng trung ương cần để cấu trúc tài chính. Mặc dù nguồn vốn ngân hàng trung ương như là quy ước xác nhận nhưng những ngân hàng trung ương yếu kém luôn dẫn tới thất thoát, và tình trạng mất giá như một chính sách đầu tiên, một sự suy tàn trong hệ thống ngân hàng trung ương và các chính sách trong hệ 12 thống tài chính. Các nghiên cứu cũng xem xét các vấn đề liên quan quan trọng trong các ngân hàng trung ương. Đặc biệt, phương pháp kế toán thích hợp trong việc xác định lợi nhuận ngân hàng trung ương, mất mát và các quy định về việc chuyển giao kết quả hoạt động của ngân hàng trung ương cho ngân khố cũng được đề cập. Nó lưu ý rằng phương thức kế toán trình bày khác nhau sẽ phù hợp để giải quyết các câu hỏi khác nhau. Và kết quả, không có một giải pháp có thể đáp ứng tất cả các yêu cầu. Do đó, ngân hàng trung ương cần phải minh bạch một số quan điểm hiện tại bằng cách sử dụng phương pháp kế toán thích hợp, duy trì sự lành mạnh của bảng cân đối kế toán nhằm tránh những khoản tổn thất không đáng có trong hoạt động của mình. Năm 2003, Peter Stella, đề tài nghiên cứu “Why central banks need financial strength” nhằm tìm hiểu “Tại sao NHTW cần sức mạnh tài chính”. Trong bài nghiên cứu tác giả đưa ra câu hỏi “Ngân hàng trung ương có cần vốn không?” và khi các nghiên cứu bắt đầu hình thành thuật ngữ vốn NHTW đã trở thành trở ngại cho những suy nghĩ rõ ràng hơn. Trên thực tế cụm từ này được cung cấp rất ít và nếu có thì chỉ định hướng trong thế giới thực một thế giới mà một số ngân hàng trung ương báo cáo vốn tiêu cực trong hai thập niên liên tiếp nhưng rất sống động và vẫn đi vào hoạt động, nhưng một số NHTW khác có báo cáo tích cực về vốn có thể không đủ khả năng để mua tiền giấy mới và cuối cùng bị khai trừ khỏi ngân hàng quốc gia cho sự thất bại để giải quyết nợ của mình bằng tiền mặt. Do đó các tác giả quyết định tránh sử dụng từ “Vốn” cho những sự phù hợp ở quy mô lớn hơn vì thế đã dẫn đến cụm từ “Thế mạnh tài chính”. Thế mạnh tài chính bao hàm một nghĩ rộng hơn và đầy đủ hơn thể hiện không chỉ lớn mạnh về vốn mà còn về uy tín của NHTW đối với xã hội. Năm 2004, Vikesh Gokal and Subrina Hanif, tác phẩm “Relationship between inflation and economic growth” nghiên cức mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GDP. Với mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là duy trì mức tăng trưởng GDP cao đồng thời kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Tuy nhiên, mục tiêu này khó có thể đạt được vì có một sự đối nghịch giữa lạm phát và tăng trưởng GDP. 13 Trong bài nghiên cứu tác giả xem xét lại các lý thuyết kinh tế khác nhau trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GDP. Các lý thuyết về cung trong kinh tế cổ điển nhấn mạnh nhu cầu cho người tiêu dùng để tiết kiệm và đầu tư nếu nền kinh tế quốc gia phát triển. Học thuyết của Keynes cung cấp mối quan hệ cung cầu, một mô hình toàn diện hơn liên kết lạm phát với sự tăng trưởng. Các trường phái tiền tệ cũng nhấn mạnh về vai trò của tăng trưởng tiền tệ để xác định lạm phát. Bài nghiên cứu cũng tìm hiểu các kết quả thực nghiệm cho thấy rằng mối tương quan nghịch yếu tồn tại giữa lạm phát và tăng trưởng GDP, trong khi luôn có sự thay đổi khoảng cách về đầu cơ của các nhà đầu tư. Tác động giữa 2 biến lạm phát và tăng trưởng GDP đi theo một chiều hướng từ tăng trưởng GDP đến lạm phát. Lạm phát có thể dẫn đến sự không chắc chắn về lợi nhuận tương lai của các dự án đầu tư (đặc biệt là khi lạm phát cao sẽ dẫn đến sự tăng giá. Lạm phát cũng có thể cắt giảm lợi thế cạnh tranh quốc tế của các quốc gia bằng cách làm cho hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt hơn do đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Hơn nữa lạm phát có thể tương tác với hệ thống thuế để ảnh hưởng đến các quyết định vay và mượn. Các công ty có thể phải đánh đổi