I. Một số yêu cầu của mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốchội trong công tác xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật
Công tác xây dựng pháp luật ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện nước ta đang chuyển
đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trong quá trình chỉ đạo hoạt động
lập pháp, Đảng ta nhấn mạnh “…phấn đấu trong những năm tới dần dần có đủ các đạo luật điều
chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm định
hướng XHCN; dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc
kinh nghiệm nước ngoài…”1 và cần phải “ Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
của Quốc hội và Chính phủ để bảo đảm tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng luật”2.
Trong các Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng đều tập trung
hướng dẫn các Bộ, nghành làm tốt hơn nữa công tác trình các dự án luật, pháp lệnh do Chính
phủ chuẩn bị trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội3.
2. Xuất phát từ chức năng của Quốc hội và Chính phủ trong bộ máy nhà nước thông qua mối
quan hệ giữa hai hoạt động lập pháp và hành pháp ở Việt nam, Chính phủ xem như chủ thể
chính trong việc soạn thảo, trình các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, hay nói cách khác, sáng kiến lập pháp hiện nay chủ yếu là từ phía Chính phủ (trên
90% các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình). Điều đó khẳng định một thực tế là: trong
điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam, việc hoạch định chính sách cũng như xây dựng, ban
hành các dự án luật, pháp lệnh không phải chỉ có một cơ quan duy nhất, mà là sản phẩm của
mối quan hệ mang tính chất “ cộng đồng trách nhiệm” giữa các chủ thể trình (trong đó có Chính
phủ) và chủ thể ban hành là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Chất lượng lập pháp của chúng ta, theo đánh giá của giới chuyên môn hiện nay là thấp, chất
lượng không cao; nhiều dự án luật, pháp lệnh không khả thi, thiếu thực tiễn v.v…Có nhiều
nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chính là sự phối kết hợp giữa Chính phủ
(các cơ quan của Chính phủ) vói Quốc hội (các cơ quan của Quốc hội) trong quá trình xây dựng
chưa đạt yêu cầu của một chu trình lập pháp khoa học, khách quan và mang tính sáng
tạo.
Qua theo dõi, chúng tôi thấy nguyên nhân trên chính là ” vùng trũng” trong quá trình xây dựng
luật, pháp lệnh hiện nay.
4. Về mặt pháp lý, chúng ta chưa có quy chế ràng buộc lẫn nhau giữa các cơ quan của Chính
phủ với Quốc hội (thông qua các chế tài cụ thể) để quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan
trong mối quan hệ này. Chúng ta có các đạo luật về tổ chức (tổ chức Quốc hội, Chính phủ), các
đạo luật này chỉ quy định thẩm quyền mang tính chất nội dung chứ không phải quy định thể hiện
mối quan hệ mang tính thủ tục trong việc phối hợp dể tăng cường công tác lập pháp. Hiện nay,
chúng ta có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) năm 2002 quy định các thủ
tục, trình tự xây dựng một dự án luật, pháp lệnh, nhưng cũng chưa có một quy định nào khẳng
định mối quan hệ (tôi nhắc lại, mang tính chế tài, nếu các chủ thể không thực hiện thì phải chịu
trách nhiệm gì?). Ví dụ, việc xây dựng chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh không đáp
ứng yêu cầu thực tế dẫn đến các đạo luật được ban hành không có hiệu quả thì ai chịu trách
nhiệm, Bộ, nghành chủ trì, Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hay quốc hội? Nguyên nhân
này làm cho các cơ quan tham gia xây dựng chương trình theo hướng ‘mạnh ai, nấy làm” hoặc
“ngành này có luật, pháp lệnh thì ngành ta cũng phải xây dựng luật, pháp lệnh” v.v…
Từ các yêu cầu trên, đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu kỹ nội dung các mối quan hệ giữa Chính
phủ và Quốc hội trong việc tăng cường hoạt động lập pháp.
II. Nội dung các mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội trong công tác xây dựng pháp
luật
Như trên đã phân tích, Quốc hội và Chính phủ hoạt động theo thẩm quyền do Hiến pháp, Luật tổ
chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ quy định. Trong các quy định của Hiến pháp, luật có
nhiều nội dung liên quan đến thẩm quyền của hai loại chủ thể này mối quan hệ (tại tham luận
này, tôi không nhắc lại thẩm quyền (bao gồm các quy phạm nội dung) của Quốc hội, Chính phủ)
mà chỉ đề cập đến khía cạnh mối quan hệ như là phương thức, cách thức, lề lối làm việc và
trách nhiệm của 2 chủ thể này thông qua các quy định đã có hoặc thực tiễn đã có mà chưa được
quy phạm hoá.