nhiều nguồn lực để tác động đến lạm phát. Ví dụ, cảnh giác hơn với trong việc điều chỉnh giá của các đối thủ cạnh tranh để thấy rằng nếu có một sự tăng trưởng trong một phần của xu hướng lạm phát trong nền kinh tế hoặc tác động của nên công nghiệp sản xuất. Mục đích nghiên cứu ý nghĩa liên kết giữa lạm phát và tăng trưởng GDP. Một vài bài luận cung cấp một vài sự thật thầm kín bổ ích trong ảnh hưởng của lạm phát lên tăng trưởng. Ưu tiên của lạm phát Fiji trở nên quan trọng, ảnh hưởng đến các yếu tố nội địa ( giá lao động và phạm vi khoảng cách sản lượng) bị hạn chế. Năm 2005, Sweidan, Osama và Fadwa Kalaji trong bài nghiên cứu “The central bank cost constraint and output−inflation variability: a note on Cecchetti and Ehrmann 2000”“Hạn chế chi phí ngân hàng trung ương và sự biến động đầu ra lạm phát: Một lưu ý đối với mô hình của Cecchetti và Ehrmann 2000” đã mở rộng mô hình của Cecchetti và Ehrmann 2000 để nghiên cứu trường hợp của các nước đang phát triển hạn chế trong việc 14 thực hiện chính sách tiền tệ. Trái với mô hình của Cecchetti và Ehrmann 2000, mô hình của cho thấy tồn tại sự hạn chế như hạn chế về chi phí, tức là cho phép các cú sốc tổng cầu ảnh hưởng đến sự thay đổi đầu ra lạm phát. Bài viết này cho thấy sự tồn tại của những hạn chế trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, tức là chi phí chính sách tiền tệ cao dẫn đến hoặc là một biên giới hiệu quả dốc hơn hoặc hiệu quả mơ tưởng. Điều này có nghĩa chính sách tiền tệ không hiệu quả, tác động của nó để bù đắp cú sốc tổng cung và tổng cầu giảm. Phân tích lý thuyết này góp phần làm sáng tỏ trên thực tế các nước đang phát triển thông qua một chương trình điều chỉnh kinh tế với một chính sách tiền tệ bị hạn chế không thể kiểm soát đầu ra và biến động lạm phát hiệu quả. Hơn nữa, cuộc chiến chống lạm phát trong những trường hợp như vậy là cực kỳ tốn kém. Trong khi bằng chứng nghiên cứu rõ ràng cho thấy rằng trường hợp ngân hàng trung ương yếu về mặt tài chính có thể cản trở việc thực hiện chính sách hiệu quả, câu hỏi liệu sức mạnh tài chính của ngân hàng trung ương có ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách hay không vẫn còn gây tranh cãi. Điều này một phần là do thiếu bằng chứng kinh tế lượng. Năm 2005, Peter Stella nghiên cứu đề tài “Central Bank Financial Strength, Transparency, and Policy Credibility” sức mạnh của NHTW, sự minh bạch, sự tin cậy chính sách đã trình bày 3 lý do tại sao vấn đề sức mạnh tài chính bị bỏ qua trong quá khứ. Đồng thời nhấn mạnh sức mạnh tài chính ngân hàng trung ương (sự độc lập tài chính) sẽ góp phần tạo ra uy tín cho các chính sách của NHTW (sự uy tín ảnh hưởng đến kì vọng và do đó có tầm quan trọng sống còn đối với sự hoạch định chính sách). Phương pháp nghiên cứu này là thảo luận về cả giá trị thực nghiệm và lý thuyết của các vấn đề sức mạnh tài chính ngân hàng trung ương. có sử dụng mô hình minh hoạ điểm cho vấn đề tái cấp vốn và do đó để nâng cao sự tín nhiệm các chính sách của NHTW sức mạnh tài chính phải được tăng lên. Năm 2008, Ulrich Klüh and Peter Stella đã trình bày một bước đầu tiên để hướng tới lấp đầy điều thiếu sót này, bằng cách cung cấp một đánh giá định lượng về mối quan hệ giữa các thước đo sức mạnh tài chính ngân hàng trung ương và hiệu quả chính sách, đặc biệt là 15 trong quá trình lạm phát. Họ đã đề cập trong bài nghiên cứu “Central Bank Financial Strength and Policy Performance: An Econometric Evaluation” – “Sức mạnh tài chính của Ngân hàng Trung ương và hiệu quả thực hiện các chính sách: Một đánh giá về kinh tế lượng” đã phát hiện rằng thực sự có một mối quan hệ nghịch biến giữa sức mạnh tài chính ngân hàng trung ương và kết quả lạm phát. Bằng việc sử dụng một tập dữ liệu bảng (Panel data – mô hình GMM) bao gồm 15 quốc gia ở khu vực Mỹ Latinh và vùng Caribbean trong giai đoạn 1987-2005. Đặc