Nội dung mối quan hệ
Có thể liệt kê nhiều nội dung về mối quan hệ giữa 2 chủ thể này trong việc tăng cường hoạt
động lập pháp, nhưng theo cách tiếp cận về mặt chuyên môn, chúng tôi trình bày các nội dung
sau:
1. Mối quan hệ giữa các thành viên Chính phủ với Quốc hội (các Uỷ ban của Quốc hội, UBTVQH
và Đại biểu Quốc hội).
Về lý thuyết, các thành viên Chính phủ do quốc hội phê chuẩn theo giới thiệu của Thủ tướng
Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội (trách nhiệm chính trị) và trách nhiệm trước bộ,
ngành mình với tư cách là Bộ trưởng trước Quốc hội, Chính phủ. Theo đó, Thành viên Chính
phủ phải thực hiện thẩm quyền theo luật định, ngoài ra còn phải chịu trách nhiệm về các hoạt
động chỉ đạo, điều hành cụ thể của mình trong bộ, ngành trước Quốc hội (Quốc hội có thể chất
vấn những vấn đề cụ thể trong điều hành của Bộ trưởng…, kể cả quá trình xây dựng pháp
luật).Thành viên Chính phủ hiện nay được chia thành 2 loại chủ thể (thành viên Chính phủ là đại
biểu Quốc hội; thành viên Chính phủ không là đại biểu Quốc hội). Trong mối quan hệ với Quốc
hội, các thành viên Chính phủ đều có trách nhiệm như nhau về ngành, lĩnh vực mình phụ trách,
nhưng thẩm quyền đầy đủ sẽ thuộc về các thành viên Chính phủ là đại biểu Quốc hội. Bởi lẽ, họ
có thể phát biểu trước Quốc hội với 2 tư cách: Thành viên Chính phủ và Đại biểu Quốc hội.
Từ cách khai thác thẩm quyền trên, trong thực tế cho thấy, các Bộ trưởng đều có trách nhiệm
chính trị cao, làm tốt mọi nhiệm vụ Quốc hội, Chính phủ giao. Trong công tác lập pháp, thì trách
nhiệm này cũng được thể hiện đầy đủ thông qua các hoạt động như thay mặt Chính phủ chịu
trách nhiệm về các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, UBTVQH; trả lời chất vấn về các vấn
đề liên quan đến xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật; về tiến độ, chất lượng các dự án luật,
pháp lệnh…
Hơn ai hết, các thành viên Chính phủ là người thực thi pháp luật, chỉ đạo, điều hành để đưa các
dự án luật, pháp lệnh vào đời sống thực tiễn. Công tác lập pháp chỉ có thể phát huy hiệu quả khi
các dự án luật, pháp lệnh được thực thi trong thực tiễn, thông qua sự chấp hành của Chính phủ,
mà cụ thể là các Bộ, ngành. Tuy nhiên, trong thực tiễn, cũng có lúc, có nơi, việc thực hiện thẩm
quyền này (thẩm quyền của các thành viên Chính phủ là đại biểu Quốc hội) cũng còn hạn chế,
chẳng hạn, khi có ý kiến tại Chính phủ (nếucá nhân Bộ trưởng không được chấp nhận) thì thành
viên Chính phủ (là Đại biểu Quốc hội) có thể phát biểu tại Quốc hội. Đây là việc làm không đúng
với quy chế làm việc của Chính phủ.Theo chúng tôi, đây không phải là lỗi do Bộ trưởng mà là do
cơ chế về đại biểu kiêm nhiệm của chúng ta. Vấn đề này cần được khắc phục trong tương lai.
2. Mối quan hệ trong quá trình xây dựng chương trình
Chúng ta nói nhiều đến việc cần phải có chiến lược xây dựng pháp luật, điều đó hoàn toàn đúng,
và trước hết nó thể hiện trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm, từng khoá của
Quốc hội. Thông thường chương trình là do Chính Phủ xây dựng trên cơ sở tập hợp các Bộ,
ngành đề nghị, sau đó Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ tổng hợp trình Chính phủ, UBTVQH,
Quốc hội.
Thời gian qua, chúng ta chưa có các quy định cụ thể về chương trình xây dựng pháp luật trong
chiến lược xây dựng pháp luật, nhưng chương trình hành năm, hàng khoá cũng còn hạn chế.
Sự phối kết hợp giữa các cơ quan mà Quốc hội với các cơ quan chủ trì xây dựng chương trình
tại Chính phủ còn yếu. Các cơ quan của Chính phủ thì cứ trình theo yêu cầu của công tác quản
lý ngành, lĩnh vực (hoặc như quan niệm phải có luật, pháp lệnh của ngành mình, như đã trình
bày) mà không có sự tham gia của các Uỷ ban của Quốc hội(nếu có là khâu thẩm tra theo chức
năng, chứ không tham gia ngay từ đầu) hoặc của công chúng . Theo chúng tôi, nếu làm được
việc này thì đây cũng là nội dung giám sát và hoạt động của các Uỷ ban.
Cách làm việc của một số Uỷ ban hiện nay là “ cứ sang sân thì mới xử lý” là hạn chế tính khoa
học, khách quan của chương trình. Phải chăng, ngay từ đầu cần có sự phối hợp của các Uỷ ban
trong việc sáng kiến pháp luật từ phía các Bộ, ngành (về mặt tính cấp thiết, cơ sở khoa học,
đánh giá thực tiễn, các lợi ích kinh tế -xã hội của các dự án trong tương lai v.v…) sẽ làm cho các
dự án luật, pháp lệnh có sức sống trong thực tiễn, tránh sự chồng chéo, không khả thi và hiệu
quả không cao
3. Mối quan hệ trong việc định hướng tư tưởng cho việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh.
Tính khả thi của các luật, pháp lệnh chính là tư tưởng, quan điểm của Đảng được thể hiện
thông qua nội dung của chúng. Hơn ai hết, Quốc hội, mà cụ thể là các đồng chí lãnh đạo Quốc
hội, Chính phủ (lãnh đạo chính trị) thường giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng, nắm bắt định
hướng và sự chỉ đạo của Đảng. Việc chỉ đạo, định hướng này là điều kiện đầu tiên bảo đảm cho
chất lượng, hiệu quả của công tác lập pháp. Hoạt động này hiện nay chưa được thực hiện vì
thực tế, ý tưởng xây dựng luật, pháp lệnh là của các Bộ, ngành chứ chưa thực sự là sự chỉ đạo
của Quốc hội, Chính phủ, mặc dù Quốc hội là cơ quan thực hiện chức năng lập pháp (khi có
sáng kiến, theo quy trình, Chính phủ sẽ trình chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo đề nghị
của các Bộ)
Định hướng tư tưởng của các dự án bao gồm:
- Quan điểm, chính sách của Đảng cần thể hiện;
- Thực tiễn hoạt động quản lý (những vướng mắc cần tháo gỡ để giải quyết các mối quan hệ xã
hội sẽ được luật, pháp lệnh điều chỉnh);
- Tác động của Nhà nước vào quá trình quản lý phù hợp với từng thời điểm cụ thể (các giai
đoạn chuyển đổi của nền kinh tế, vấn đề xã hội hoá…)
- Mục tiêu và hiệu quả của các dự án.
Thực tế cho thấy, các ban soạn thảo rất lúng túng về định hướng chính trị của các dự án luật,
pháp lệnh. Tình trạng không ai chỉ đạo hoặc xin ý kiến (khi gặp khó khăn) thì mất nhiều thời gian,
dẫn đến chất lượng các dự án thấp (các dự án Luật Phòng, chống tham nhũng, Kinh doanh bất
động sản, Đầu tư, Doanh nghiệp … là những ví dụ).
4. Kết nối thời gian thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh giữa các cơ quan của Quốc
hội với Chính phủ
Đây là nội dung mối quan hệ nhằm tăng cường tiến độ lập pháp của Quốc hội. Thông thường,
Nghị quyết của Quốc hội về chương trình được ban hành, UBTVQH phân công, nhưng không có
thời gian tiến độ, do đó Chính phủ rất bị động. Nên chăng, cần có sự bàn thảo rằng, Luật A,
pháp lệnh B sẽ thông qua thời gian nào, thông báo chính thức bằng văn bản cho Chính phủ
hoặc các cơ quan chủ trì soạn thảo.
Kinh nghiệm cho thấy, dự án luật, pháp lệnh nào được thông báo trước (mà Chính phủ biết
được) thì các cơ quan của Chính phủ sẽ chủ động hơn. Mặt khác, các cơ quan của Chính phủ
cũng cần có lịch làm việc cụ thể để có sự tham gia từ phía các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là
các cơ quan có trách nhiệm thẩm tra.