biệt, tăng ổn định giá cả đôi khi đi kèm với sự gián đoạn lớn trong lĩnh vực tài chính, với giả định ngân hàng trung ương có một lượng lớn tài sản không minh bạch, tiếp tục làm suy yếu cấu trúc bảng cân đối kế toán của họ. Kết quả kinh tế phù hợp với trường hợp bằng chứng nghiên cứu và cho rằng tài chính ngân hàng trung ương yếu có thể thực sự tác động tiêu cực đến khả năng các nhà hoạch định chính sách đối phó hiệu quả với áp lực lạm phát . Các nhà hoạch định chính sách trong nước hiện đang đối mặt với những khoản lỗ liên tục của ngân hàng trung ương , điều này có nghĩa rằng những nỗ lực để mang khả năng tài chính ngân hàng trung ương trở lại trên một cơ sở an toàn có thể sẽ có chi phí tài chính mà thường đi kèm với nỗ lực tái cơ cấu vốn ngân hàng trung ương. Hơn nữa, các nghiên cứu trong tương lai sẽ phải gỡ rối tốt hơn các cấu trúc phức tạp của nguyên nhân và hiệu ứng chủ yếu là do thiếu sự độc lập của ngân hàng trung ương, khả năng kết hợp với sự chi phối tài chính dẫn đến CBFS thấp, hay CBFS bản thân là một trong những yếu tố quyết định quan trọng về chính trị và độc lập kinh tế. Năm 2009 – 2010, Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Zouhair Chrigui, Younes Boujelbene và Ghrissi Mhamdi, “Central Bank Independent and Inflation” về “Sự độc lập ngân hàng trung ương và lạm phát: Bằng chứng từ các nước mới nổi”. Bài nghiên cứu đo lường các chỉ số về sự độc lập trên pháp lý và trong thực tế của Ngân hàng Trung ương thông qua việc áp dụng phương pháp Cukierman (1992) và Jacome (2001). Tác giả thực hiện một phân tích mô tả và so sánh lạm phát tương đối cho các nước Maghreb được thiết kế để kiểm tra sự giảm xu hướng lạm phát. Tuy nhiên, đóng góp thực sự là nghiên cứu về mối tương quan giữa sự độc lập thực tế và xu hướng lạm phát, được thực hiện trên một 16 mẫu các nước mới nổi với một ước tính bảng trong giai đoạn 1971-2004. Sự độc lập Ngân hàng Trung ương dường như là giải pháp thể chế giúp cải thiện phúc lợi xã hội, nói cách khác nó có thể giải quyết vấn đề xu hường lạm phát (the inflationary bias). Do đó, tác giả đã kiểm tra rằng Tunisia có một vị trí quan trọng liên quan đến cuộc đấu tranh chống lạm phát so với các nước Maghreb khác. Sau đó, trong điều kiện hiệu quả, tác giả đã chắc chắn về sự biến mất của xu hướng lạm phát (the inflationary bias). Cuối cùng, kiểm tra các mối quan hệ nhân quả giữa sự độc lập thực tế, lạm phát và các biến kinh tế vĩ mô khác trong một mẫu bảng của 40 quốc gia mới nổi và đang phát triển đã cho thấy một sự tương quan dương và không có ý nghĩa giữa hai biến, thực tế lạm phát là kết quả của mối tương quan giữa một số biến kinh tế vĩ mô hơn là sự độc lập ngân hàng trung ương dù hợp pháp hay thực tế. Năm 2011, Sami Alpanda và Adam Honig đề cập đến vai trò của sự độc lập của NHTW đối với các chế độ thiết lập mục tiêu lạm phát trong bài nghiên cứu “The impact of central bank independence on the performance of inflation targeting regimes”- “Tác động từ sự độc lập của NHTW đến chế độ thực hiện mục tiêu lạm phát”. Tác giả áp dụng mô hình GMM đối với dữ liệu của 44 quốc gia có nền kinh tế mới nổi và 22 quốc gia phát triển trong giai đoạn 1980-2006 nhằm kiểm nghiệm lợi ích của mục tiêu lạm phát, từ đó đưa đến kết luận rằng một mức CBI thấp có thể khuếch đại được lợi ích của mục tiêu lạm phát tại các quốc gia mới nổi, như thay đổi về thể chế tài chính hoặc cải thiện đáng kể điều kiện kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên về lâu dài, một mức CBI thấp sẽ làm hạn chế các tác động tích cực của mục tiêu lạm phát. Mặt khác, tác giả còn cho rằng bằng cách thắc chặt các khuôn khổ tài chính và tăng cường CBI tại các quốc gia có CBI thấp sẽ góp phần phát huy các hiệu ứng có lợi từ việc áp dụng mục tiêu lạm phát vào nền kinh tế. Năm 2012, Ahmad Jafari Samimi, Saman Ghaderi và Ramezan