5. Mối quan hệ trong quá trình soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh.
Đây là khâu quan trọng, thông thường thường được các cơ quan tổ chức thực hiện tốt( soạn
thảo, cung cấp thông tin, hội thảo, góp ý kiến trực tiếp...). Các cơ quan của Quốc hội cần tham
gia ngay từ đầu quá trình soạn thảo soạn thảo. Thực tiễn, có ý kiến cho rằng, nếu các đại diện
của các cơ quan của Quốc hội tham gia Ban soạn thảo sẽ không khách quan, bởi họ là cơ quan
thẩm tra. Theo chúng tôi, việc phân biệt lập pháp, hành pháp ở nước ta cũng chưa phải triệt để
như các nước có chế độ tam quyền phân lập, để rồi “ quyền anh, quyền tôi”. Do đó, trong quá
trình soạn thảo nên có sự tham gia của các cơ quan của Quốc hội. Mặt khác. nếu được, cần có
sự tham gia của các đại biểu Quốc hội chuyên trách (như đã làm ở một số đạo luật) sẽ nâng cao
được chất lượng lập pháp.
Quá trình này cũng là điều kiện, cơ sở cung cấp các thông tin cần thiết cho Quốc hội, UBTVQH,
các cơ quan của Quốc hội trong việc xem xét, cho ý kiến hoặc thẩm tra, tránh được việc lặp lại
các ý kiến của Ban soạn thảo đã đưa ra thảo luận tại các bộ, ngành của Chính phủ.
III. Một số kiến nghị
1. Về mặt pháp lý
Ngoài các Quy chế làm việc của Quốc hội, Chính phủ; Quy chế ban soạn thảo, tổ biên tập, các
cơ quan của Chính phủ và Quốc hội cần có một quy định (dưới hình thức Nghị quyết của
UBTVQH) về tăng cường năng lực cho hoạt động lập pháp thông qua các mối quan hệ giữa
Quốc hội và Chính phủ (đặc biệt là giữa cơ quan của Quốc hội với các Bộ, ngành thuộc Chính
phủ); trong đó chú trọng đến nội dung các mối quan hệ đã trình bày ở trên để đảm bảo tiến độ
xây dựng luật và đáp ứng hội nhập, cần nghiên cứu xây dựng dự án: “ một luật đã sửa đổi, bổ
sung, thay thế bằng nhiều luật”. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và nâng cao hiệu lực của luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (ở trung ương) trên cơ sở của các quy định hiện hành của
Chính phủ.
2. Tăng cường hoạt động thông tin pháp luật giữa các cơ quan của Quốc hội với các Bộ, Ban
ngành của Chính phủ. Đây là cầu nối để chúng ta xây dựng có chất lượng các dự án. Những
thông tin lập pháp của Quốc hội đã có truyền thống qua nhiều khoá Quốc hội sẽ là bài học kinh
nghiệm cho công tác lập pháp nói chung và cho các ban soạn thảo nói riêng.
3. Đổi mới hoạt động của Chính phủ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh sao cho có chất
lượng bằng các hình thức hội thảo, phản biện , lấy ý kiến rộng rãi nhân dân, các doanh nghiệp
hoặc các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của dự án. tăng cường công tác thẩm định của
Bộ Tư pháp, thẩm tra của Văn phòng Chính phủ (Ban xây dựng pháp luật) để nâng cao chất
lượng xây dựng luật, pháp lệnh.
4. Giảm bớt tình trạng luật, pháp lệnh chờ Nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ,
ngành. Cần hiểu rằng, Luật. Pháp lệnh có đi vào cuộc sống trong điều kiện hiện nay thì cần phải
có các văn bản hướng dẫn. Do đó, để bảo đảm hiệu lực của luật, pháp lệnh, các cơ quan chủ trì
soạn thảo cần trình đồng thời các dự thảo nghị định quy định chi tiết (nếu có) trước khi tiến tới
chấm dứt tình trạng luật khung hoặc sự hướng dẫn quá nhiều của các cơ quan quản lý nhà
nước.
5. Tăng cường chất lượng các chuyên gia xây dựng pháp luật ở các Bộ, ngành, các cơ quan
của Quốc hội. Đặc biệt, cần mở những lớp bồi dưỡng kiến thức (trong và ngoài nước) vầ xây
dựng và hoạch định chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bằng một
chương trình giáo khoa hoặc tài liệu hiện đại, tiên tiến,
6. Tăng cường kinh phí cho hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh. Các dự án luật, pháp lệnh phải
được xem như những công trình khoa học lớn, có sự đầu tư thích đáng về mặt tài chính để thu
hút trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học vào công tác lập pháp./.
1 Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành TƯ khoá VII, Hà Nội 1995, tr 27.
2 Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành TƯ khoá VII.Sdd., tr,31.
3 Xem Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 933/QĐ- TTg ngày 27/8/2004 phê duyệt đề án
nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ .
Tăng cường phối hợp giữa Quốc hội và Thường trực Chính phủ
Ngày 21/2, Hội nghị bàn phối hợp công tác năm 2009 giữa lãnh đạo Quốc hội (QH) và
Thường trực Chính phủ đã được tiến hành tại Hà Nội. Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng
cùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị.
Thời gian qua, mối quan hệ phối hợp công tác giữa Ủy ban Thường vụ QH và Chính phủ ngày
càng chặt chẽ, hiệu quả hơn, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả các kỳ họp
QH, các phiên họp Ủy ban Thường vụ QH, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, cũng như trong
việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của lãnh đạo QH, Chính phủ...
Để công tác phối hợp trong thời gian tới, nhất là năm 2009 đạt kết quả tốt hơn, Hội nghị nhất trí
cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp trong việc xây dựng chương trình công tác, nhất là
chương trình kỳ họp QH, các phiên họp Ủy ban Thường vụ QH, các phiên họp Chính phủ, tránh
trùng lắp về thời gian.
Các nội dung trình QH cần được Chính phủ cho ý kiến sớm, bảo đảm khoảng thời gian cần thiết
để các cơ quan của QH nghiên cứu, thẩm tra. Các dự án luật, pháp lệnh cần được chuẩn bị
đúng tiến độ đề ra và bảo đảm chất lượng; dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải
được xem xét, chuẩn bị kỹ, chú trọng tính khả thi, tránh tình trạng phải rút một số dự án luật,
pháp lệnh ra khỏi chương trình xây dựng pháp luật vì chưa được chuẩn bị tốt.
Nhiều ý kiến đề nghị, cùng với việc quan tâm tăng cường năng lực cho các cơ quan, tổ chức, đội
ngũ cán bộ làm công tác xây dựng luật, tham mưu xây dựng luật, cần xác định rõ trách nhiệm đối
với các cơ quan, tổ chức không đảm bảo tiến độ, chất lượng các dự án luật đã được đưa vào
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Bên cạnh đó, cần xác định rõ mức độ ưu tiên của từng dự án luật, tiếp tục cải tiến quy trình xây
dựng luật... nếu không sẽ khó hoàn thành chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã đề ra. Nhiều
ý kiến cũng cho rằng, cần quan tâm hơn nữa việc thực hiện các kiến nghị, kết luận giám sát;
đồng thời tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội và Ủy ban Thường
vụ QH.
Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đều nhất
trí cho rằng, quan hệ phối hợp công tác giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Thường trực Chính
phủ ngày càng chặt chẽ, hiệu quả, thể hiện ở kết quả công tác chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội
của Chính phủ; các Kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều có đổi
mới, cải tiến, góp phần vào thành tựu phát triển chung của cả nước.
Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng đề nghị, cần tăng cường phối hợp hơn nữa trong việc xây dựng
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, theo hướng thiết thực, hiệu quả, bảo đảm tiến độ, chất
lượng các dự án luật. Muốn vậy, cần cải tiến công tác chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, tránh
sát nút mới trình dự thảo, mặt khác đã đưa vào chương trình thì phải thực hiện, tránh đưa vào rồi
không thực hiện được, mà đã đưa vào thì phải có cơ sở, như vậy mới khả thi.
Chủ tịch QH cho rằng, cần tăng cường phối hợp hơn nữa trong công tác hậu giám sát, thúc đẩy
việc thực hiện một cách hiệu quả các kết luận giám sát; cũng như trong việc xem xét, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước, đặc biệt về ngân sách nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội...
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đồng tình cho rằng sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả hơn nữa
trên các lĩnh vực công tác sẽ bảo đảm xử lý linh hoạt trước những diễn biến của tình hình kinh tế
- xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước và nhân dân.
Hội nghị cũng đã bàn và thống nhất về thời gian tiến hành các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp
Uỷ ban Thường vụ QH, các phiên họp thường kỳ Chính phủ, tránh trùng lắp về thời gian; tăng
cường phối hợp, làm việc giữa các bộ, ngành với các cơ quan liên quan của QH; bảo đảm tiến
độ xây dựng Nhà QH, cũng như bảo đảm phương tiện, điều kiện làm việc cho hai văn phòng...
- Xem thêm -