Hosseinzadeh, Younes Nademi trong bài nghiên cứu “Openness and inflation: New empirical panel data evidence” – “Mở cửa và lạm phát: Bằng chứng thực nghiệm dữ liệu bảng mới” tác giả đã xem xét các giả thuyết của Romer (1993) là lạm phát thấp hơn trong nền kinh tế mở tại những quốc gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1990-1999 và 2000-2009. Bài 17 nghiên cứu này sử dụng 2 phương pháp đo lường mở cửa thương mại: phương pháp truyền thống và phương pháp đo lường mở rộng hơn ở phạm vi toàn cầu hóa nền kinh tế (chỉ số KOF). Bằng cách sử dụng mô hình pooled OLS, Fixed effects model (FEM), random effects modle (REM) cùng với kiểm định Chow and Hausman tác giả đã thấy rằng: Với cách đo lường truyền thống hai nhóm nước và hai giai đoạn chỉ ra rằng có một mối tương quan dương đáng kể giữa mở của thương mại và lạm phát, điều này là mâu thuẫn với giả thuyết Romer (1993). Tuy nhiên , kết quả ước lương khi dùng chỉ số KOF lại phát hiên ra rằng toàn cầu hóa kinh tế hơn sẽ làm giảm lạm phát, điều này thì giống với giả thuyết được chỉ ra bởi Romer (1993). Phương pháp thực nghiệm. 1.4. Lựa chọn mẫu. Tác giả sử dụng các dữ liệu hằng năm cho một nhóm các quốc gia được lựa chọn cho quá trình phân tích thực nghiệm. Việc lựa chọn các quốc gia mẫu và thời kì mẫu phụ thuộc vào tính chất sẵn có cũng như tính chắc chắn và so sánh được của dữ liệu. Mẫu không đồng nhất bao gồm các quốc gia phát triển (Úc, Đức, New Zealand, Singapore, Hàn Quốc và Mỹ), các quốc gia mới nổi đến từ Châu Mỹ Latinh (Argentina, Brazil, Chile và Mexico); các quốc gia Đông Á (Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan) và các quốc gia Nam Á (Ấn Độ, Nepal, Pakistan và Sri Lanka). Tác giả phân loại những đất nước này đều dựa theo một số các điều kiện sau: a) Dựa vào mức độ độc lập của NHTW (CBI), như Các quốc gia có CBI thấp (Argentina, Brazil, Chile, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Hàn Quốc, Sri Lanka và Thái Lan); các quốc gia có CBI cao (Úc, Đức, New Zealand, Singapore, Mỹ, Mexico, Indonesia, Malaysia, Philippines và Anh)10. b) Cách thức quản lý việc thực hiện chính sách tiền tệ, chẳng hạn như các quốc gia có chính sách tiền tệ định hướng lạm phát (Úc, Đức, New Zealand, 10 Sự phân loại dựa trên tỷ lệ thay đổi người đứng đầu NHTW (TOR), chẳng hạn báo cáo TOR trung bình của mỗi nước thấp hơn TOR trung bình của tất cả các nước thì được liệt kê là nước có CBI thấp và ngược lại. Xem Dreher et al, (2008) để hiểu chi tiết hơn ở nhiều nước. 18 Singapore, Mỹ, Mexico, Indonesia, Malaysia và Philippines); các quốc gia có chính sách tiền tệ định hướng không lạm phát (Argentina, Brazil, Chile, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Hàn Quốc, Sri Lanka và Thái Lan). c) Dựa vào sự sắp xếp tỷ giá hối đoái, chẳng hạn như các quốc gia với sự sắp xếp tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn (Úc, Chile, Mexico, Thái Lan và Mỹ) và sự sắp xếp chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi không hoàn toàn bao gồm chế độ cố định và thả nổi có kiểm soát (Úc, Brazil, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Nepal, New Zealand, Pakistan Philippines, Singapore và Sri Lanka). Table 1: Bảng các quốc gia mẫu Quốc gia Quốc gia mới nổi Châu phát triển Mỹ Latinh o New Zealand o Singapore o Hàn Quốc o Đức Đông Á Nam Á o Argentina o Philippines o Ấn Độ o Mexico o Indonesia o Nepal o Brazil o Thái Lan o Pakistan o Chile o Malaysia o Sri Lanka. o Mỹ o Úc Table 2: Bảng tóm tắt phân loại các quốc gia mẫu theo chỉ tiêu cụ thể: Mức độ độc lập CBI CBI của NHTW thấp cao Chính sách tiền tệ Argentina, Brazil, Chile, Ấn Độ, Úc, Đức, New Zealand, Singapore, Nepal, Pakistan, Hàn Quốc, Sri Mỹ, Mexico, Indonesia, Malaysia, Lanka và Thái Lan Philippines và Anh Định hướng Định hướng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan